Kiến thức căn bản về nhiếp ảnh

lkthanh300

New Member
(Bài giới thiệu của asahinguyen tại vnphoto.net)

Exposure (Phơi sáng)

Bản chất của chụp ảnh là sự phơi sáng. Máy ảnh là một hộp tối. Khi bấm nút chụp ảnh, một cánh cửa được mở ra cho ánh sáng bên ngoài đi vào qua ống kính. Ánh sáng tác dụng vào film (hay sensor đối với máy digital _ từ sau đây tôi chỉ nói đến film) để tạo ra hình ảnh. Một bức ảnh ta có thể tạm chia làm hai phần: độ sáng và sự cân đối ánh sáng.

Ta hãy hình dung film là một vật thu sáng. Và độ sáng của bức ảnh quyết định bởi lượng ánh sáng mà film thu được. Khi lượng ánh sáng vào quá nhiều thì ảnh sẽ trắng xóa còn không đủ thì ảnh sẽ bị tối. Một bức ảnh có độ sáng đúng với đối tượng được chụp gọi là đúng sáng.Ngoài yếu tố độ sáng ra, sự cân đối ánh sáng khác nhau sẽ tạo ra những bức ảnh hoàn toàn khác nhau với cùng một độ sáng.

Lượng ánh sáng film thu được gọi là Ev (Expoure value). Chúng ta sẽ quay lại phần Ev này sau. Trước hết bạn sẽ tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến độ sáng của ảnh.

Apeture (Độ mở ống kính)

Độ mở ống kính là phần điều chỉnh cường độ ánh sáng đi qua ống kính. Chúng ta có thể hiểu phần này như là khả năng cho ánh sáng đi qua của ống kính. Cấu tạo bộ phận này bao gồm những lá mỏng ghép lại tạo ra khe hở dạng hình tròn có thể điều chỉnh được. Tương ứng với các độ mở ống kính ta có dãy trị số tiêu chuẩn 1 , 1.4 , 2 , 2.8 , 4 , 5.6 , 8 , 11 , 16 , 32 … các trị số này gọi là F-stop hay Khẩu độ. Tại mỗi F-stop ta có đường kính lỗ mở d tương đương f/1, f/1.4 , f/2 f/2.8 … và f chính là độ dài tiêu cự ống kính. Như vậy ta có thể thấy Khẩu độ càng lớn thì đường kính d càng nhỏ và ánh sáng đi qua ống kính càng ít. Và thêm một điều nữa là cùng một đường kính lỗ mở d nếu độ dài tiêu cự ống kính càng dài thì khẩu độ càng lớn.

aperture1.jpg

aperture_3d1.jpg


Các bạn thường hay thắc mắc tại sao dãy trị số F-stop không phải là 1 ,2 ,3… mà là dãy bội số của căn bậc hai của 2. Trong kỹ thuật chụp ảnh, người ta chọn tiêu chuẩn điều chỉnh độ sáng với một khoảng cách là gấp đôi. Bạn có thể hiểu là khi bạn mở ống kính thêm một khẩu độ có nghĩa là lượng ánh sáng thu được sẽ tăng gấp hai lần. Muốn như thế diện tích lỗ mở phải tăng gấp đôi tương đương với đường kính tăng lên 1.4 lần. Đó là lý do tại sao ta có dãy trị số trên.

Shutter Speed (Thời gian chụp hay tốc độ)

shutter_close1.jpg


Ngoài việc điều chỉnh cường độ ánh sáng đi qua ống kính ta còn có thể điều chỉnh thời gian cho ánh sáng đi vào để thay đổi độ sáng của ảnh chụp. Yếu tố này gọi là thời chụp hay tốc độ chụp. Đơn vị tính là giây.

Thời gian này chính là thời gian màn trập trong máy mở ra để cho ánh sáng đi vào. Thời gian này càng lâu (tốc độ chậm) thì lượng ánh sáng đi vào càng nhiều và ngược lại, thời gian này càng ngắn (tốc độ nhanh) thì lượng sáng đi vào sẽ ít đi.

Cũng như phần độ mở ống kính, theo tiêu chuẩn thì khi tăng một nấc thời gian chụp thì lượng ánh sáng đi vào gấp đôi. Tốc độ chụp nhanh hơn 1s có 1/2 , 1/4 , ….1/125, 1/250….Còn lâu hơn 1s là 2, 4, 8 , 16s…. Ngoài ra còn có ký hiệu B: màn chập mở cho đến khi buông tay bấm nút chụp. Ký hiệu T: màn trập mở cho đến khi bấm nút chụp lần nữa.

Film speed (độ nhạy sáng của film)

Yếu tố này thể hiện khả năng hấp thụ ánh sáng của film.Có nhiều loại film khác nhau. Tuy nhiên hiện thông dụng nhất vẫn là film màu âm bản .loại film này dễ chụp hơn so với các loại khác nên thích hợp cho các bạn mới bắt đầu. Trên mỗi cuộn Film bạn sẽ thấy ghi độ nhạy sáng là 50 , 100 hay 200 ASA… Film 100ASA tốc độ thu sáng gấp đôi so với 50ASA và bằng một nửa so với 200ASA. Film có độ nhạy sáng càng cao thì hình ảnh càng độ mịn hạt càng kém.

Exposure Value (Ev)

Trong nhiếp ảnh, sự kết hợp của độ mở ống kính và tốc độ chụp cho ta một đại lượng đặc trưng gọi là Exposure value (Ev). Ev 0 là khi ta đặt khẩu độ là 1 ở tốc độ chụp là 1 giây. Ev được tính bằng kết hợp hai hàm logarit của giá trị độ mở ống kính (Apeture value) và giá trị của thời chụp (Time Value):

EV = Av + Tv​

Đơn giản hơn, bạn chỉ cần hiểu là với khi bạn mở ống kính thêm một khẩu độ thì thời gian chụp phải giảm đi một nửa (hay ngược lại) thì Ev không thay đổi. Các bạn cần lưu ý một điểm mà các bạn mới chụp hay nhầm lẫn là mở ống kính thêm một khẩu nghĩa là giảm f-number một stop. Ví dụ như từ f/8 về f/5.6.

Ánh sáng tác động vào film còn phụ thuộc vào độ nhạy sáng của film. Độ nhạy sáng của film thì đơn giản như khẩu độ hay tốc độ chụp là tăng gấp đôi thì lượng sáng vào sẽ tăng gấp đôi. Film 100asa thì gấp đôi 50asa, 200asa thì gấp đôi film 100asa… Tùy thuộc vào điều kiện chụp khác nhau sẽ có những chọn lựa khác nhau .Tuy nhiên để đơn giản thì các bạn mới chụp nên căn cứ vào mức chuẩn 100asa.

Quay lại độ sáng của hình chụp, đó là kết quả của việc dựa vào ánh sáng của chủ đề, độ nhạy sáng của film, khẩu độ và tốc độ chụp. Độ nhạy sáng của film thì tất nhiên là càng thấp thì hình ảnh càng mịn. Nhưng không phải điều kiện nào cũng có thể chọn lựa film có độ nhạy thấp được. Chúng ta sẽ quay trở lại vấn đề này trong bài nói về film. Còn bây giờ để đơn giản thì hãy chọn film 100asa và quan tâm đến khẩu độ và tốc độ.

Dưới đây là bảng giá trị Ev để các bạn tham khảo:

Ev-table.jpg


Trong bảng trên, các giá trị Ev giống nhau sẽ nằm trên một đường chéo từ góc dưới bên trái sang góc trên bên phải. Ngay tại một Ev nào đó trong bảng, dóng thẳng sang bên trái và thẳng lên phía trên bạn sẽ tìm được một cặp Khẩu độ và tốc độ tương ứng. Nhìn trong bảng bạn sẽ thấy có nhiều cặp khẩu độ khác nhau cho cùng một Ev.
Depth Of Field ( DOF)

Một thực tế là khi bạn chụp một bức ảnh, độ rõ nét không xuyên xuốt. Khi bạn canh nét vào chủ đề thì trước và sau chủ đề sẽ có khoảng không rõ nét. Khoảng cách mà ảnh còn rõ nét trước và sau điểm lấy nét (tạm) gọi là độ sâu trường ảnh và thường gọi tắt là DOF.Khoảng rõ nét do nhiều yếu tố ảnh hưởng đến. Tuy nhiên yếu tố đầu tiên có thể nói là độ mở ống kính.

Các bạn có thể xem hình minh họa sau đây.

Dof1.jpg


Điểm lấy nét trong tất cả các hình là điểm giữa khoảng 3 – 4 inch. Số 3 và 4 rõ nét trong tất cả các hình. Các điểm còn lại rõ nét dần khi độ mở ống kính khóa nhỏ lại. Đến đây các bạn có thể hiểu rằng khi ống kính khép nhỏ lại thì khoảng rõ nét càng thu hẹp lại.

Giải thích một chút về khoảng rõ nét. Các bạn xem hình bên dưới.

CoC.jpg


Chủ đề là điểm màu vàng và cũng là điểm lấy nét. Vì lấy nét vào chủ đề nên hiển nhiên các tia sáng từ chủ đề qua ống kính sẽ hội tụ trên film. Các điểm khác có cùng khoảng cách với chủ đề đều hiện rõ trên film. Bây giờ hãy xem điểm màu trắng xa hơn chủ đề. Điểm ảnh rõ của điểm trắng sẽ nằm ở phía trước film và ảnh của nó in trên film sẽ là vòng tròn màu trắng. Khoảng trắng đó gọi là Circle of Confusion (CoC).

Vấn đề đặt ra ở đây là làm cách nào để thu hẹp vòng tròn lờ mờ đó để ảnh rõ nét hơn. Trong hình minh họa dưới đây, bạn thấy từ một điểm sẽ có một chùm tia sáng đi qua ống kính và tạo ảnh trên mặt phẳng film. Khi khóa bớt cửa điều sáng lại nghĩa là một số tia sáng bị chặn lại (phần màu xanh nhạt). Do đó phạm vi của CoC cũng được thu hẹp lại và hình ảnh trở nên sắc nét hơn.

CoC1.jpg


Hyperfocal

Khi bạn lấy nét vào điểm xa vô cực thì hình ảnh sẽ rõ nét từ vô cực cho đến một khoảnhg cách nào đó trước ống kính. Khoảng cách không rõ nét trước ống kính khi bạn lấy nét ở vô cực gọi là Hyperfocal.

hyperfocal1.jpg


Sau khi xác định được khoảng hyperfocal bạn lấy nét lại vào khoảng cách đó. Lúc này độ sâu trường ảnh DOF sẽ bắt đầu từ giữa khoảng hyperfocal đến vô cực. Thực tế đây là DOF lớn nhất mà bạn có thể đạt được. Tuy nhiên bạn phải lưu ý rằng khoảng cách hyperfocal này không cố định mà phụ thuộc vào khẩu độ ống kính. Ở mỗi F-stop thì khoảng cách hyperfocal đều khác nhau.

hyperfocal2.jpg


Như vậy trong trường hợp chụp hình cần lấy dof thật rộng, hình rõ nét trong phạm vi lớn nhất thì bạn sẽ lấy nét vào khoảng cách hyperfocal kết hợp với đóng nhỏ độ mở ống kính lại.

Các chế độ chụp căn bản

Trên máy SLR hiện nay đều được hỗ trợ bằng các thiết bị điện tử. Thông thường trên các máy sẽ có 4 chế độ căn bản sau đây:

Manual (Thủ công)

Các thông số chụp khẩu độ và tốc độ sẽ chọn hoàn toàn bằng thủ công. Đôi khi bạn cố ý muốn chụp một bức ảnh với các thông số khác biệt dạng như dư sáng overexposure hay thiếu sáng (underexoposure) … bạn sẽ phải chọn chế độ chụp này. Ký hiệu trên máy: M 

Program (Tự động hoàn toàn)

Hai thông số tốc độ và khẩu độ sẽ do máy hoàn toàn tự chọn. Công việc còn lại của bạn là lấy nét và chụp. Ký hiệu trên máy: P

Aperture-Priority (Chọn khẩu độ - Tốc độ chụp tự động)

Chế độ này người chụp sẽ chọn khẩu độ và tốc độ chụp sẽ do máy tự động đưa ra. Chế độ này thường được chọn để kiểm soát vùng ảnh rõ DOF. Tuy nhiên cần lưu ý khi ánh sáng thiếu việc chọn độ mở ống kính bé có thể làm tốc độ chụp giảm thấp khiến ảnh bị run tay. Ký hiệu trên máy A hay Av

Shutter speed-Priority ( Chọn tốc độ chụp - Khẩu độ do máy tự chọn)

Chế độ này người chụp sẽ chọn trước tốc độ chụp, máy sẽ tự động chọn khẩu độ tương ứng. Chế độ này thường được chọn khi chụp ảnh động nhằm kiểm soát hiệu quả tạo động trên ảnh. Ký hiệu trên máy S hay Tv

Trên đây là các chế độ căn bản. Các nhà sản xuất còn thiết kế các chế độ tự động khác như chụp thể thao, chụp phong cảnh, chụp chân dung… thì các bạn sẽ xem trong hướng dẫn đi kèm theo máy./.

Mã:
Nguồn:topplay.vn
 

NgôMây

New Member
BỐ CỤC TRONG NHIẾP ẢNH

Em đọc được bài này của bác Phan Hồ ( Phan Tây Hồ ) thấy hay nên rinh về đây, không biết có hữu ích không? Vì em thấy ở đây toàn cao thủ cả.
Nghệ thuật bố cục tạo hình
Trong các ngành nghệ thuật tạo hình như hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc… các nghệ sĩ thường áp dụng những nguyên tắc bố cục để sắp xếp chủ thể vào đúng vị trí “hợp nhãn” với người xem.

Trong nghệ thuật nhiếp ảnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh phải làm việc theo quy trình ngược lại. Đứng trước một phong cảnh thiên nhiên lãng mạn hoặc hùng vĩ, ít có người nghệ sĩ nào cầm máy và bấm máy ngay được liền. Mà trước đó đã có sự cân nhắc vị trí chủ thể, sắp xếp chủ đề rồi mới bấm máy.
Nguyên tắc bố cục không phải là giáo điều cứng nhắc mà nó là những thủ pháp giúp nghệ sĩ đặt chủ đề đúng vào những vị trí xứng đáng và thích hợp trên khung ảnh. Hoặc cũng thể là những thủ pháp bố cục tạo hình theo những quy luật mỹ học.

Bố cục tạo hình theo nguyên tắc vần luật (bố cục theo mô thức)
Vần luật là nghệ thuật tạo hình theo quy luật sắp xếp các hoạ tiết, mảng màu, đường nét, hình khối hoặc những hình tượng biểu thị cảm xúc theo nguyên tắc lặp đi lặp lại có nhịp điệu hoặc biến tấu. Có 4 thể loại vần luật là vần luật liên tục, vần luật tiệm biến, vần luật biến tấu và vần luật giao thoa. Một khi chủ đề được sắp xếp theo đúng thủ pháp vần luật, bức ảnh sẽ tạo ra được một cảm xúc hợp nhãn, ưa nhìn. Cung bậc của vần luật sẽ dẫn dắt người xem, nhờ đó tác phẩm tạo được sự lôi cuốn.

E9D36254896C7B92DCAF3C09DD56548C.jpg

Vần luật liên tục hoặc còn gọi tiết điệu là nguyên tắc bố cục các hoạ tiết lặp đi lặp lại thay đổi có nhịp điệu. Ảnh: belu gheorghe
5321FB4ECCF78A4CE0EC38EBBBD3AFCE.jpg


Vần luật tiệm biến là nguyên tắc bố cục các hoạ tiết lặp đi lặp lại có thay đổi theo quy luật (tăng dần, giảm dần hoặc biến thể theo một dạng hình học, màu sắc). Ảnh: Therese Aldgard
D42B3E61A53D4DC2BF3C315C61D17B0D.jpg


Vần luật biến tấu là nguyên tắc bố cục các hoạ tiết lặp đi lặp lại có biến tấu (có thay đổi đột biến). Ảnh: Zahra Delavari

14EB91594E12F30FA3E2B4887E7796E1.jpg

Vần luật giao thoa hoặc còn gọi là vần luật đan xen là thủ pháp hoà trộn, đan xen các hệ vần luật. Ảnh: Allard One

14EB91594E12F30FA3E2B4887E7796E1.jpg

Bố cục chủ đề trên “đường mạnh - điểm mạnh”
Trên các thể thức ảnh theo tỉ lệ 1:1 (ảnh vuông) hoặc 3:2 hoặc 4:3 (ảnh hình chữ nhật) luôn tồn tại 5 điểm ảnh có sức hút mãnh liệt với tâm lý thị giác của người xem. Một điểm nằm ở trọng tâm bức ảnh và bốn điểm còn lại là giao điểm của các trục tỉ lệ vàng với khung ảnh. Năm điểm này được gọi là 5 điểm mạnh (điểm nhấn). Các trục tỉ lệ vàng với khung ảnh được gọi là đường mạnh.
8851EA663B1244C6E0187C5B3014844F.jpg

Bằng cách dùng option “rule of thirds” khi crop ảnh, Photoshop CS5 hỗ trợ hiển thị điểm trọng tâm và 2 cặp đường mạnh. Ảnh: Phan Hồ


Bố cục đối xứng
Là kiểu bố cục kinh điển đặt chủ thể trên đường trung trực của ảnh, chia không gian ảnh ra thành hai phần đối xứng nhau. Áp dụng thể loại bố cục này “dễ mà khó” vì khi không gian ảnh chia làm đôi, ảnh đánh mất sự linh hoạt, hai phần ảnh chia đều nhau nên không có mảng chính phụ, khó tạo sức thu hút thẩm mỹ cho bức ảnh. Sự lôi cuốn tạo được cô đọng trong nội dung, ý nghĩa, giá trị thẩm mỹ của chủ đề. Sự thu hút thị giác ở thủ pháp này thường thoả hiệp với nghệ thuật bố cục.
DBAB2A0D58395B716DD1545E471BABB2.jpg

Bố cục đối xứng. Ảnh: Therese Aldgar
A978903B181A37BCDF5D46F70A1F35FB.jpg


Bố cục đối xứng. Ảnh: Eugkyr


Nguyên tắc cân đối hai phần ba.
Cân đối không phải là đối xứng, tâm lý thị giác có thể phán đoán được “trọng lượng thị giác“. Một bức ảnh được gọi là cân đối khi phần “sắc nặng” và phần “sắc nhẹ” hoặc các thành phần trong chủ đề tỉ lệ vàng với nhau.
3541E9D94449F94BF4FBE5A28117EA66.jpg

Hai thành phần trong chủ đề (2 đứa bé) có chiều cao tỉ lệ vàng với nhau. Ảnh: Ario Wibisono

Nguyên tắc bố cục này cơ bản dựa vào quy luật tạo hình từ “tỉ lệ vàng”. Từ trước công nguyên, các hoạ sĩ cổ đại đã khám phá ra rằng mọi kiến tạo tự nhiên cho là “cân đối” hoặc có tỉ lệ “đẹp” đều gắn liền với tỷ số 2/3. Trên cơ thể con người (vật tạo hoá đẹp nhất trong vũ trụ), mọi bộ phận đều tỉ lệ 2/3. Trục mắt nằm ở vị trí 2/3 so với khuôn mặt, chiều dài bàn tay tỉ lệ 2/3 so chiều dài từ khuỷu tay đến bàn tay, từ vai đến khuỷu tay tỉ lệ 2/3 so toàn bộ cánh tay, rốn (trọng tâm của cơ thể) nằm ở vị trí 2/3 so với chiều cao cơ thể... Chính vì quy luật tự nhiên như vậy mà “tỉ lệ vàng” đã gắn liền với “tâm lý thị giác thẩm mỹ” tự nhiên của con người.
E0C4F3D83BF23D5CBEC9022367ACC88E.jpg

Các mảng màu liên tục tỉ lệ vàng với nhau tạo nên sự hài hoà cân đối. Ảnh: Batikart


Bố cục xiên (bố cục chéo góc).
Không phải để máy ảnh nghiêng gọi là bố cục theo đường xiên mà nó là nghệ thuật sắp xếp các thành tố hoạ tiết theo hướng từ “góc ảnh tới góc ảnh” theo quy luật đường xoáy phát triển Fibonacci. Theo đó, trọng tâm của bức ảnh sẽ ở một góc ảnh này và phát triển theo đường xiên tới góc ảnh kia. Đường chéo luôn là đường dài nhất, nhờ vậy nếu các hoạ tiết bố trí theo đường xiên thì nội dung và số lượng hoạ tiết sẽ được gia tăng.
E1BFF72C83B2581A63838A51754B5B8B.jpg

Bố cục xiên. Ảnh: Hardibudi


Bố cục tạo hình trong khung
Thủ pháp này nhằm cô đọng nội dung chụp, hạn chế được sự trống trải, dư thừa, nhờ đó hấp dẫn được tâm lý thị giác vào chủ đề. Ngoài ra, khung hình còn mang giá trị ngữ cảnh, người xem có thể hình dung được bối cảnh hoặc địa điểm chụp, nhờ đó mà bức ảnh mang thêm thông tin.
E03DCE30AE469A20948863DDBED56B17.jpg

Bố cục chủ đề trong khung. Ảnh: Chris

BDBDBEAB282E15E25F4FCB4BA1E5BE61.jpg

Bố cục chủ đề trong khung. Ảnh: Phan Hồ


Bố cục tạo hình trên đường dẫn, đường tựa.
Liên kết chủ thể với đường chuyển động hoặc tựa chủ thể vào đường dẫn không chỉ làm cho bố cục chặt chẽ hơn mà còn giúp chủ thể bật ra khỏi quy luật hai chiều của bức ảnh, nhờ đó mà bức ảnh sinh động, cuốn hút.
9421819DAC2AF013DA799FB43C15B0D1.jpg

Dùng đường tựa để nhấn mạnh cho chủ đề. Ảnh: Piotr Krol

54498AEF76C99AE31FBC705255D6A25E.jpg

Liên kết chủ đề với đường dẫn. Ảnh: Phan Hồ


Phá bố cục
“Cân đối là đẹp, nhưng hy sinh thế cân đối sẽ tìm được cái đẹp hơn”. Phá bố cục không phải là không có bố cục, mà có bố cục rồi phá vỡ nó đi để tìm được cái đẹp hơn. “Nguyên tắc” này không phải là sự vô ý thức trong sắp xếp hoạ tiết mà nó là bản lĩnh của người nghệ sĩ phá vỡ thế cân đối hoặc các thể thức bố cục nhằm tạo thêm ấn tượng cho chủ thể.
B69A809FF42ABFB37AC2698812DBD80E.jpg

Phá thế vần luật luật liên tục. Ảnh: Vincent Chung
BF1A48B7319AE54270800C9CE33AA864.jpg


Phá vỡ tỉ lệ cân đối cũng như điểm đặt chủ thể. Ảnh: Karina Marandjian


Bố cục không phải là giáo điều mà nó là nghệ thuật. Nghệ thuật bố cục tạo hình có từ rất lâu được xem như một thủ pháp căn bản của mỹ học nhằm lôi cuốn thị giác thẩm mỹ. Trong mọi tình huống, nhiếp ảnh luôn tồn tại một hoặc nhiều dạng bố cục, vận dụng thủ pháp bố cục sẽ giúp cho tác phẩm hoàn chỉnh và lôi cuốn người xem.


Phan-Hồ
 
Chỉnh sửa lần cuối:

NgôMây

New Member
Ðề: BỐ CỤC TRONG NHIẾP ẢNH

Bố cục trong nhiếp ảnh
Phương pháp tạo hình căn bản

Trích theo sách " Căn bản kỹ thuật nhiếp ảnh " - tác giả Bùi Minh Sơn

I- KHÁI NIỆM:
Bố cục là sự bố trí, sắp xếp những yếu tố tạo hình trên một cục diện, không gian nhất định nào đó. Những ý thức về bố cục đã được hình thành từ thời tiền sử. Văn minh Hy Lạp cổ đại đi đầu trong việc nguyên tắc hoá bố cục. Trong các thời kỳ phát triển của mỹ thuật, bố cục luôn được coi trọng, đôi khi trở thành kinh điển, giáo điều. Ngày nay, bố cục được nhìn cởi mở hơn, quan niệm về “khuôn vàng thước ngọc” không còn tồn tại một cách cứng nhắc và bố cục bây giờ là sự hài hoà, hợp nhãn, đôi khi còn là sự “phá phách”, phục vụ cho ý tưởng sáng tạo của tác giả.

II- PHÂN LOẠI:
Sản phẩm của nhiếp ảnh là những hình ảnh thể hiện trên một mặt phẳng (không gian 2 chiều) thông thường được giới hạn bởi 1 hình chữ nhật hoặc hình vuông. Cũng như những môn tạo hình khác, nhiếp ảnh có những qui luật căn bản về tạo hình, chúng ta sẽ tìm hiểu khái quát về những căn bản đó.
Trong nhiếp ảnh, những yếu tố tạo hình gồm những điểm, đường, vùng, mảng (khối), lưu ý là nhiều điểm có thể tạo thành một đường.
Bố cục trong không gian phẳng có thể được phân loại như sau:
A - BỐ CỤC CÂN ĐỐI.



Bố cục cân đối chia không gian ảnh làm hai phần tương đương nhau theo đường thẳng đứng; đường nằm ngang; đường chéo hoặc đường cong. Một bố cục cũng được xem là cân đối khi chủ thể được đặt vào giữa ảnh.
Bố cục cân đối tạo cho ảnh sự nghiêm trang, khẳng định hoặc cố ý tạo sự cân đối. Bố cục này dễ làm ảnh trở nên đơn điệu, cứng nhắc, thiếu sinh động. Đây là loại bố cục khó dùng, có thời gian bị coi là cấm kỵ. Tuy thế, nếu áp dụng đúng tình huống mục đích có thể dễ gây ấn tượng.
Ngưới ta thường dùng bố cục cân đối trong các chủ đề về kiến trúc dinh thự, quãng trường, công trình kiến trúc tôn giáo, tượng đài, ảnh thờ tự, ảnh hồ sơ…


1.jpg

__________________
 

NgôMây

New Member
Ðề: BỐ CỤC TRONG NHIẾP ẢNH

B-BỐ CỤC CHUẨN MỰC.



Đây là hình thức bố cục được sử dụng phổ biến nhất, nó được xem là “tỷ lệ vàng” là chuẩn mực kinh điển, không riêng gì cho nhiếp ảnh mà cả những nghành mỹ thuật khác nữa. Bố cục chuẩn mực tạo nên 1 không gian sắp đặt hài hoa, có chính, có phụ. Nhằm cụ thể và hệ thống hoá phương thứ bố cục này, người ta xác định các dường mạnh, điểm mạnh nhằm tạo các điểm nhấn, điểm dừng của nhãn cảm.

1-ĐƯỜNG MẠNH – ĐIỂM MẠNH.

a- Đường thẳng đứng – đường nằm ngang
Người ta chia mỗi chiều của bức ảnh ( hình chữ nhật hoặc hình vuông - giới hạn không gian của ảnh) ra làm 3 phần bằng nhau, từ đó vẽ những đường song song với các cạnh.
- 2 đường song song với cạnh ngang, gọi là 2 đường mạnh nằm ngang.
- 2 đường thẳng song song với chiều đướng, gọi là 2 đường mạnh thẳng đướng.
- 4 giao điểm của các đường mạnh cho chúng ta 4 điểm được gọi là 4 điểm mạnh.
Dựa trên các đường mạnh chúng ta có thể chia không gian thành nhiều phần hoặc đặt những thành phần cần nhấn mạnh của bối cảnh vào hoặc gần với đường mạnh, điểm mạnh. Những đường mạnh, điểm mạnh cho phép ta tạo những “trọng lương thị giác”, những điểm nhấn của bố cục.
02-11.jpg


03-9.jpg

THI DỤ:
04-6.jpg
04-6.jpg


b- Đường chéo – đường cong
Khi chụp ảnh, chúng ta không chỉ gặp đường thẳng đứng, đường nằm ngang mà rất nhiều khi, hoặc do bối cảnh có sẵn hoặc do ý tưởng thực hiện chúng ta còn khai thác những đường chéo (đường xiên), đường cong (đường uốn lượn). Vậy thế nào là một đường chéo, đường cong mạnh và các điểm mạnh của những đường ấy?
-Đường mạnh:
Một đường chéo hay một đường cong được xem là mạnh khi:
- Xuất phát từ 1 góc của bức ảnh (hình chữ nhật hoặc hình vuông) đến điểm chia 1/3 của cạnh đối diện.
- Hoặc xuất phát từ điểm 1/3 của cạnh này đến điểm 1/3 của cạnh kia.
Như vậy, chúng ta có nhiều đường chéo hay đường cong mạnh trên một bức ảnh.
Điểm mạnh:

Điểm mạnh trên đường chéo hay đường cong được hình thành bởi giao điểm của đường cong, đường chéo đó với 2 đường mạnh thẳng đứng hoặn nằm ngang, các đường mạnh này được xác định bởi vùng không gian ưu tiên.
Đường chéo hay đường cong trên bức ảnh chia không gian ảnh ra làm 2 phần (thường là 1 hình tam giác và 1 hình thang trong bố cục chéo). Phần không gian chứa 3 cạnh của bức ảnh là không gian ưu tiên.
Đường mạnh thẳng đứng hoặc nằm ngang được sử dụng là đường song song với 2 cạnh của không gian ưu tiên trên.
05-5.jpg

06-5.jpg

1-VÙNG MẠNH – VÙNG TỰA.

Trong thực tế, với những khái niệm về đường và điểm mạnh đôi khi làm người chụp bối rối vì nhiều trương hợp những yếu tố đó khá “trừu tượng”. Để cụ thể hơn chúng ta tìm hiểu thêm khái niệm về vùng ( hoặc hình khối).
Trong một không gian khi các đường, điểm không hiện diện cụ thể hoặc giả khi chụp chủ đề nằm trong một bối cảnh có nhiều mảng khối, chúng ta cần ứng dụng thêm khái niệm về vùng mạnh và vùng tựa.
a-Vùng mạnh:
Một vùng mạnh được hình thành bởi một đường mạnh và 2 điểm mạnh nằm trên đường mạnh đó. Như vậy trên 4 trục của các đường mạnh chúng ta có 4 vùng mạnh tương ứng.
6a.jpg

b - Vùng tựa:

07-3.jpg

Vùng tựa là vùng nằm tại 4 góc của không gian ảnh, trong những trường hợp nếu ứng dụng vùng tựa, bố cục ảnh sẽ vững vàng hơn, vùng tựa còn rất hiệu quả khi dùng để “gói” không gian khi hậu cảnh quá tống trải, dư thừa (bằng tiền cảnh hoặc “đè đậm” các góc ảnh)
THÍ DỤ:

08-4.jpg


-THÍ DỤ ỨNG DỤNG.

Dưới đây chúng ta cùng xem một thí dụ ứng dụng và hiệu quả của các đường, điểm, vùng trong bố cục. Thí dụ này dựa trên bối cảnh biển và những con thuyền và khai thác những yếu tố phụ của bối cảnh.
10a.jpg


- Hình 1:
Ứng dụng đường mạnh nằm ngang (phía trên) vào đường chân trời (giả dụ bầu trới khi ấy không có gì đặc biệt), một con thuyền được đặt vào một vùng mạnh.
- Hình 2:
Vì hình 1 còn rất đơn điệu nên đặt thêm một con thuyền vào điểm mạnh (B) phía phải bên trên cũng là để có chính (thuyên lớn) có phụ (thuyền nhỏ).
- Hình 3:
Khai thác thêm những yếu tố phụ như những cành cây loã xoã được đặt vào vùng tựa ở góc trên làm tiền cảnh đồng thời để che bớt không gian thừa của bối cảnh.
- Hình 4:
Có thể dựa trên bối cảnh khai thác thêm một vùng tựa ở góc dưới bên phải tạo cho bố cục vững hơn, cân bằng hơn.

- Chúng ta nhận thấy từ hình 1 đến hình 4 bức ảnh từng bước hoàn chỉnh hơn về bố cục.
C - BỐ CỤC HỔN HỢP


Trong thực tế, nhiều trường hợp để tạo một bố cục phong phú, uyển chuyển, chúng ta có thể vận dụng cùng lúc 2 hay nhiều phương thức bố cục. Thông thường, bố cục cân đối và bố cục chuẩn mực được vận dụng song hành với nhau. Hình thức bố cục này rất linh động và ứng dụng ngày càng phổ biến.
10-2.jpg
 
Chỉnh sửa lần cuối:

NgôMây

New Member
Ðề: BỐ CỤC TRONG NHIẾP ẢNH

D-BỐ CỤC TRONG ẢNH CHÂN DUNG

12-2.jpg


Với ảnh chân dung, khuôn mặt người là chủ thể của bức ảnh. Do vậy, nếu chụp chân dung cả người hoặc 2/3 người, ta nên đặt khuôn mặt(đầu) vào điểm mạnhhay đường mạnh phía bên trên.Với chân dung nửa người, ta nên đặt 1 hay 2 con mắt của người mẫu nằm trên đường mạnh phía bên trên, tốt hơn hết là đặt 1 con mắt của người mẫu vào đúng điểm mạnh.
Cần lưu ý đến hướng nhìn của người mẫu: Hướng nhìn phải có không gian rộng hơn phần còn lại.
THÍ DỤ:
13-1.jpg
 

NgôMây

New Member
Ðề: BỐ CỤC TRONG NHIẾP ẢNH

E-BỐ CỤC PHÁ CÁCH
14-2.jpg

Một khi bức ảnh có bố cục không theo một phương thức nào cụ thể hoặc dĩ còn phá bỏ các qui phạm, tạo được “cú sốc”, ấn tượng đặc biệt trong tạo hình, chúng ta có thể xem đó là một bố cục phá cách. Vì vậy, bố cục phá cách thường rất khó và ít khi xuất hiện, muốn thực hiện một bức ảnh có bố cục phá cách, người cầm máy thường phải có bản lĩnh.
Hơn nữa, bố cục phá cách còn phải chứa đựng môt ngôn ngữ ảnh cũng phải rất đặc biệt thì tác phẩm mới được xem là thành công.


F-CẮT CÚP ẢNH

Cắt cúp ảnh là một công viêc được gọi là “bố cục lần thư 2”. Khi chúng ta chụp 1 bức ảnh nhưng vì lý do nào đó, bố cục ban đầu không tốt, chúng ta sẽ cắt bớt 1 hay nhiều chiều của bức ảnh để có một bố cục như ý.
 

thangkho1987

New Member
Bài này trong thời gian tìm hiểu về một số những điều căn bản cần biết khi chụp hình. Tự nghĩ chẳng hiểu mấy cái số ghi trên máy ảnh nó có cái ý nghĩa mô tê chi nên ngồi google. Thấy rất cần thiết cho những anh em nào mới tập tành và tìm hiểu về nhiếp ảnh :D nên có ý trích dẫn và share lại cho anh em
THẾ GIỚI CỦA ỐNG KÍNH

I. Những khái niệm cơ bản
I.1. Tại sao máy ảnh của tôi lại không kèm theo một ống kính? Nó chẳng rẻ hơn sao?
Không, đây thực sự là một điểm lợi. Thứ nhất, các máy ảnh thay thế được ống kính cho phép bạn gắn bất kỳ ống kính nào bạn cần. Không như các máy du lịch đơn giản với ống kính không thể tháo rời bạn không bị hạn chế bởi nhà sản xuất thân máy. Thứ hai, mỗi người đều có nhu cầu và ngân sách khác nhau bởi vậy thông thường mong muốn không dừng lại ở một ống kính, bạn có thể chọn các ống kính phù hợp với mình. Thứ ba, điều gì xảy ra khi bạn mua một máy ảnh khác? Bạn sẽ có hai ống kính giống hệt nhau.
Canon bán nhiều máy ảnh EOS kèm theo ống kính. Những ống kính này gọi là ống kính bộ, nhưng thẳng thắn mà nói không phải tất cả chúng đều là các ống kính chất lượng cao. Thường thường, bạn thích mua thân máy phù hợp với mình và tìm những ống kính tốt gắn lên nó.
I.2. Thế nào là ống kính góc rộng (wide), ống kính tiêu chuẩn (normal) và ống kính tiêu cự dài (tele)?
Bạn đang cố chụp một số người bạn nhưng bạn không thể đưa tất cả mọi người vào trong ảnh. Bạn bước lùi lại phía sau nhưng có một bức tường, một vách đá hoặc cái gì đó khiến bạn không thể làm được điều này, vì vậy bạn phải bảo mọi người xích lại gần nhau hơn. Hoặc bạn nhìn thấy một con chim ở phía xa, bạn vồ lấy máy ảnh và bạn sẽ có một bức ảnh bầu trời với một đốm tí xíu vô vọng ở giữa khung ảnh.
Trong mỗi trường hợp trên, trường nhìn tạo ra bởi ống kính không phù hợp với chủ đề của bạn. Trường hợp thứ nhất, ống kính của bạn không đủ “rộng” để lấy toàn cảnh và trong trường hợp thứ hai ống kính của bạn không đủ “dài”. Có ba loại ống kính chính được phân chia theo “lượng cảnh vật” mà chúng thu được, và trường nhìn của mỗi loại được xác định bởi một đặc tính quang học gọi là chiều dài tiêu cự của ống kính.
Một ống kính được gọi là normal nếu trường nhìn tương tự như trường nhìn của mắt người. Thông thường, một ống kính normal trên máy phim 35 mm có chiều dài tiêu cự là 50 mm hoặc tương đương. Ống kính normal phù hợp để chụp gần nhưng không tiến được quá gần vào đối tượng, như khi chụp một ảnh bán thân trong một căn phòng bình thường.
Một ống kính góc rộng có thể tạo được một vùng cảnh vật lớn hơn. Điều này có hai điểm lợi- thứ nhất bạn có thể có một vùng phong cảnh rộng lớn và thứ hai là bạn chụp được một khu vực rộng hơn trong một căn phòng bình thường. Nếu bạn chụp một nhóm bạn bè trong một bữa tiệc tối bạn sẽ cần một ống kính góc rộng trừ khi bạn có thể lùi ra xa để chụp được tất cả mọi người. Trên máy ảnh 35 mm, ống kính góc rộng có chiều dài tiêu cự là 35 mm hoặc nhỏ hơn.
Nhìn qua một ống kính tiêu cự dài (tele) tựa như nhìn qua một kính viễn vọng vậy, nó làm hẹp góc nhìn và làm đối tượng có cảm tưởng gần lại hơn trong thực tế. Một ống kính tiêu cự dài có chiều dài tiêu cự khoảng 70 mm trên máy ảnh phim 35 mm.
Đây chỉ là sự phân loại chung chung, tất nhiên có rất nhiều chủng loại ống kính trong mỗi nhóm trên. Chẳng hạn, bạn có thể có một ống kính 28mm, là ống góc rộng vừa phải không đắt tiền, hoặc bạn có thể có ống kính 14 mm rất đắt có thể chụp cả một vùng cảnh lớn, rất tốt khi mô tả bầu trời rộng lớn. Tương tự bạn có thể gắn ống kính 85 mm lên máy ảnh để chụp chân dung, hoặc bạn có thể bán ôtô của mình đi để tậu một ống kính 600 mm mà muốn mang đi đâu bạn phải có cả một va li to đùng nhưng cho phép bạn chụp khuôn mặt của một chú chim từ khoảng cách xa lắc.

I.3. Sự khác biệt giữa ống kính đa tiêu cự (zoom) và ống kính một tiêu cự (prime).
Ống kính một tiêu cự là ống kính mà trường nhìn (và chiều dài tiêu cự) không thể điều chỉnh được, chỉ có một cách để chụp được nhiều hay ít đối tượng là bạn phải tiến lại gần hay lùi xa khỏi vật chụp (đôi khi gọi là zoom bằng chân, dù kỹ thuật này không tạo ra hiệu quả giống hệt như khi thay đổi chiều dài tiêu cự) hoặc phải mang theo rất nhiều ống kính với các chiều dài tiêu cự khác nhau để thay thế chúng tuỳ tình huống chụp.
Một ống kính đa tiêu cự là ống kính mà trường nhìn có thể thay đổi. Chẳng hạn nếu bạn không thể chụp hết nhóm bạn của mình, bạn chỉ cần xoay vòng zoom trên ống kính cho đến khi đạt được yêu cầu, hoặc khi con chim ở quá xa bạn có thể quay ngược lại để kéo nó lại gần hơn.
Cho đến cuối những năm 1980, ống kính một tiêu cự vẫn là loại được bán chủ yếu bởi vì từ khía cạnh quang học việc chế tạo ống kính một tiêu cự chất lượng cao chụp được những bức ảnh sắc nét vẫn rẻ hơn nhiều so với chế tạo một ống kính đa tiêu cự loại thường thường. Nhưng ống kính một tiêu cự rõ ràng là bất tiện vì bạn sẽ phải đi tới đi lui khi chụp hình. Cuối những năm 80, ống kính đa tiêu cự càng ngày càng thông dụng hơn. Giờ đây rất khó tìm các ống kính một tiêu cự giá thấp vì mọi người đều thích ống kính đa tiêu cự hơn.
Vậy tại sao bạn vẫn muốn ống kính một tiêu cự ? Do ống kính một tiêu cự dễ sản xuất hơn và có ít nhóm thấu kính hơn nên ống kính một tiêu cự thường cho một bức ảnh sắc nét hơn phần lớn các ống kính đa tiêu cự. Hoặc nếu bạn muốn có nhiều ánh sáng hơn qua ống kính để có thể chụp ngay tại các vị trí thiếu sáng thì ống kính một tiêu cự sẽ phù hợp hơn vì rất khó sản xuất ống kính đa tiêu cự thoả mãn yêu cầu này. Một số nhiếp ảnh gia nhiều tuổi, khó tính cho rằng sử dụng ống kính một tiêu cự rất quan trọng đối với các nhiếp ảnh gia trẻ tuổi vì buộc họ phải học về chiều dài tiêu cự và luật phối cảnh.
Bạn luôn muốn có một ống kính nhỏ, nhẹ, đa tiêu cự, thu nhận được nhiều ánh sáng, tạo ra một bức ảnh tương phản tốt, không bị biến dạng và phải rẻ, nhưng đáng buồn là trong thực tế không thể có một ống kính như vậy.
Phần lớn dân nghiệp dư chọn sự linh hoạt của các ống kính đa tiêu cự giá vừa phải chấp nhận chất lượng ảnh trung bình, nhiều người chơi ảnh nghiệp dư khó tính hơn chọn chất lượng ảnh cao hơn và chấp nhận các bất tiện của ống kính một tiêu cự, dân chuyên nghiệp thường tậu các ống kính đa tiêu cự chất lượng cao nặng hàng tấn và trị giá cả một gia tài.

I.4. Vậy ống kính nào nên mua cho chiếc máy ảnh của mình?
Khi chúng ta mua một cái máy ảnh có rất nhiều thứ cần phải cân nhắc đến, bởi vậy câu hỏi này không thể có câu trả lời nếu bạn không giải quyết được các vấn đề sau:
- Chính xác thì bạn muốn chụp ảnh gì?
Mục đích chụp ảnh của bạn sẽ ảnh hưởng đến mọi quyết định khác. Bạn sẽ chụp phong cảnh? Chân dung? Con cái bạn hay các vật nuôi? Hoa? Chim chóc hoang dã? Thể thao? Kiến trúc? Giao thông?...
- Bạn có thể chi bao nhiêu tiền?
Bạn có thể chi cả đống tiền cho ống kính, bởi vậy quyết định ngân sách của bạn là điều rất quan trọng.
- Bạn muốn mua các ống kính mới hay đã sử dụng?
Câu hỏi này cũng đặt ra khi bạn mua một máy ảnh mới.
- Bạn muốn ống kính đa tiêu cự hay một tiêu cự?
Ống kính một tiêu cự nói chung có chất lượng quang học cao hơn ống kính đa tiêu cự trừ những ống kính đa tiêu cự chuyên nghiệp và rất đắt tiền, tuy nhiên các ống kính một tiêu cự thường khiến bạn phải đi vòng vòng để đóng khung đối tượng chụp.
- Bạn muốn có một ống kính nhanh không?
Liệu bạn có muốn chụp trong những hoàn cảnh thiếu sáng mà không cần chân máy hay flash? hay chụp chân dung với hiệu ứng làm mờ nền? những yêu cầu này cần một ống kính nhanh cho phép nhiều ánh sáng hơn đi qua.
- Bạn muốn mua một ống kính của Canon hay của hãng khác?
Các nhà sản xuất ống kính độc lập cho ra rất nhiều ống kính chất lượng nhưng cũng có nhiều ống không được như vậy, bạn sẽ phải cân nhắc và nghiên cứu. Những ống kính này có vấn đề về sự tương thích với máy ảnh của bạn cả hiện tại và trong tương lai.
- Bạn quan tâm đến tính tiện lợi hay chất lượng sản xuất?
Một ống kính lấy nét chậm hoặc bất tiện khi sử dụng thường có chất lượng quang học hơn các ống kính khác trang bị động cơ nhanh. Các động cơ USM dạng vòng tốc độ nhanh, êm và có thể thay thế hoàn toàn lấy nét tay nhưng các ống kính có động cơ này thường đắt hơn các ống kính khác.
- Chất lượng quang học nào là quan trọng đối với bạn?
Độ sắc nét và tương phản được hầu hết chúng ta quan tâm, nhưng còn độ méo hình thì sao? Nhiều ống kính đa tiêu cự rẻ tiền gây méo hình rất nhiều và không thích hợp khi chụp kiến trúc, chúng cũng dễ gây hiện tượng loé hình (làm giảm tương phản và tạo ra các điểm sáng loé trong ảnh khi luồng sáng mạnh như mặt trời chẳng hạn nằm gần hoặc trên khung hình)

I.5. Ống kính nào nên mua cho chiếc máy ảnh EOS?
Có hai điều nên lưu tâm:
Thứ nhất, máy ảnh số EOS rất đắt tiền nên bạn không nên chỉ chú tâm tìm những ống kính rẻ nhất có thể. Nếu bạn đã bỏ ra rất nhiều tiền để mua thân máy thì việc mua một ống kính rẻ tiền là điều không kinh tế chút nào, điều này chẳng khác gì bạn bỏ ra cả đống tiền để mua một dàn CD và âm ly chất lượng cao để rồi cắm vào chúng một cặp loa đồ chơi vậy, chất lượng âm thanh cuối cùng thật khập khiễng với cặp loa này cũng như chất lượng ảnh thật khập khiễng với các ống kính rẻ tiền. Nên tránh mua các ống kính thuộc loại “quá rẻ”.
Thứ hai, trừ vấn đề về hệ số thu nhỏ (crop factor) việc lựa chọn ống kính cho máy KTS giống hệt cho máy phim. Bạn chụp loại ảnh nào? Bạn có cần ống kính góc rộng chụp phong cảnh không? hay cần ống kính đa tiêu cự tốc độ lấy nét nhanh cho chụp thể thao? Một ống kính đa tiêu cự ngắn và nét để chụp chân dung? Bạn sẵn sàng mang theo mình bao nhiêu kg khi chụp ảnh?...
Khác biệt lớn đối với các máy ảnh KTS là hệ số thu nhỏ hay còn gọi là hệ số nhân chiều dài tiêu cự (crop factor), trừ máy EOS 1Ds, 1Ds mark II và 5D có cảm biến ảnh bằng khung hình của phim 35 mm, phần lớn các máy KTS khác có cảm biến ảnh nhỏ hơn khung hình phim 35 mm. Nếu máy ảnh của bạn có hệ số thu nhỏ là 1,6x thì có nghĩa là ống kính 50 mm lắp trên máy này sẽ có hiệu quả y như ống kính 80 mm vậy (=50x1.6), chiều dài tiêu cự không đổi nhưng hiệu quả tạo ra thì thay đổi.
Điều này tạo ra hai lợi thế, bạn có thể sử dụng ống kính 50mm rẻ tiền để sử dụng chụp chân dung và bạn có thể gắn một ống kính đa tiêu cự vào máy và nó sẽ có hiệu quả như một ống kính có chiều dài tiêu cự lớn hơn. Tất nhiên sẽ có điểm thiệt thòi, bạn phải sử dụng ống kính góc rộng hơn để chụp một tấm hình có góc nhìn tương đương khi chụp bằng máy phim, điều này thực sự là vấn đề nan giải đối với nhiều người, chính vì lý do này bạn cần các ống kính góc rộng hơn so với ống kính của máy phim, nếu bạn dùng ống kính 28-105mm trên máy phim thì bạn phải sử dụng ống kính 24-85mm trên máy KTS để cho hiệu quả tương đương.

I.6. Thế nào là ống kính EF-S?
Kể từ khi giới thiệu máy ảnh EOS năm 1987 đến năm 2003, Canon đã tiêu chuẩn hoá các ngàm lắp ống kính cho tất cả các máy ảnh SLR đó là ngàm lắp ống kính EF (ngàm lắp ống kính lấy nét điện tử).
Đến năm 2003, Canon giới thiệu một máy ảnh số mới, chiếc EOS 300D sử dụng ngàm lắp ống kính mới được gọi là EF-S. Tất cả các máy EOS tầm thấp và tầm trung được sản xuất từ đó đều tương thích với cả EF và EF-S, nhưng không một máy phim nào tương thích với EF-S. Bạn phải luôn nhớ rằng thân máy ảnh số với ngàm EF-S đều tương thích với tất cả các ống kính EF thông dụng, tuy nhiên một ống kính EF-S thì chỉ tương thích với các thân máy có ngàm EF-S.
Thân máy EF-S có hộp gương nhỏ khoảng 2/3 so với các máy ảnh EOS khác (hệ số thu nhỏ 1,6x) vì chúng sử dụng cảm biến ảnh nhỏ hơn khung phim 35mm. Các máy ảnh này và các máy ảnh APS đều được gọi là máy ảnh khung hình nhỏ (subframe), máy phim 35 mm và máy KTS dùng khung hình tương đương phim 35mm gọi là các máy ảnh khung hình tiêu chuẩn (full frame)
Máy ảnh EF-S hỗ trợ cho các ống kính với khoảng tiêu cự phía sau ngắn hơn (shorter) so với ống kính EF, đây là lý do vì sao có ký hiệu “S” – các ống kính EF-S có khoảng tiêu cự phía sau ngắn hơn (tức là phần sau của ống kính có thể dịch lại gần mặt cảm biến hơn vì gương lật có kích thước nhỏ hơn). Đặc điểm này khiến Canon có thể sản xuất các ống kính góc rộng rẻ hơn thích hợp với các định dạng ảnh nhỏ của máy ảnh khung hình nhỏ vì rất khó chế tạo các ống kính góc rộng mà khoảng cách tiêu cự phía sau lớn.
Canon sản xuất vô số ống kính EF-S, từ các ống kính bộ rẻ tiền đến các ống kính chất lượng cao với cơ cấu ổn định hình ảnh, cả những ống kính cận cảnh 60mm với ngàm dạng EF-S. Ống kính siêu rộng EF-S 10-22mm 3.5-4.5 USM (tương đương ống kính 16-35mm trên máy khung hình tiêu chuẩn) rất có giá trị cũng như EF-S 17-55mm 2.8 IS USM một ống kính cỡ L thực sự chỉ khác chất lượng sản xuất và tên tuổi.
Vấn đề băn khoăn chính của ống kính EF-S là giá trị của nó trong tương lai, hiện tại cảm biến ảnh khổ rộng tương đương phim 35mm rất đắt tiền nên nhiều máy ảnh sử dụng cỡ cảm biến nhỏ hơn, nhưng trong tương lai khi giá thành sản xuất giảm xuống, số phận của EF-S sẽ ra sao? Bao giờ điều này mới xảy ra và liệu bạn có thể khai thác triệt để sự đầu tư của mình với ống kính EF-S trước khi nó diễn ra không? Vấn đề đầu tiên thì chẳng ai trả lời được, còn vấn đề thứ hai chỉ có chính bạn trả lời được mà thôi.

I.7. Những máy ảnh nào có thể sử dụng ống kính EF-S?
Bất kỳ máy ảnh EOS nào có một chấm đỏ trên ngàm gắn ống kính đều có thể sử dụng ống kính EF, các máy có cả chấm đỏ và một hình vuông trắng đều dùng được cho cả hai loại ống kính EF và EF-S.
Những câu hỏi xung quanh chiều dài tiêu cự của ống kính EF và EF-S có thể làm bạn vô cùng bối rối nếu bạn là người mới bắt đầu, nhưng chỉ cần nhớ một điều quan trọng rằng dù sử dụng ống kính nào đi nữa thì bất kỳ những gì bạn nhìn thấy qua ống ngắm chính là những thứ lưu lại trên tấm ảnh của bạn (what you see is what you get!). Chỉ có một vấn đề nên lưu tâm là hệ số thu nhỏ khi bạn muốn so sánh góc thu hình của một ống kính EF trên máy ảnh khung hình tiêu chuẩn so với khi lắp trên máy ảnh khung hình nhỏ (hoặc so với một ống kính EF-S trên máy ảnh khung hình nhỏ).

I.8. Phân biệt ống kính EF và EF-S.
Thân máy và ống kính EF thông dụng có một chấm đỏ để căn chỉnh giữa ống kính và thân máy. Thân máy EF-S có một hình vuông trắng, khi lắp phải thẳng hàng với hình vuông trắng của ống kính EF-S. Các ống kính EF-S cũng có một vòng cao su phía đuôi gắn với thân máy, đây không phải là phớt chắn nước như của ống kính L, nhưng nó cũng giúp giảm lượng bụi vào thân máy, và theo hãng Canon. vòng cao su này giúp giảm thiểu các rủi ro nếu bạn cố gắng lắp một ống kính EF-S lên một thân máy chỉ dùng ống kính EF.

I.9. Ống kính EF-S và máy ảnh phim.
Không có máy phim 35mm nào sử dụng khung hình nhỏ hơn 36x24 mm, bởi vậy không có máy ảnh 35mm nào hỗ trợ ống kính EF-S. Ngay cả nếu gương lật không chạm vào đuôi ống kính thì hình ảnh sẽ bị mờ bên rìa vì ống kính EF-S không thể tạo ra vòng tròn ảnh lớn đủ cho khung hình của phim 35mm. Về mặt lý thuyết, Canon có thể sản xuất máy ảnh APS hỗ trợ ống kính EF-S vì đây cũng là máy ảnh sử dụng khung hình nhỏ nhưng thực tế thì không vì máy ảnh APS hầu như không sử dụng trong thương mại nữa. Tất cả các máy ảnh có ngàm EF-S đều là các máy ảnh số.

I.10. Đẽo gọt ống kính EF-S.
Vì ống kính EF-S không được thiết kế cho máy chỉ dùng EF, nếu ta cố tình (và dũng cảm!) cắt ngắn nó đi hoặc tháo phần đuôi ra, nó cũng lắp vừa cho mọi máy ảnh EOS, nhưng với các thân máy có kích thước hộp gương lật tiêu chuẩn thì khi chụp, gương lật sẽ va chạm với phần đuôi ống kính. Chính vì điều này, ống kính EF-S chỉ làm việc được trên các máy EOS đời cũ như D30, D60 và 10D, nhưng ngay cả như vậy cũng vấn có vấn đề phát sinh. Chẳng hạn, ống kính EF-S 10-22mm ở góc nhìn rộng nhất sẽ va vào gương của thân máy không hỗ trợ EF-S, kể cả khi hộp gương nhỏ (vì vậy EF-S dù đã “chặt” bớt vẫn không thể dùng trên máy hệ số thu nhỏ 1.3x như 1D chẳng hạn).

I.11. Những ký hiệu ghi trên thân ống kính
Mọi ống kính đều có các ký hiệu ghi trên thân chứa đựng những thông tin quan trọng về đặc điểm của nó. Khi bạn mua ống kính phải rất cẩn thận, hai ống kính tên có vẻ giống nhau nhưng có thể khác nhau một trời một vực kể cả giá tiền.

Ví dụ:
CANON LENS EF 28-80mm 1:3.5-5.6 Φ58mm
EF - Ký hiệu ống kính dạng EF, chỉ thích hợp cho máy Canon EOS mà gần như không lắp được lên máy khác.
28-80mm - Chiều dài tiêu cự của ống kính, trong trường hợp này có hai giá trị vì ống kính là đa tiêu cự có thể thay đổi giá trị từ 28mm ở góc rộng nhất đến 80mm ở góc hẹp nhất, những số này đo bằng milimét biểu thị góc thu hình của ống kính.
1:3.5-5.6 - Chỉ khẩu độ lớn nhất mà ống kính đạt được. Đây là ống kính đa tiêu cự có hai giá trị khẩu độ- f/3.5 và f/5.6, trên thực tế đây là ống kính giá rẻ khẩu độ lớn nhất là f/3.5 ở góc rộng nhất (28mm) nhưng khẩu độ lớn nhất chỉ còn là f/5.6 ở góc hẹp nhất (80mm), một ống kính tương đối chậm, nó không thể cho nhiều ánh sáng đi qua ngay cả khi đã mở hết cỡ.
Không có ký hiệu loại động cơ lấy nét tự động, nghĩa là ống kính này sử dụng các động cơ thông thường (loại AFD hoặc loại siêu nhỏ- micromotor drive) chậm và ồn hơn so với động cơ siêu thanh (USM).
Φ58mm - Chỉ đường kính vòng lắp kính lọc, nói cách khác, kính lọc đường kính 58mm lắp vừa trên ống kính này.

CANON LENS EF 200mm 1:2.8L II USM. Ø72mm.
EF - Ký hiệu ống kính dạng EF.
200mm - Chiều dài tiêu cự của ống kính, có một giá trị vì ống kính là ống một tiêu cự.
1:2.8 - Chỉ khẩu độ lớn nhất mà ống kính đạt được. Đây là ống kính khá nhanh vì giá trị khẩu độ f/2.8 tương đối lớn, nhất là với ống kính 200mm.
L - Chỉ loại ống kính dạng L “luxury” của Canon, nói chung đây là dạng ống kính tốt nhất của Canon, chúng được đánh dấu bằng đường viền đỏ trên đuôi ống.
II - Chỉ phiên bản thứ hai của ống kính này với cùng các đặc tính tương tự.
USM - nghĩa là ống kính này sử dụng động cơ siêu thanh (ultrasonic) để lấy nét. Các ống kính sử dụng USM không thuộc dòng L được đánh dấu bằng đường viền vàng trên đuôi ống. Thường thì các ống kính dòng L đều sử dụng USM nhưng chỉ có một viền đỏ (viền đỏ được ưu tiên và đừng mất thì giờ đi tìm ống kính có hai đường viền!)
Φ72mm - Chỉ đường kính vòng lắp kính lọc, nói cách khác, kính lọc đường kính 72mm lắp vừa trên ống kính này.
II. Các loại ống kính
II.1. Ống kính dòng L của Canon
Canon bán ra rất nhiều ống kính mà họ gọi là ống kính dòng L “luxury”. Đây là dòng ống kính đắt nhất và chất lượng cao nhất của Canon được sơn một vạch đỏ ở đuôi ống. Ống kính dòng L có chất lượng cao hơn các dòng ống kính không L tương đương, trong mỗi ống kính L phải có ít nhất một thấu kính hoặc sản xuất từ tinh thể fluorite (không phải từ thuỷ tinh thường), hoặc là thấu kính aspheric nguyên khối hay từ thuỷ tinh đặc biệt có độ tán xạ thấp. Phần lớn ống kính L có chất lượng chế tạo rất tốt, có vỏ bằng kim loại, chống thấm nước và là các ống kính rất nhanh. Gần như tất cả các ống kính tiêu cự dài dòng L đều được sơn màu trắng. Ống kính dòng L có vẻ chỉ dành cho dân chuyên nghiệp vì vượt khỏi tầm tiền của nhiều người chơi ảnh nghiệp dư, chúng cho ra những bức ảnh tốt nhưng giá thành, trọng lượng và kích cỡ không khiêm tốn chút nào.
Đương nhiên là không chỉ ống kính L mới cho ra những bức ảnh đẹp, nhiều ống kính khác cũng có chất lượng rất cao mà không cần đến những thấu kính fluorite tân kỳ, một số ống kính EF-S cho chất lượng ảnh gần tương đương dòng L tuy chỉ thiếu mỗi viền đỏ mà thôi.
Lưu ý rằng chỉ mỗi Canon là đánh dấu bằng viền đỏ lên đuôi ống L, một số hãng khác cũng đánh đường viền này lên đuôi ống kính của mình nhưng chất lượng sản xuất không theo tiêu chuẩn ống kính dòng L.

II.2. Phân nhóm ống kính
Canon chỉ chia hai nhóm ống kính có L và không L, nhưng những ống kính không L vô cùng đa dạng và đáp ứng đủ loại nhu cầu khác nhau. Theo đường không chính thức, ống kính được chia thành các loại sau:

Nhóm 1: Ống kính phổ thông (consumer)
Những ống kính nằm cuối nhóm này thuộc loại rẻ nhất, chất lượng thấp, chậm, ngàm gắn bằng nhựa, không in thước đo. Phần lớn ống kính bộ- 28-80, 28-90 với độ mở trong khoảng thông dụng 4.0-5.6 thuộc nhóm này, những ống kính này được sản xuất để bán với giá rẻ nhất có thể, chất lượng quang học không cao. Một ngoại lệ: ống kính 50mm 1.8 II, ngàm gắn bằng nhựa, chất lượng quang rất tốt dù giá rẻ. Những ống kính giá rẻ dễ nhận ra vì thân bằng nhựa, phẳng và thẳng, gần đây những ống kính này được in một vòng màu bạc (chrome) ở đuôi ống. Có thể Canon sản xuất nhiều loại ống kính này để dành cho thị trường đường phố, cửa hiệu tạp hoá, siêu thị…nơi mà chất lượng ảnh không được quan tâm như giá cả.

Nhóm 2: Ống kính đa tiêu cự tầm trung (midrange zoom)
Là những ống kính có chất lượng quang học, chất lượng chế tạo tốt hơn, ngàm gắn bằng kim loại và có in thước đo, loại này thường lắp USM để lấy nét, một số ống kính phổ biến của nhóm này: 24-85 3.5-4.5 USM, 28-105 3.5-4.5 USM and 100-300 4.5-5.6 USM. Chúng là những ống kính phổ thông dạng “tử tế” tuy chất lượng quang học không được pro, chụp tốt cả ở góc rộng. Những ống kính này được thiết kế khá tươm tất, vỏ ống được vuốt thuôn, vòng chỉnh tiêu cự phủ cao su chống trượt (không phải bằng nhựa trơn). Ống kính như loại 28-70 3.5-4.5 II và một số ống đa tiêu cự trước đây cũng có chất lượng quang học tốt dù không sử dụng USM nhưng khá nóng trên thị trường “đồ cổ”.

Nhóm 3: Ống kính một tiêu cự bình dân (inexpensive primes)
Canon từng bán nhiều ống loại này với chất lượng quang học và chất lượng chế tạo chấp nhận được (gắn động cơ lấy nét loại thường, ngàm gắn kim loại, có in thước đo) như 28mm 2.8 and 50mm 1.8 (loại ngàm kim loại), dù giá thấp và kết cấu không có gì đặc biệt nhưng chất lượng ảnh khá cao. Phần lớn các ống kính nhóm này đều thuộc dạng ống kính tiêu chuẩn, không có ống cực rộng, không có ống siêu dài, thiết kế thuộc thời đầu của máy ảnh EOS nên trông không sành điệu lắm và có vẻ không được Canon nâng cấp thêm.

Nhóm 4: Ống kính “xịn” một tiêu cự (good primes)
Những ống này có chất lượng quang học cao, kết cấu tốt nhưng không dùng các thấu kính giảm thiểu quang sai, không có tinh thể fluorite và cũng không có ký hiệu “L” lừng danh như ống kính dòng L, điển hình nhất là 85mm 1.8 và 100mm 2.8 macro. Phần lớn được lắp USM, vỏ ống kính được thiết kế bo tròn mềm mại. Đây là những ống kính chuyên nghiệp thực sự tuy không nổi đình đám như dòng L.
Nhóm 5: Các ống kính đặc biệt (specialized)
Dành cho một số rất ít người và chuyên biệt cho một mục đích nào đấy, ví dụ ống kính nghiêng TS-E, ống kính siêu cận cảnh MP-E65 hay các ống kính hồng ngoại, ống kính DO…

II.3. Một số ống kính thường gặp.
Những ống kính này đều dùng cho máy Canon, có loại đang sản xuất, có loại đã ngừng sản xuất, chúng đều là ống kính EF (trừ khi có đánh dấu EF-S riêng). Một số ống kính, nhất là loại siêu dài hay siêu rộng, sử dụng những kính lọc đặc biệt bằng gelatin lắp trong thân ống. Nhiều ống có in chữ MACRO nhưng chỉ một số ít là ống macro thứ thiệt (tỷ lệ phóng đại 1:1), riêng ống 50mm 2.5 Compact Macro cần bộ chuyển Life-Size để đạt tỷ lệ này.

Nhóm 1: Ống kính phổ thông (consumer)
Vỏ và ngàm gắn đều bằng nhựa (trừ 75-300 và 28-200 ngàm kim loại), không in thước đo. Những ống kính nhóm này dùng USM là loại USM rẻ tiền (micromotor USM) không phải USM dạng vòng và đánh dấu bằng một vạch vàng ở đuôi ống. Một số ống kính có đánh dấu bằng vạch màu bạc. Đa phần các ống kính nhóm này có thể chuyển chế độ sang lấy nét bằng tay, nhưng vòng lấy nét thường là khó sử dụng.
EF-S 18-55 3.5-5.6, Ø58
Ống kính bộ, chất lượng khá
EF-S 18-55 3.5-5.6 USM, Ø58
Chỉ bán ở Nhật
EF-S 18-55 3.5-5.6 II, Ø58
Cải tiến từ ống kính trên
22-55mm 4.0-5.6 USM, Ø58
28-105mm 4.0-5.6, Ø58
28-105mm 4.0-5.6 USM, Ø58
28-80mm 3.5-5.6, Ø58
28-200mm 3.5-5.6, Ø72
28-200mm 3.5-5.6 USM, Ø72
28-80mm 3.5-5.6, Ø58
28-80mm 3.5-5.6 II, Ø58
28-80mm 3.5-5.6 II USM, Ø58
28-80mm 3.5-5.6 III, Ø58
28-80mm 3.5-5.6 III USM, Ø58
28-80mm 3.5-5.6 IV USM, Ø58
28-80mm 3.5-5.6 V USM, Ø58
28-90mm 4-5.6, Ø58
28-90mm 4-5.6 USM, Ø58
28-90mm 4-5.6 II, Ø58
28-90mm 4-5.6 USM II, Ø58
Đánh dấu bằng vòng màu bạc
35-70mm 3.5-4.5 A, Ø52
Không có vòng lấy nét tay
35-80mm 4-5.6, Ø52
35-80mm 4-5.6 PZ, Ø52
35-80mm 4-5.6 II, Ø52
35-80mm 4-5.6 III, Ø52
35-80mm 4-5.6 USM, Ø52
35-105mm 4.5-5.6 USM, Ø58
38-76mm 4.5-5.6, Ø52
55-200mm 4.5-5.6 USM, Ø52
55-200mm 4.5-5.6 II USM, Ø52
75-300mm 4-5.6, Ø58
75-300mm 4-5.6, Ø58
75-300mm 4-5.6 II, Ø58
75-300mm 4-5.6 II USM, Ø58
75-300mm 4-5.6 III, Ø58
75-300mm 4-5.6 III USM, Ø58
75-300mm 4-5.6 USM, Ø58
80-200mm 4.5-5.6, Ø52
80-200mm 4.5-5.6 II, Ø52
80-200mm 4.5-5.6 USM, Ø52
90-300mm 4.5-5.6, Ø58
90-300mm 4.5-5.6 USM, Ø58
100-200mm 4.5 A, Ø58
Không có vòng lấy nét tay

Nhóm 2- Các ống đa tiêu cự tầm trung
Tất cả các ống kính này đều có ngàm gắn bằng kim loại, vỏ ngoài có thể làm theo kiểu cũ (nhựa cứng, vòng lấy nét hẹp, nút chuyển lấy nét tự động- tay chậm và đôi khi khó sử dụng) hoặc kiểu mới (nhựa bóng đàn hồi, vòng lấy nét và chỉnh tiêu cự rộng, thường được phủ cao su chống trượt, có USM và chuyển AF/MF khá dễ)
EF-S 10-22mm 3.5-4.5 USM, Ø77
Ống này chứa các thấu kính bằng vật liệu UD, cho chất lượng ảnh cực tốt
EF-S 17-85mm 4-5.6 IS USM, Ø67
EF-S 17-55 2.8 IS USM, Ø77
Một ống kính thú vị, chất lượng ảnh tương đương dòng L nhờ vật liệu thấu kính đặc biệt UD nhưng chất lượng chế tạo chỉ nhỉnh hơn ống phổ thông chút xíu và không bằng dòng L
20-35mm 3.5-4.5 USM, Ø77
24-85mm 3.5-4.5 USM, Ø67
Có cả màu đen và bạc
28-70mm 3.5-4.5, Ø52
28-70mm 3.5-4.5 II, Ø52
28-80mm 3.5-5.6 USM, Ø58
Ngàm gắn bằng kim loại, đời cải tiến của ống này có ngàm gắn bằng nhựa
28-105mm 3.5-4.5 “Macro” USM, Ø58
28-105mm 3.5-4.5 II “Macro” USM, Ø58
28-135mm 3.5-5.6 IS “Macro” USM, Ø72
35-70mm 3.5-4.5, Ø52
Vỏ ống kính làm theo kiểu cũ
35-105mm 3.5-4.5 “Macro”, Ø58
Vỏ kiểu cũ, chỉnh tiêu cự dạng kéo- đẩy
35-135mm 4-5.6 USM, Ø58
50-200mm 3.5-4.5, Ø58
Vỏ kiểu cũ
70-210mm 3.5-4.5 USM, Ø58
70-210mm 4 “Macro”, Ø58
Vỏ kiểu cũ, chỉnh tiêu cự dạng kéo- đẩy
70-300mm 4-5.6 IS USM, Ø58
Ra đời thay cho tiền bối 75-300 4-5.6 IS USM
75-300mm 4-5.6 IS USM, Ø58
Một ống kính rẻ tiền, may mà có IS
100-300mm 4.5-5.6 USM, Ø58
100-300mm 5.6 “Macro”, Ø58
Vỏ kiểu cũ, chỉnh tiêu cự dạng kéo- đẩy.

Nhóm 3: Ống kính một tiêu cự bình dân (inexpensive primes)
Tất cả đều có vỏ kiểu cũ (nhựa cứng, vòng lấy nét hẹp) trừ ống 50mm 1.8 mark II
28mm 2.8, Ø52
35mm 2, Ø52
50mm 1.8, Ø52
50mm 1.8 II, Ø52
Ngàm gắn bằng nhựa, không in thước đo nhưng chất lượng quang học tương đương 50mm 1.8

Nhóm 4- Ống kính “xịn” một tiêu cự
Giống ống đa tiêu cự tầm trung, ống kính này có vỏ chế tạo theo cả kiểu cũ và kiểu mới.
15mm 2.8 (ống kính mắt cá)
Vỏ kiểu cũ
20mm 2.8 USM, Ø72
Vỏ kiểu mới
24mm 2.8, Ø58
Vỏ kiểu cũ
28mm 1.8 USM, Ø58
Vỏ kiểu mới
50mm 1.4 USM, Ø58
Vỏ kiểu mới
50mm 2.5 Compact macro, Ø52
Vỏ kiểu cũ , ống macro đạt tỷ lệ 1:1, 1:2 nếu có cơ cấu chuyển đổi
EF-S 60mm 2.8 USM macro, Ø52
Ống macro chuyên dụng duy nhất kiểu EF-S
85mm 1.8 USM, Ø58
Vỏ kiểu mới.
100mm 2 USM, Ø58
Vỏ kiểu mới – dễ nhầm với ống kính 100mm 2.8, là một ống kính macro
100mm 2.8 Macro, Ø52
Vỏ kiểu cũ, ống macro chuyên dụng
100mm 2.8 Macro USM, Ø58
Vỏ kiểu mới, ống macro chuyên dụng
135mm 2.8 SF, Ø52
Vỏ kiểu cũ nhưng vòng lấy nét khá mềm mại.
Nhóm 5- Các ống kính đặc biệt
Ít gặp, rất đắt, chuyên dụng cho mục đích riêng.
MP-E 65mm 2.8 1-5x Macro
Ống siêu macro, chỉ dùng chụp cận cảnh (tỷ lệ phóng đại 5:1)
TS-E 24mm 3.5 L, Ø72
Ống kính xoay nghiêng, chỉ lấy nét bằng tay
TS-E 45mm 2.8, Ø72
Ống kính xoay nghiêng, chỉ lấy nét bằng tay
TS-E 90mm 2.8, 58
Ống kính xoay nghiêng, chỉ lấy nét bằng tay
EF 70-300 4.5-5.6 DO IS USM
Ống kính có thấu kính DO (nhiễu xạ- Diffractive optics!!!), đánh dấu bằng vòng xanh lá cây
EF 400mm 4 DO IS USM
Ống kính có thấu kính DO (nhiễu xạ- Diffractive optics!!!), đánh dấu bằng vòng xanh lá cây

Nhóm 6- Ống kính dòng L
Tất cả các ống kính dòng L đều dễ dàng nhận dạng với vạch đỏ trên ống và chữ “L” ghi cuối các ký hiệu kỹ thuật.
Phần lớn các ống kính dòng L đều được chế tạo từ nhựa đen, bóng, nặng, bền hoặc từ kim loại sơn trắng. Những ống kính sản xuất gần đây (sau năm 1999) đều chống thấm nước kể cả các ống kính vỏ bằng nhựa đen. Chỉ có một số ít các ống kính L trước kia có vỏ chế tạo theo kiểu cũ, không tốt bằng dòng L sau này, nhưng chất lượng quang học không thua kém.
Hầu hết các ống kính L đều to và nhanh, vì vậy khá đắt. Gần đây Canon có cho ra lò một số ống kính L dễ mua hơn, khẩu độ lớn nhất f/4 nên nhỏ, nhẹ và rẻ hơn ống f/2.8 tương đương. Tất cả các ống kính L đều là loại EF, không có ống kính L ngàm dạng EF-S.
14mm 2.8 L USM
24mm 1.4L USM
16-35mm 2.8 L USM, Ø77
16-35mm 2.8 L II USM, Ø82
17-35mm 2.8 L USM, Ø77
17-40mm 4 L USM, Ø77
20-35mm 2.8 L, Ø72
24-70mm 2.8 L USM, Ø77
24-105mm 4 L IS USM, Ø77
28-70mm 2.8 L USM “Macro”, Ø77
28-80mm 2.8-4 L USM, Ø72
28-300mm 3.5-5.6L IS USM, Ø77
35mm 1.4 L USM, Ø72
35-350mm 3.5-5.6 L USM, Ø72
50mm 1 L USM, Ø72
50mm 1.2 L USM, Ø72
50-200mm 3.5-4.5 L, Ø58
Vỏ kiểu cũ, chỉnh tiêu cự dạng kéo- đẩy
70-200mm 2.8 L USM, Ø77
70-200mm 2.8 L IS USM, Ø77
70-200mm 4 L USM, Ø67
80-200mm 2.8L
Vỏ kiểu cũ
85mm 1.2 L USM, Ø72
85mm 1.2 L USM II, Ø72
100-300mm 5.6 L, Ø58
Vỏ kiểu cũ, chỉnh tiêu cự dạng kéo- đẩy
100-400mm 4.5-5.6 L IS USM, Ø77
Chỉnh tiêu cự dạng kéo- đẩy
135mm 2 L USM, Ø72
180mm 3.5 Macro L USM, Ø72
Ống macro tỷ lệ 1:1
200mm 1.8 L USM
200mm 2.8 L USM, Ø72
200mm 2.8 L II USM, Ø72
300mm 2.8 L USM
300mm 2.8 L IS USM
300mm 4 L USM, Ø77
300mm 4 L IS USM, Ø77
400mm 2.8 L USM
400mm 2.8 L II USM
400mm 2.8L L IS USM
400mm 5.6L USM
500mm 4 L IS USM
500mm 4.5 L USM
600mm 4 L USM
600mm 4 L USM II
1200mm 5.6L USM

II.4. Ống kính bộ bán kèm thân máy
Canon bán nhiều máy ảnh phổ thông giá cả khá hợp lý, hoặc chỉ có thân máy hoặc kèm theo ống kính, dây đeo và một số phụ kiện khác. Những bộ máy ảnh này có giá hấp dẫn và phần lớn người tiêu dùng hài lòng vì chúng thuận tiện và ống kính kèm theo khá rẻ. Những ống kính bán kèm này thường được gọi là ống kính bộ (kit lens), mặc dù chúng ta có thể mua rời nếu muốn.
Không may là các ống kính bộ của máy ảnh bình dân được sản xuất nhằm mục tiêu rẻ nhất có thể, chất lượng quang học thường không cao nên tạo ra các bức ảnh không được sắc nét lắm và có độ tương phản thấp. Về hình thức, các ống kính này cũng có vẻ thô kệch hơn và đều là các ống kính chậm, không phù hợp lắm khi chụp trong môi trường thiếu sáng. Những đặc điểm này thấy rõ đối với nhiều hãng khác, ở các mức độ khác nhau chứ không chỉ là máy ảnh của Canon.
Các ống kính bộ cũng có thể cho ra những bức ảnh tốt, nếu bạn không chụp ở góc rộng nhất hoặc khép khẩu độ nhỏ lại tới f/8 chẳng hạn thì có thể tăng độ nét cho bức ảnh.

II.5. Tạo sao một ống kính chất lượng lại đắt đến vậy?
Ống kính là một sản phẩm rất phức tạp và vô cùng đắt cả trong khâu thiết kế lẫn chế tạo, mỗi bộ phận được gia công cực kỳ chính xác và được lắp ráp rất cẩn thận. Thấu kính được chế tạo từ các loại thuỷ tinh đặc biệt tinh khiết và rất đắt tiền. Các ống kính cao cấp không được bán nhiều như các ống kính rẻ tiền, vì vậy chúng lại càng đắt hơn, oái oăm thay, đây chính là các ống kính mà chúng ta thường thèm muốn.
Các ống kính tầm giá 200 đến 300$ có vẻ quá khả năng của những người mới bắt đầu, nhưng chúng lại là hàng chợ đối với kẻ chuyên nghiệp. Những ống kính có chất lượng quang học tốt trị giá cả gia tài, vì vậy mà nhiếp ảnh thực sự là một thú vui khá tốn kém.



III. Sự lựa chọn khó khăn
III.1. Một ống kính tốt cho người mới bắt đầu.
Điều này phụ thuộc mục đích chơi ảnh của bạn, tuy nhiên cũng có một số vấn đề nên cân nhắc:
Trước khi bạn mua một ống kính nào đó, bạn phải chắc chắn là bạn muốn mua ống kính nào. Phần lớn các cửa hiệu đều chẳng quan tâm nếu bạn mang theo mình máy ảnh với một cuộn phim hoặc một tấm thẻ nhớ, chụp thử vài kiểu với vài ống kính (nên dùng chân máy hoặc có điểm tỳ), bạn có thể bị cằn nhằn đôi chút nhưng việc chụp thử này rất quan trọng đến quyết định lựa chọn của bạn.

- Ống một tiêu cự rẻ tiền.
Nếu bạn chủ yếu muốn học hỏi những kỹ năng chụp ảnh cơ bản và muốn chụp những bức ảnh có chất lượng tương đối thì ống kính đầu tiên bạn nên chọn là Canon 50mm 1.8. Đây là ống kính một tiêu cự rất nhanh. Về mặt kỹ thuật, chế tạo ống kính 50mm khá dễ dàng nên nó có cái giá rất hấp dẫn. Một ống kính Canon 50mm 1.8 mark II đời mới có giá chưa đến 75$.
Ống kính này vừa rẻ, vừa chụp được những bức ảnh sắc nét lại có thể sử dụng trong điều kiện thiếu sáng mà không cần đến ánh sáng chói lọi của đèn flash. Bởi vậy những tấm ảnh chụp được trông tự nhiên hơn nhiều những tấm ảnh chụp bằng máy du lịch cả vì chúng sắc nét hơn cả vì chúng không bị bóp méo bằng ánh sáng nhân tạo của đèn flash, những tấm ảnh chụp bằng ánh sáng tự nhiên bao giờ trông cũng hấp dẫn hơn chụp bằng flash theo máy.
Đương nhiên do đây là ống kính một tiêu cự nên bạn phải đi tới, đi lui để chụp được những bức hình như ý, đôi khi một số bức phải chụp ở góc rộng hoặc góc hẹp sẽ không thực hiện được, đây là nhược điểm chủ yếu.
Lưu ý là Canon chế tạo hai đời ống kính này. Đời đầu không có các chữ số La mã nhưng có ngàm gắn bằng kim loại, có thước đo khoảng cách và loa che ống kính dạng kẹp (tuỳ chọn). Đời sau mark II có ngàm gắn bằng nhựa, không có thước đo và có loa che dạng xoay trông khá thô. Chất lượng quang học của hai ống kính này tương đương nhau. Canon còn bán ống kính 50mm 1.4 USM, về mặt quang học nhanh hơn và sử dụng USM lấy nét, nhưng về giá nó đắt hơn ống kính 50mm 1.8 khá nhiều.
Nếu bạn sử dụng máy ảnh số có hệ số thu nhỏ (phần lớn các máy EOS cơ bản trừ số ít các dòng cao cấp) thì ống kính 50 mm này có thể ít hữu dụng hơn, vì nó làm việc giống ống kính có tiêu cự dài hơn khi lắp cho các máy ảnh này và góc nhìn của bạn bị thu hẹp lại. Trong trường hợp này ống kính 28mm 2.8 có thể là lựa chọn tốt hơn.

Những ống kính đa tiêu cự phổ thông
Nếu bạn coi trọng đến sự tiện lợi và chất lượng ảnh không phải là ưu tiên thì nên chọn ống kính đa tiêu cự giá rẻ, như là ống kính bộ bán kèm các máy ảnh phổ thông. Tuy nhiên không phải lúc nào những ống kính này cũng cho một chất lượng ảnh thấp, ngoại lệ có thể là ống kính EF-S 18-55 bán kèm các thân máy EOS 300/350/400 và Digital Rebel. Ống kính này dù khá rẻ nhưng không quá tồi, đặc biệt khi bạn sử dụng ở khẩu độ f/8 hoặc nhỏ hơn.
Nếu bạn khá rủng rẻng và muốn sự tiện lợi của một ống kính đa tiêu cự thì bạn nên chọn các ống kính đa tiêu cự đã qua sử dụng đời cũ, nhiều ống kính dạng này có chất lượng khá tốt so với tầm tiền. Chẳng hạn bạn có thể mua ống kính ngàm kim loại 28-70 3.5-4.5 II qua sử dụng có giá xấp xỉ ống kính mới 28-80 toàn nhựa. Nếu bạn muốn có ống kính lấy nét USM êm ái bạn có thể cân nhắc ống 28-80 3.5-5.6 USM ngàm kim loại (không phải loại đời sau ngàm nhựa có đánh số La mã), một ống kính có chất lượng chế tạo giống hệt 28-105 3.5-4.5 USM. Hai ống kính cũng rất hợp lý tuy không còn được sản xuất và bạn phải tìm chúng trên thị trường đồ cũ là ống 35-135 4.0-5.6 USM và ống đời cũ 35-105 3.5-4.5. Nhược điểm chính của các ống này là chúng không đủ rộng khi lắp trên máy có hệ số thu nhỏ.
Tóm lại bạn không cần phải quan tâm đến những cửa hàng xa xỉ bởi một ngân sách eo hẹp miễn là bạn không ngại hàng đã qua sử dụng.
Ống kính đa tiêu cự tầm trung.
Nếu bạn có ngân sách rộng rãi hơn thì nên cân nhắc đến nhóm ống kính đa tiêu cự tầm trung. Chẳng hạn, hai ống kính rất phổ biến của Canon 28-105 3.5-4.5 USM và 24-85 3.5-4.5 USM. Cả hai đều là các ống kính cứng cáp, đẹp, dù chất lượng quang học chưa phải đỉnh cao, cả hai đều nhanh, lấy nét êm nhờ USM, cả hai cùng đắt và nặng hơn các ống kính đa tiêu cự rẻ tiền, nhưng phần lớn dân chơi ảnh đều đủ khả năng mua chúng.
Trong hai ống này, cái đầu có tiêu cự dài hơn chút ít, khá tốt khi cô lập đối tượng và thích hợp khi chụp chân dung, cái sau góc rộng hơn (góc thu hình khác nhau khá nhiều giữa ống 24 và 28mm) và rất thông dụng khi chụp du lịch. Ống 24-85 3.5-4.5 USM cũng rất hợp khi xài trên các dòng máy có hệ số thu nhỏ như 300D/Digital Rebel/Kiss Digital hay 10D.

III.2. Một số ống kính EF và EF-S thông dụng.
EF 16-35 2.8L USM và EF 17-35 2.8L USM :Một ống đời mới và một ống đời cũ, cả hai đều góc rộng, nhanh, chất lượng hạng chuyên nghiệp được nhiều phóng viên ảnh sử dụng. Đắt tiền.
EF 17-40 4L USM: Phiên bản chậm hơn hai ống trên, phổ biến đối với dân nghiệp dư có tay nghề.
EF-S 18-55 3.5-5.6: Khá tốt cho các chủ nhân của máy 300D/Digital Rebel, 350D/Rebel XT và 400D/Rebel XT, được bán kèm các máy Canon hạng phổ thông. Chất lượng ảnh tốt, giá phải chăng.
EF-S 17-85mm 4-5.6 IS USM: Rất thông dụng đối với người dùng máy Canon cảm biến nhỏ, ống này cho chất lượng ảnh tốt cho cả vùng tiêu cự và được hỗ trợ bởi cơ cấu ổn định hình ảnh.
EF 28mm 2.8: Ống kính góc rộng, nhẹ, giá phải chăng, phù hợp cho chụp phong cảnh và những thứ tương tự.
EF 50mm 1.8 và EF 50mm 1.8 II: Ống kính nhanh, nhẹ, rất rẻ, rất tốt cho người mới bắt đầu và dân nghiệp dư hạng khá, cho ra những tấm ảnh nét một cách ngạc nhiên với giá phải chăng.
EF 50mm 1.4 USM: Ống tiêu chuẩn đa năng, dùng cho cả nơi ánh sáng yếu. Ống này dùng USM không hỗ trợ việc lấy nét tay toàn phần
EF 24-70 2.8L USM và EF 28-70 2.8L USM: Ống dòng L, đen, nặng, to, chất lượng cao. Đắt tiền và thông dụng đối với dân chụp ảnh đám cưới.
EF 24-105 4L IS USM: Ống kính dòng L có cơ cấu ổn định hình ảnh, khá đắt và phổ biến đối với dân chụp dạo.
EF 28-70 3.5-4.5 II: Ống đời cũ, khá rẻ, nổi tiếng vì chất lượng quang học dù giá thấp. Tuy nhiên việc dùng kính lọc trên ống này hơn khó khăn.
EF 28-80 3.5-5.6 II-V, 28-90 4-5.6: Các ống kính cực rẻ của Canon, dùng theo bộ cho thân máy hạng thấp, chất lượng quang học kém.
EF 24-85 3.5-4.5 USM, 28-105 3.5-4.5 USM và EF 28-105 3.5-4.5 USM II: Các ống kính trung bình cả về giá, kích cỡ và tốc độ, phổ biến cho giới nghiệp dư. Ống 24-85 đặc biệt thông dụng cho người xài máy cỡ APS và máy cảm biến nhỏ. Không nên lẫn lộn giữa 28-105 3.5-4.5 và người anh em rẻ và chậm của nó có độ mở 4-5.6
EF 28-135 3.5-5.6 IS USM: Ống hạng trung, linh hoạt và thông dụng với cơ cấu ổn định hình ảnh cho việc chụp thiếu sáng.
EF 85mm 1.8 USM: Ống một tiêu cự sắc nét và giá hấp dẫn, phù hợp cho chụp chân dung
EF 100mm 2.8 Macro và EF 100mm 2.8 Macro USM: Các ống chụp cận cảnh cho tỷ lệ 1:1, hữu dụng cả cho chụp chân dung
EF 70-200 2.8L USM và EF 70-200 2.8L IS USM: Ống dòng L, nặng, sơn trắng, được nhiều phóng viên ảnh sử dụng. Đắt tiền
EF 70-200 4L USM: Chậm hơn và nhẹ hơn các ống 2.8L. Một món hời đối với nhiều nhiếp ảnh gia và thông dụng cho dân nghiệp dư hạng khá.
EF 70-300mm 4-5.6 IS USM: Một ống kính thông dụng hài hoà cho cả kích cỡ, sự thuận tiện và chất lượng ảnh, ảnh nét hơn so với ống 75-300 trước đó, cơ cấu ổn định hình ảnh rất tốt. Không nên lẫn lộn với các ống kính giảm thiểu quang sai DO là những ống rất đắt.
EF 75-300 4-5.6: Thông dụng với dòng ống kính tiêu cự dài giá thấp. Phổ biến trong dòng ống kính giá rẻ nhưng chất lượng quang học thấp.
EF 1200mm 5.6L USM: Một ống kính tiêu cự dài, kích cỡ khổng lồ, vô cùng đắt, không thông dụng chút nào nhưng luôn nổi bật trong các quảng cáo của Canon. Hãng thậm chí sẵn lòng chế tạo đơn chiếc theo yêu cầu nếu có tiền đặt trước, giá của nó tương đương một chiếc xe hơi sang trọng.
Nếu bạn cần đến tiêu cự này có lẽ nên dùng 600mm 4L IS USM với đoạn nối 2x cho dù bạn phải xài thân máy EOS 1V, 1D, 1Ds hoặc 3 mới lấy nét tự động được.


III.3. Các ống kính lai.
Cho dù Canon có những chiến dịch quảng cáo rầm rộ chống lại các hãng sản xuất ống kính khác thì nhiều người vẫn lấy làm hài lòng với các ống kính sản xuất bởi Tamron, Tokina hay Sigma. Một lý do hấp dẫn, ống kính do các hãng độc lập chế tạo luôn luôn rẻ hơn nhiều nhiều các ống kính tương đương của Canon.
Vậy bạn có nên mua ống kính của các hãng độc lập? Đây rõ ràng không phải là câu hỏi yes/no thuần tuý và đơn giản, nó ẩn chứa nhiều vấn đề.
Tiết kiệm được nhiều tiền chính là yếu tố hấp dẫn nhất, đặc biệt khi bạn đang tìm kiếm một ống kính đa tiêu cự chất lượng và nhanh.
Lưu ý rằng những ống kính rẻ theo nghĩa giá tiền chứ không phải là chất lượng quang học. Chênh lệch giá giữa ống kính Canon và ống kính lai không lớn đối với các ống kính siêu rẻ, vì vậy không khác biệt mấy nếu bạn chọn giữa hai loại ống kính này. Các nhà sản xuất ống kính độc lập đưa ra rất nhiều chủng loại sản phẩm cho nhiều nhu cầu khác nhau. Thông thường, nếu bạn cân nhắc đến các ống kính lai thì nên lưu ý đến dòng sản phẩm cao cấp chứ không nên theo nhóm phổ thông. Nói chung, ống kính Canon thường giữ giá tốt hơn so với ống kính lai, điều này bạn cần biết nếu muốn bán lại ống kính trong tương lai gần. Những nhà phân phối dường như cũng nhiệt tình hơn khi giới thiệu các ống kính lai, có thể vì họ nhận được tiền hoa hồng tốt hơn, vì vậy đừng bị họ làm bối rối, chưa chắc những lời khuyên của họ là vì lợi ích của bạn.
Mua ống kính Canon là sự đảm bảo rằng sản phẩm của bạn sẽ được tất cả các máy ảnh EOS hỗ trợ. Tuy vậy, Tamron cũng rất thích hợp với các thân máy EOS. Bạn luôn phải thử trên máy của mình và luôn tự nhủ rằng những ống kính này không nhất thiết phù hợp với các thân máy EOS trong tương lai.
Một số ống kính Sigma cũ không tương thích hoàn toàn với các thân máy EOS hiện đại, chúng lắp vừa với thân máy nhưng hệ thống điện tử không làm việc, vì vậy máy ảnh của bạn bị khoá lại khi nhất nút chụp. Nếu vớ được ống kính loại này, bạn nên liên hệ với nhà sản xuất xem có thể sửa chữa được không, các ống kính này tuy không làm hỏng thân máy nhưng nó làm máy ảnh tạm thời bị khoá và tắt nguồn.
Chất lượng của các sản phẩm Sigma cũng rất mâu thuẫn. Một điều tra nhanh trên mạng cho thấy rất nhiều than phiền từ các chủ nhân của ống Sigma, các ống kính Sigma mới thì có vẻ cứng cáp hơn.
Nhiều ống kính của Tokina có vỏ bằng kim loại, khá bền nhưng cũng khá nặng khi mang theo người.
Canon đưa ra nhiều ống kính lấy nét bằng USM và hỗ trợ lấy nét tay toàn phần, phần lớn ống kính lai không có chức năng này.
Về hoạt động cũng có vài điểm khác, chẳng hạn một số ống kính lai có vòng lấy nét hoặc vòng chỉnh tiêu cự quay ngược chiều với chiều thường thấy của ống Canon.
Rất khó để tìm các số liệu so sánh hữu dụng, bạn có thể tìm được điểm đánh giá trên một số site như Photodo, nhưng chỉ có một cách chắc chắn nhất là tự mình thử các ống kính này xem chúng có đáp ứng được yêu cầu của bạn hay không. Câu hỏi như “Liệu ống kính xyz 2.8 Tokina có tốt hơn ống kính xyz2.8 của Canon hay không?” dường như không bao giờ có cầu trả lời xác đáng, vì phần lớn người dùng không mua cả hai ống kính này và cùng thử chúng!.
Một số ống kính lai rất nổi tiếng. Ví dụ, Tamron 90mm macro nổi tiếng vì chất lượng ảnh với giá cả thấp hơn đáng kể ống kính Canon 100mm macro hoặc Sigma bán ống mắt cá 8mm mà Canon không có.
Nhưng yếu tố quyết định nhất luôn luôn là tiền, rồi thì bạn mới cân nhắc đến những lợi ích khác như giá đầu tư thấp, độ bền cơ học, khả năng tương thích, giao diện người dùng và chất lượng quang học.

III.4. Tại sao trên máy ảnh dSLR lại không có ống kính chỉnh tiêu cự bằng động cơ với nút chỉnh trên thân máy?
Vì đây không còn là máy ngắm- chụp nữa, những ống kính có môtơ kiểu này chỉ thích hợp cho dòng máy du lịch, với thị trường các máy dSLR thay được ống kính thì khác.
Tất cả các ống kính Canon EF đa tiêu cự đều chỉnh tiêu cự bằng tay, tức là bạn phải hoặc xoay vòng chỉnh (hai chạm) hoặc đẩy ống kính ra vào (zoom đẩy). Phần lớn người dùng đều cảm thấy điều chỉnh theo cách này nhanh và chính xác hơn so với cách chỉnh bằng mô tơ điện trên các máy ngắm- chụp.
Canon từng bán loại ống kính chỉnh tiêu cự bằng mô tơ cho máy ảnh EOS trong thời gian ngắn, ví dụ như ống kính Canon EF 35-80 4-5.6 PZ (Power Zoom) vỏ nhựa và chất lượng quang học thấp, thân ống kính có hai nút nhấn cho phép bạn chỉnh vị trí tiêu cự.

III.5. Sự khác biệt giữa các ống kính Canon 28-105mm
Canon đã và đang bán nhiều ống kính có khoảng tiêu cự 28-105mm
28-105mm 3.5-4.5 USM, có hình bông hoa: Phiên bản đầu tiên của dòng ống kính rất phổ biến này, ra đời đầu những năm 1990, một ống đa tiêu cự tầm trung, chất lượng quang học tốt, nhanh và lấy nét bằng USM êm ái. Phiên bản mark I với biểu tượng bông hoa trên thân ống kính có 5 tấm thép mắt mèo tạo thành lỗ mở sáng, nếu đánh dấu bằng ba vạch vàng là ống kính có USM và ngàm gắn kim loại. Ống này hiện không sản xuất nữa.
28-105mm 3.5-4.5 USM, biểu tượng “MACRO”: Phiên bản thứ hai tuy chưa bao giờ được chính thức công nhận như vậy. Khá giống phiên bản đầu tiên ngoại trừ biểu tượng “MACRO” thay cho bông hoa, ống này có 7 lá thép mắt mèo, về lý thuyết cho một phông nền mềm mại hơn, làm mờ đi hậu cảnh, nếu đánh dấu bằng ba vạch vàng là ống kính có USM và ngàm gắn kim loại. Ống này hiện không sản xuất nữa.
28-105mm 3.5-4.5 USM II: Được công nhận chính thức là phiên bản thứ hai với ký hiệu “II”, theo Canon phiên bản này và phiên bản đầu tiên có chất lượng quang học giống nhau. Tuy nhiên phiên bản II hơi khác về kiểu dáng ngoài và trông có vẻ chắc chắn hơn. Canon Malaysia thì thông báo là các cơ cấu chỉnh tiêu cự được nâng cấp từ nhựa thành kim loại, nếu đánh dấu bằng ba vạch vàng là ống kính có USM và ngàm gắn kim loại. Ống này hiện cũng không sản xuất nữa.
28-105mm 4-5.6 USM: Ống kính hạng rẻ, xuất hiện năm 2002. Rất khác, rất thua kém các ống kính trên. Phần lớn được làm từ nhựa, kể cả ngàm gắn, chất lượng quang học thấp. Ống kính này dễ dàng nhận dạng vì có vạch bạc (chrome) ở đuôi ống. Thú vị ở chỗ nó có USM và hỗ trợ lấy nét hoàn toàn bằng tay. Một ống kính bình dân, không so được với 28-105 3.5-4.5 USM II.
Nói chung thì bạn nên cẩn thận khi mua dòng ống kính 28-105, phải kiểm tra cho kỹ khẩu độ của ống kính để phân biệt chúng với nhau.

III.6. Có nên mua các ống kính như Canon 28-200, Tamron 28-200 hay Sigma 28-300 (và các dòng ống kính miền tiêu cự rộng tương tự)?
Vấn đề này rất phổ biến những năm 90 khi những ống kính này chiếm lĩnh thị trường bởi sự thuận tiện của nó vì bao gồm vùng tiêu cự rất rộng. Không may, các ống kính này khá to và nặng, quan trọng nhất là chất lượng quang học của chúng gây thất vọng lớn. Rất khó để chế tạo một ống kính đa tiêu cự sắc nét, đặc biệt với vùng tiêu cự rộng như các ống kính này, các ống kính này chậm, khẩu độ tối đa nhỏ, chúng cũng gây ra hiện tượng méo hình, khiến các hình vuông và tam giác như lồi ra, rất xấu khi chụp các công trình.
Nếu bạn chụp ảnh 4x6 thì những nhược điểm này chấp nhận được, nhưng nếu bạn muốn phóng lớn tấm hình ra thì sẽ thất vọng hoàn toàn- không có điểm lấy nét nào thực sự sắc nét cả!. Do là các ống kính chậm nên bạn sẽ thấy rằng bất kỳ tấm ảnh chụp tầm xa nào đều sẽ bị mờ trừ khi bạn dùng chân máy hoặc flash. Cuối cùng, sử dụng các ống kính tiêu cự dài đòi hỏi kỹ thuật và kinh nghiệm nhất định, ví dụ bạn không thể cầm máy bằng tay không để chụp với ống kính 300mm, nếu cố gắng và không dùng flash mạnh bạn sẽ thu được những tấm ảnh mờ mịt.
Nói chung, các ống kính 28-200 và 28-300 luôn bị những hạn chế rất lớn về quang học, những hạn chế khiến giá trị của chúng bị suy giảm, đặc biệt ở vùng tiêu cự 200-300 mm.
Chỉ có hai ống kính với miền tiêu cự lớn có chất lượng quang học tương đối chấp nhận được là Canon 35-350 3.5-5.6L và Canon 28-300 3.5-5.6L IS. Tuy nhiên cả hai đều là những ống kính rất lớn và mắc tiền, không hề phù hợp với dân chập chững vào nghề.

III.7. Những ống kính chất lượng khá, tiêu cự dài của Canon.
Canon chế tạo những ống kính tiêu cự dài rất đối lập: hoặc loại rất chậm, rất rẻ và chất lượng thấp hoặc loại rất nhanh, rất đắt và chất lượng rất cao. Ống kính 70-300 4.5-5.6 IS USM là chiếc có thể nên cân nhắc đầu tiên. Canon chưa hề sản xuất bất kỳ ống kính một tiêu cự cỡ dài nào với chất lượng tầm tầm, tất cả các ống kính một tiêu cự dài hơn 135 mm đều là dòng L.
Một số ống kính Canon trong khoảng tiêu cự 75 đến 300 mm (chỉ khác nhau chút đỉnh) như:
75-300 4-5.6
75-300 4-5.6 USM
75-300 4-5.6 II
75-300 4-5.6 II USM
75-300 4-5.6 III
75-300 4-5.6 III USM
Tất cả số này đều có chất lượng quang học như nhau, chỉ khác chút xíu vẻ bên ngoài (ví dụ phiên bản mark III có một vạch bạc ở đuôi chỉ để gây ấn tượng cho người mua) và động cơ lấy nét. Tất cả đều có giá không đắt lắm nhưng chất lượng quang học cũng chỉ kha khá. Ở góc rộng nhất (75mm) chúng không quá tồi, nhưng ở góc hẹp nhất (200-300mm) ảnh có xu hướng bị mờ. Muốn tăng chất lượng ảnh bạn phải khép khẩu nhỏ hơn f/8 hoặc f/11 và điều này đòi hỏi một tốc độ chụp chậm hơn.
Các ống kính 75-300 USM có mô tơ lấy nét USM dạng siêu nhỏ và không hỗ trợ canh nét tay toàn phần (FTM- full time manual), những ống còn lại dùng mô tơ chậm và ồn hoặc chỉ dùng động cơ một chiều. Tuy giá không cao nhưng nhóm ống kính này đều có ngàm gắn kim loại nhưng không in thước đo, các ống kính này còn một bất tiện nữa khi lắp kính lọc phân cực vì vòng xoay lấy nét lắp ở đầu ống.
75-300 4-5.6 IS USM: Một ống kính đáng kể trong dòng 75-300 có ổn định hình ảnh, đây là ống kính đầu tiên lắp ổn định hình ảnh của Canon, tuy vậy, chất lượng quang học chỉ tầm tầm như các ống 75-300 khác.
70-300 4.5-5.6 IS USM: Không nên nhầm với ống rẻ tiền hơn là 75-300 hay với ống mắc hơn có thấu kính DO tuy cùng tên gọi. Ống này có chất lượng quang học khá, có ổn định hình ảnh và khá tốt cho dân nghiệp dư tay nghề cao. Ống không được nét như 100-300 5.6L, nhưng hệ thống ổn định hình ảnh khiến sử dụng ống thuận tiện hơn.
70-300 4.5-5.6 DO IS USM: Một ống kính khá hiếm và là ống kính đầu tiên sử dụng các thấu kính nhiễu xạ (DO), công nghệ này khiến ống kính nhỏ và nhẹ hơn các ống bình thường. 70-300 DO ngắn hơn đáng kể so với người anh em 75-300 và được trang bị ổn định hình ảnh, tuy nhiên nó chẳng rẻ chút nào và bạn không nên lẫn nó với các ống không có DO.
90-300 4-5.6 USM: Ống này có màn trình diễn khá giống ống 75-300 rẻ tiền, chỉ có điều miền tiêu cự bắt đầu từ 90mm. Có lắp USM nhưng là loại siêu nhỏ (micromotor) nên không hỗ trợ canh nét tay toàn phần.
100-300 4.5-5.6 USM: Xét về chất lượng chế tạo và diện mạo vật lý, ống này bằng vai với 28-105 3.5-4.5 USM và 24-85 3.5-4.5 USM, một ống kính chắc chắn, nhanh, lấy nét bằng USM dạng vòng hẳn hoi, hỗ trợ canh nét hoàn toàn bằng tay, không bị xoay đầu ống khi lấy nét và có in thước đo tỷ lệ. Ống này nét hơn 75-300 một chút xíu ở tiêu cự dài nhất, tuy nhiều người cho rằng chẳng có khác biệt nào cả!. Về cơ bản 100-300 USM cho bạn tốc độ lấy nét nhanh và thuận tiện thao tác hơn dòng 75-300 nhưng chất lượng quang học thì chưa có cải tiến, bạn cũng bị mất 25 mm tiêu cự và một nửa khẩu độ ở tiêu cự ngắn.
70-210/3.5-4.5 USM: Tiền thân của 100-300 4.5-5.6 USM, giống hệt kích cỡ, kết cấu và chất lượng quang học chỉ khác về vùng tiêu cự thôi.
100-300 5.6L: Một ống kính cũ, hiện không còn sản xuất nữa. Một ống kính khá hấp dẫn, trong khi đây rõ ràng là ống kính dòng L với thấu kính fluorite và thấu kính UD thì nó lại không được cơ bắp lắm như các ống kính dòng L hiện nay. Ống này dùng mô tơ lấy nét kiểu AFD chậm và ồn, ống có nút chuyển giữa lấy nét tự động và lấy nét tay khá bất tiện (vì độ nghiêng thấp) và tỷ mẩn (khó trượt). Vòng lấy nét tay như bị vướng sạn khi xoay. Tuy thế chất lượng quang học tốt hơn nhiều loạt ống 75-300 và 100-300 USM, vì vậy nếu không quan tâm lắm đến khẩu độ tối đa chỉ 5.6 và mô tơ lấy nét vừa ồn vừa chậm thì đây có lẽ là lựa chọn tốt cho túi tiền vừa phải.
50-200/3.5-4.5 L: Giống 100-300 5.6 L, đây là thế hệ ống kính ngàm EF đầu tiền dòng L, chất lượng quang học y như ống L hiện nay nhưng độ cường tráng không bằng, chỉnh tiêu cự bằng cơ cấu kéo- đẩy. Một ống kính không hề tồi, nhưng có lẽ vẫn thua 70-200 4L USM, một ống kính không đắt lắm mà vẫn có chất lượng chế tạo tốt và USM êm ái.
70-200 4L USM: Nhỏ hơn và nhẹ hơn so với ông anh 70-200 2.8L USM dành cho dân chuyên nghiệp, một món hời cho dân dùng EOS. Đắt hơn ba lần so với các ống kính phổ thông nhưng cứng cáp hơn, lấy nét nhanh hơn vì USM, có FTM (full-time manual), quan trọng nhất là chất lượng quang học tốt hơn nhiều. Ống này to và nặng hơn các ống phổ thông nhưng là lựa chọn đáng giá nếu bạn không cố được lên 2.8L. Ống không dùng kính lọc 77mm to tướng như dòng 2.8L mà dùng loại 67mm giống 24-85 3.5-4.5 USM. Hơi đáng tiếc là rất ít ống kính Canon khác dùng kính lọc đường kính loại này.
80-200 4.5-5.6
80-200 4.5-5.6 USM
80-200 4.5-5.6 II: Ống kính vỏ nhựa, tương tự 28-80, tuy vậy rất nhẹ và cơ động, nếu bạn muốn một ống kính không quá đắt và không bao giờ phóng ảnh quá cỡ một bưu thiết thì đây là lựa chọn hữu ích.
100-300 5.6: Chất lượng chế tạo gần được như 100-300 5.6L, một ống kính kiểu cũ có tất cả các nhược điểm của 5.6L nhưng lại không có chất lượng quang học như ống L



III.8. Ống kính chụp chim hoang dãViệc chụp ảnh thú hoang nhỏ, nhanh là một lĩnh vực rất khó và đòi hỏi những ống kính rất đắt tiền. Các ống kính 500 đến 600 mm thường được dùng trong trường hợp này, kể cả ống 100-300 thông dụng của bạn cũng không đủ dài để có được những bức ảnh đẹp. Khó một nỗi, các ống dài hơn 300mm rất đắt và cũng rất nặng. Thực tế khá phũ phàng, bạn có thể có được những bức ảnh khá với ống 100-300 chụp thú cảnh nuôi trong nhà chứ khó với được tới các bức ảnh ấn tượng in trong sách về động vật hoang hay trong các tờ lịch- những con chim bé tí đầy cả khung hình. Bạn luôn phải chụp ở 300mm và sau đó cắt đi toàn bộ phần bao quanh và rồi chất lượng tấm ảnh giảm rõ rệt.
Nếu bạn thực sự hứng thú với lĩnh vực này với ngân sách eo hẹp thì nên nghĩ đến ống kính cũ, chỉ lấy nét bằng tay. Những ống kính dài đã qua sử dụng, lấy nét tay rẻ hơn khá nhiều so với các ống lấy nét tự động.

III.9. Ống kính cho ảnh thể thao
Lĩnh vực này cũng khá giống lĩnh vực trên. Thách thức của ảnh thể thao và ảnh hành động nằm ở hai điểm: bản chất tự nhiên của loại ảnh này chủ đề thường di chuyển rất nhanh và luôn luôn có khoảng cách lớn giữa đối tượng và máy ảnh.
Giải quyết vấn đề đầu tiên, ống kính phải rất nhẹ, sử dụng flash hoặc phim độ nhạy cao nhưng điều này chứa đầy mâu thuẫn: ống kính nhanh thì thường to, nặng và đắt, tăng ISO thì tấm ảnh lại sạn và chất lượng thấp, dùng flash thì đôi khi không đáp ứng được yêu cầu nhất là khi đối tượng quá xa máy ảnh.
Vấn đề thứ hai đòi hỏi phải dùng ống kính dài, nhưng hầu hết các ống kính dài lấy nét tự động kha khá một chút thì lại chậm- chúng không lấy được nhiều ánh sáng, điều này làm vấn đề đầu tiên trở nên nan giải hơn.
Tất nhiên, đôi khi cả hai vấn đề trên đều trở nên dễ thở hơn, chẳng hạn nếu bạn chụp một trận bóng rổ mà bạn ở ngay gần sân đấu, vì sân bóng rổ khá nhỏ nên bạn có thể xài flash (nếu được cho phép) và không cần đến ống kính quá dài.
Dù sao thì các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp vẫn phải dựa vào các ống kính nhanh, một sản phẩm mà dân nghiệp dư ít khi với tới được vì quá đắt. Những ống kính tiêu cự dài nhanh, đặc biệt là loại đa tiêu cự nhanh thì vô cùng đắt. Mọi lựa chọn đều có những điểm dở của nó:
Ống kính nhanh. Hãy kiếm một ống kính nhanh nhất mà bạn có thể (độ mở tối đa là lớn nhất có thể), 70-200 2.8 khá tốt để chụp bóng rổ, 75-300 4-5.6 thì có lẽ không, vì ngay khi mở hết cỡ bạn vẫn cần tốc độ rất chậm gây ra các phần ảnh mờ không mong muốn.
Ống kính tiêu cự dài. Bạn sẽ cần một ống kính dài trừ khi bạn muốn và có thể áp sát chủ đề, chẳng hạn không cần ống kính dài nếu chụp một ván trượt trên đường phố, nhưng nếu chụp bóng đá thì lại khác.
Cắt bớt. Bạn có thể tạo hiệu quả khá giống ống kính dài bằng cách cắt bớt những phần thừa của ảnh, thủ thuật này phóng to ảnh lên và dĩ nhiên là cũng phóng to các yếu điểm như sạn, hạt do độ phân giải thấp.
Hệ thống ổn định hình ảnh. Hữu dụng để giảm thiểu sự rung của máy ảnh nhưng chẳng có giá trị gì trong việc bắt chết một khoảnh khắc của một đối tượng đang chuyển động.
Đèn flash. Hiệu quả trong cả việc mô tả cũng như “bắt chết”, tuy nhiên không phải lúc nào bạn cũng được sử dụng nó.
Độ nhạy phim/ISO. Tăng ISO là cần thiết để tăng tốc độ chụp, mặt trái của nó là giảm chất lượng ảnh.
Thân máy lấy nét nhanh. Một thân máy chuyên nghiệp như dòng EOS 1 có thể khoá cứng tiêu cự rất nhanh và chính xác, giảm thiểu thời gian trễ từ lúc bấm máy đến lúc ghi hình. Một thân máy phổ thông khó thực hiện điều này nên cũng khó tạo ra những bức hình hoàn hảo.
Mô tơ lấy nét nhanh. USM dạng vòng của Canon lấy nét cực nhanh, trong khi dạng AFD thì chậm hơn. Một ống kính với mô tơ lấy nét nhanh luôn tạo ra sự khác biệt giữa các bức ảnh đạt và không đạt.
Tóm lại, nếu bạn định gắn ống kính phổ thông 75-300 4-5.6 lên thân máy thì đừng hy vọng sẽ có được các bức ảnh như trong tạp chí thể thao. Điều này không có nghĩa là bạn không thể tạo ra các bức ảnh như vậy với thiết bị trên mà chỉ có ý rằng để tạo ra các bức ảnh như vậy là thử thách vô cùng lớn, nó đòi hỏi kỹ năng, kinh nghiệm và cả sự may mắn chộp được những khoảnh khắc hiếm hoi. Nói chung bạn sẽ phải đối mặt với nào là đối tượng chụp bị mờ, nào là độ nét và tương phản thấp nếu sử dụng các ống kính tiêu cự dài phổ thông.

III.10. Ống kính gương, một cách rẻ tiền để có tiêu cự dài !.
Một số hãng độc lập chế tạo các ống kính gương, được biết cả dưới cái tên ống kính khúc xạ thấp (catadioptric). Những ống kính này dùng thêm một cặp gương phản chiếu để hướng ánh sáng bổ sung cho các thấu kính bình thường khác. Ưu điểm của các ống kính này là rẻ hơn, nhẹ hơn và ngắn hơn các ống kính bình thường khác có cùng tiêu cự. Ống kính gương tiêu cự 500mm đến 1000mm không hiếm, các nhà sản xuất của Nga cho ra rất nhiều ống loại này.
Khổ nỗi, ống kính gương có nhiều điểm bất tiện. Thứ nhất nó chỉ có thể lấy nét tay. Thứ hai, nó là các ống kính chậm, khẩu độ chỉ khoảng f/8. Thứ ba, nó không có các lá kim loại mắt mèo, nên chỉ có cách chỉnh thời chụp bằng cách chỉnh tốc độ, độ nhạy phim hay bằng … kính lọc. Thứ tư, gương phản chiếu thường gây hiệu ứng tạo ra các vòng tròn hoặc dẹt quanh các điểm sáng ở vùng không được canh nét, hiệu ứng này có thể gây sao nhãng việc xem ảnh. Thứ năm, chất lượng quang học không cao, rất khó chụp được chim chóc cho ra hồn.
Rốt cuộc, ống kính này chỉ thu hút sự chú ý của ngân sách eo hẹp mà thôi, nó có quá nhiều hạn chế. Phương án xài ống kính lấy nét tay (đã qua sử dụng), chế cho vừa máy ảnh của bạn hoặc xài một thân máy lấy nét tay có lẽ hợp lý hơn. Suy cho cùng, nhiếp ảnh vẫn là một thú chơi đắt tiền !.
III.11. Ống kính cận cảnh và ống kính có khắc chữ “MACRO”
Mắt người chỉ có thể nhìn rõ trong một khoảng cách nhất định (thay đổi theo tuổi tác), khoảng cách có thể lấy nét của các ống kính cũng khác nhau. Đa phần các ống kính đều được thiết kế để lấy nét trong khoảng 1 m hoặc 2 m, với ống kính tiêu cự dài khoảng cách lấy nét tối thiểu còn lớn hơn cả giá trị trên.
Đặc điểm này báo hại bạn khi muốn chụp các bông hoa ở khoảng cách cực gần, lúc này bạn cần khoảng lấy tiêu cự ngắn hơn nữa. Cơ bản thì bạn luôn muốn làm đầy cả khung hình với các cánh hoa, một khái niệm mới xuất hiện- hệ số phóng đại. Thường thì ảnh macro thực sự là các tấm ảnh tỷ lệ 1:1 hay nhỏ hơn. Nói cách khác ống kính với hệ số phóng đại 1:1 có thể chụp một vùng nhỏ bằng đúng cỡ của khung hình, với phim 35mm vùng này có kích thước 24x36mm. Đôi khi hệ số phóng đại được ghi theo dạng thập phân như 0.25x hoặc 1.0x
Các nhà sản xuất ống kính thường phóng khoáng ghi thêm chữ “MACRO” lên ống kính như một thủ thuật bán hàng vậy. Một ống kính với chữ “MACRO” hầu như chẳng có ý nghĩa gì, bạn phải xem kỹ đặc tính của ống. Nếu ống kính có thể chụp với tỷ lệ 1:1 hoặc 1:2 thì đó thực sự là một ống macro, phù hợp để chụp cận cảnh, vài ống được thiết kế để có thể chụp các đối tưởng phẳng, dẹt như một con tem mà không gặp trở ngại gì về canh nét. Những ống kính chỉ đạt tỷ lệ cỡ 1:4 không thể cho các bức ảnh cận cảnh thực sự.
Các ống kính macro thường có chất lượng quang học cao hơn và giá cũng cao hơn các ống thường, chúng có thể chụp các đối tượng nhỏ, phẳng, dẹt. Đây cũng là lựa chọn tốt kể cả khi bạn không chụp cận cảnh nhiều, vì bạn luôn có thể dùng chúng cho các mục đích nhiếp ảnh thông thường khác mà còn lợi hại ở chỗ các ống kính này lấy nét được gần hơn các ống kính khác.

III.12. Ống kính chụp chân dung
Bất kỳ ống kính nào cũng có thể chụp chân dung, tuy nhiên kết quả khác nhau nhiều phụ thuộc vào chiều dài tiêu cự của chúng.
Khi bạn chụp bán thân, khoảng cách từ bạn đến mẫu phụ thuộc chiều dài tiêu cự, ống kính góc rộng khiến bạn phải đứng gần mẫu hơn, ống kính tiêu cự dài thì ngược lại, bạn phải đứng xa mẫu hơn.
Khoảng cách này ảnh hưởng đến sự phối cảnh, hãy thử nghiệm mà không cần máy ảnh, nếu bạn đứng thật gần ai đó, bạn sẽ thấy mũi bị nổi bật nhất, trán như bị nghiêng đi, nếu đứng ra xa thì mặt trông phẳng lại. Một sự biến dạng nhẹ trên gương mặt có thể khiến gương mặt trông như được tôn thêm vẻ kiêu ngạo, quan cách, nhưng thực tế ống kính góc rộng thường cho ra những bức hình chân dung tức cười và kỳ cục.
Nhiếp ảnh gia chân dùng thường xài ống kính tiêu cự 85 đến 135mm để chụp bán thân tuỳ từng mục đích. Một số nhiếp ảnh gia thời trang dùng ống 200 đến 300mm để mô tả hiệu ứng dẹt, phẳng. Bạn có thể dùng ống 50mm hoặc ngắn hơn nhưng chúng thường làm biến dạng gương mặt, ống kính loại này lại khá thích hợp khi chụp toàn thân hoặc ngang lưng.
Canon có một số ống kính thông thường cho chụp chân dung, ống 85mm 1.8, nhẹ và nét, ống 135mm 2.8 SF, có chức năng tiêu điểm mềm (soft focus) cho ra những tấm ảnh mềm mại.
Lưu ý là chiều dài tiêu cự đưa ra ở đây là cho máy phim 35mm, nếu bạn xài máy APS hoặc máy khung hình nhỏ, chiều dài tiêu cự tương ứng phải nhỏ đi. Ống kính 50mm hơn ngắn khi chụp chân dung nếu lắp trên máy 35mm, nhưng nếu lắp trên máy EOS 10D nó hoạt động như ống 80mm lắp trên máy phim vậy.

III.13. Ống kính mắt cá (fisheye lens).
Đa phần ống kính đều được thiết kế để biến một khung cảnh lên trên một mặt phẳng của khung hình, vì vậy nó luôn chuyển chính xác những đường thẳng song song vẫn thẳng, vẫn song song trên tấm ảnh cuối cùng. Đây là một bí quyết trong công nghệ sản xuất ống kính vì các hệ thống quang học thông thường luôn chuyển các đối tượng lên trên các mặt cầu (như nhãn cầu của mắt người vậy). Yêu cầu này càng khó khăn hơn nếu góc nhìn rộng hơn như trên các ống kính góc rộng, đây là một trong những lý do khiến ống kính góc rộng có giá cao như vậy.
Không phải ống kính nào cũng có được khả năng lưu ảnh nói trên giống nhau. Những ống chất lượng cao, đặc biệt thuộc nhóm cận cảnh hoặc chuyên chụp kiến trúc, thể hiện khả năng trên rất tốt. Những ống rẻ hơn tạo ra các tấm ảnh hơi biến dạng (phình ra hoặc lõm vào kiểu tang trống), vậy là khi chụp một hình vuông chẳng hạn, kết quả là một hình bị méo cạnh, vì các đường thẳng song song bị biến thành các đường cong. Thực tế, tất cả các ống kính đều có hiện tượng này, chỉ có điều chúng ta không nhận ra, vì hiếm khi ta chụp một hình vuông hoặc một hình chữ nhật.
Ống kính mắt cá là một ống kính góc rộng hoàn toàn không thèm để ý gì đến việc khắc phục hiện tượng méo ở trên. Chỉ có các đường thẳng đi qua tâm khung hình mới giữ nguyên thẳng trong tấm ảnh cuối, tất cả các đường thẳng khác đều bị uốn cong, càng gần rìa ảnh, càng cong hơn. Hiệu ứng này khiến những vật ở gần có vẻ càng gần hơn, những vật ở xa lại càng xa hơn, nếu bạn từng nhìn qua lỗ kính để quan sát trên một số cửa ra vào bạn cũng thấy hiện tượng này.
Đôi khi người ta gọi ống kính “thẳng” là ống “chính xác”, ống mắt cá là ống “biến dạng”, thực ra mọi chuyện chỉ là tương đối. Chính ống “thẳng” mới không chính xác- ống góc rộng có độ méo lớn và cố kéo dài các cạnh ra để tạo thành đường thẳng. Ống mắt cá thì ngược lại, nhấn mạnh thêm hiệu ứng méo tạo ra những bức ảnh rất riêng, dùng ống này chụp chân dung cho một cái mũi phồng ra tựa tranh biếm hoạ vậy.
Ống mắt cá hữu dụng bởi ba lý do: Thứ nhất, đây là cách rẻ nhất để tạo ra ống siêu rộng, vì vậy ống mắt cá rẻ hơn các ống siêu rộng “thẳng” tương đương. Thứ hai, và là lý do chính khiến ống này có mặt trên đời, ống mắt cá có thể tạo ra góc nhìn 1800, cực kỳ hữu ích cho ảnh khoa học, nhất là khi chụp bầu trời. Thứ ba, hiệu ứng làm méo hình đôi khi cho ra những bức ảnh khá vui vẻ và kỳ lạ.
Có hai loại ống mắt cá: Ống tròn hay ống mắt cá 1800 bao phủ (trong phần lớn trường hợp) góc thu hình 1800, tạo ra bức ảnh trông như quả bóng trên nền đen nhưng góc nhìn đủ 1800 ngang theo mọi cạnh bức ảnh. Một dạng ống khác đôi khi gọi là “nửa mắt cá” hay ống “toàn khung” tạo ra vùng nhìn thu nhỏ và bạn không bị các vùng đen ở các góc bức ảnh, nhưng góc nhìn chỉ đạt 1800 theo đường chéo bức hình (theo cạnh ảnh nó chỉ đạt khoảng 1200-nd ).
Trên máy phim 35mm, ống mắt cá “tròn” có chiều dài tiêu cự là 8mm, ống “nửa mắt cá” có chiều dài tiêu cự 15 đến 16mm. Về các ống “gần tròn”, Sigma bán ống 8mm, lấy nét tự động cho máy EOS, Peleng (Belarus) bán ống 8mm, lấy nét tay cũng lắp được cho EOS. Về các ống “toàn khung”, Canon bán ống 15mm, lấy nét tự động cho EOS và Zenitar (Nga) bán ống 16mm, lấy nét tay, cũng lắp được cho EOS. Cũng có các ống nối vặn ren để chuyển các ống thường thành các ống mắt cá tuy chất lượng các ống nối này thấp nhưng cũng khá thú vị khi xài chúng.
Nhiều dân chơi ảnh coi các ống mắt cá chỉ là tàn dư của những năm 1970. Thực tình mà nói, ống loại này với các hiệu ứng của nó khá lợi hại trong một số trường hợp, tuy nhiên chắc chắn đây không phải ống sử dụng thường xuyên. Chụp ảnh dưới nước hoặc ảnh thiên nhiên, nơi có ít đường thẳng, thì ống mắt cá sẽ là công cụ hữu ích.
Nguồn: Ý nghĩa chữ số trên ống kính ( lens ) - Cựu Học Sinh Lê Quý Đôn - Long An
 

dangnham

New Member
Ðề: Kiến thức căn bản về nhiếp ảnh

Đo sáng - những điều có thể bạn chưa biết

Người dùng nghiệp dư hoặc bán chuyên thường ít quan tâm đến các chế độ đo sáng trên máy ảnh và thường chỉ sử dụng chế độ đo sáng sẵn có. Những thông tin về chế độ đo sáng dưới đây sẽ giúp các bạn hiểu hơn về vấn đề này.



Máy ảnh kỹ thuật số thông thường có 3 tùy chọn đo sáng, đó là:


- Matrix Metering (Đo sáng ma trận)
- Center Weight Metering (Đo sáng trung tâm)
- Spot Metering (Đo sáng điểm)

Một số mẫu máy ảnh có nhiều tùy chọn hơn nhưng đây là những tùy chọn cơ bản mà người mới chụp ảnh nên biết.

Có vô số lí do để sử dụng các chế độ đo sáng khác nhau, tùy thuộc vào tính huống chụp, điều kiện ánh sáng khi chụp và loại máy ảnh sử dụng để chụp. Những tình huống nên sử dụng của từng chế độ đo sáng:

Center Weight Metering – Đo sáng trung tâm


Do-sang-trung-binh.JPG

Ảnh chụp với chế độ sáng trung tâm

Với chế độ đo sáng này, máy ảnh sẽ tập trung đo sáng ở các vùng 60%-80% tính từ trung tâm khung ngắm. Chế độ đo sáng trung tâm được các nhiếp ảnh gia chụp chân dung ngoài trời đánh giá cao và thường sử dụng.

Đo sáng trung tâm thích hợp sử dụng khi người dùng không quá quan tâm tới ánh sáng của phông nền. Chủ thể bức ảnh là điểm quan trọng nhất và nổi bật nhất. Đo sáng trung tâm sẽ tập trung hiệu quả và nhấn mạnh ấn tượng ở khoảng giữa của khung ảnh.

Phần phía sau phông nền hoặc các vùng không phải trọng tâm của ảnh sẽ có độ sáng vừa đủ để cân đối với vùng trung tâm được xác định để đo sáng.

Spot Metering – Đo sáng điểm:

Do-sang-diem.jpg

Ảnh chụp bằng chế độ đo sáng điểm

Máy ảnh chỉ đo sáng tại một vùng rất nhỏ (khoảng 1%-5% khung ngắm). Điểm này thường là trung tâm của cảnh, tuy nhiên nhiều máy ảnh cho phép người dùng lựa chọn điểm ngoài trung tâm (off-center), hoặc cho phép sắp xếp lại bố cục bằng cách di chuyển máy ảnh sau khi đo sáng xong.

Đo sáng điểm là lựa chọn tốt khi chụp ảnh trong tính huống chụp ngược sáng hoặc khi nguồn sáng chủ yếu từ đèn màu (chụp sân khấu). Điều cốt yếu là chủ thể phải được đo sáng một cách chính xác để được làm nổi bật trên nền một bức ảnh.

Người chụp cần khóa sáng vào điểm cần chụp và nhấn mạnh trong bức ảnh để máy ảnh xác định đó là điểm cần phải đo sáng chính xác. Trong nhiều trường hợp chụp ngược sáng với nguồn sáng phía sau quá mạnh, việc bù trừ sáng (+/-EV) là rất cần thiết.

Matrix Metering – Đo sáng ma trận

Do%20sang%20ma%20tran.jpg

Ảnh chụp bằng chế độ đo sáng ma trận

Máy ảnh sẽ tự động đo cường độ ánh sáng từ các điểm khác nhau trong toàn khung hình, sau đó kết hợp các kết quả để đưa ra thiết lập thông số tốc độ màn trập và độ mở tối ưu.

Đo sáng ma trận cho phép máy ảnh đo sáng từng khu vực trên ảnh để thiết lập các thông số về tốc độ màn trập và độ mở ống kính. Chế độ này thường là thiết lập mặc định trong hầu hết mọi loại máy từ máy ảnh du lịch cho đến máy ảnh DSLR chuyên nghiệp. Chế độ đo sáng này mang lại những bức ảnh đo sáng đều và chính xác nhiều tình huống thông thường.

Với những người dùng có kinh nghiệm và trải nghiệm nhiều kĩ thuật đo sáng này, họ sẽ có cách nhìn ánh sáng và phán đoán máy ảnh hoạt động tốt hay không.

Việc học cách sử dụng bù trừ sáng (+/- EV) kết hợp với đo sáng ma trận sẽ giúp người chụp ảnh có thể kiểm soát được bao nhiêu ánh sáng nên có trong ảnh.
 

hellomoto

Active Member
Ðề: Kiến thức căn bản về nhiếp ảnh

lão mod này post bài mà ko ghi nguồn nhá :D
 
Ðề: Kiến thức căn bản về nhiếp ảnh

cám ơn bạn rất nhiều
Nhờ bạn tập hợp những bài viết này, những newbie dễ hiểu hơn về máy ảnh DSLR
 

aspire5570

New Member
Ðề: Kiến thức căn bản về nhiếp ảnh

Cám ơn chủ thớt rất nhìu vì những thông tin cho những newbie :)
 
Ðề: Kiến thức căn bản về nhiếp ảnh

Pác chủ đăng bài này ngay lúc em bắt đầu thích chụp ảnh :D, đó giờ thấy nhiều sách quá nên cũng ngán ngâm cứu :-s, giờ phải ngâm cứu kỹ "tâm huyết" của pác để mơi mốt rủ bé gấu đi chụp :)>-

em la thanh vien moi, em cung thich tim toi trong van de nay

Sao mà pác cứ viết bài không dấu thế nhỉ ???? Vừa report pác bên topic của pác Bình lại qua đây gặp nữa :-w.
 
Ðề: Kiến thức căn bản về nhiếp ảnh

[/QUOTE]Sao mà pác cứ viết bài không dấu thế nhỉ ???? Vừa report pác bên topic của pác Bình lại qua đây gặp nữa :-w.[/QUOTE]

hữu duyên thiên lý năng tương ngộ mờ pác ...^#(^
 

tieuthieugia

Well-Known Member
Ðề: Kiến thức căn bản về nhiếp ảnh

bác chủ rảnh, update thêm cho anh em học hỏi đi
 
Bên trên