HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

caosonhd

BĐH HD Hải Dương
Topic này lập ra để cho anh em HD Hải Dương có sân chơi tìm hiểu về đất và người Hải Dương xưa và nay. Các bài post hay, đáng tin cậy sẽ được ghép vào trang nhất để mọi người tìm hiểu, học tập.
Rất mong các anh em yêu Hải Dương trên khắp mọi miền tổ quốc tham gia.

TỔNG QUAN VỀ HẢI DƯƠNG QUÊ TA:

bandohanhchinhhd.jpg


Tỉnh Hải Dương ngày nay nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), có diện tích tự nhiên 1.661,2km2, dân số gần 1,7 triệu người; tiếp giáp 6 tỉnh, thành phố: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình và Hưng Yên; gồm 1 thành phố, 11 huyện, 263 xã - phường, 1411 thôn - khu dân cư.

Thời Hùng Vương, Hải Dương thuộc bộ Dương Tuyền; thời Bắc thuộc, thuộc Hồng châu; thời Trần đổi thành Hồng lộ, đến năm Quang Thái thứ 10 (1397), đổi là Hải Đông lộ; thời thuộc Minh (1407-1428) là phủ Nam Sách. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), cả nước chia thành 5 đạo, Hải Dương thuộc Đông Đạo; năm Quang Thuận thứ 7 (1466), đổi thành thừa tuyên Nam Sách; năm Quang Thuận thứ 10 (1469), đặt là thừa tuyên Hải Dương, sau là trấn Hải Dương. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đặt là tỉnh Hải Dương. Tháng 1/1968, sáp nhập với tỉnh Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Tháng 2 năm 1997, tỉnh Hải Dương được tái lập, trên cơ sở tách tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh như cũ.

Hải Dương nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cái nôi của nền văn minh Sông Hồng, lại cận kề Kinh thành Thăng Long, trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nước; đương nhiên, văn minh Sông Hồng, văn hoá Thăng Long trực tiếp tác động và kết tinh nhiều thành tựu rực rỡ trên đất này.

Hải Dương là vùng đất trù phú, cảnh quan đa dạng, hệ thống sông ngòi chằng chịt; giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông rất thuận tiện, với nhiều tuyến đường huyết mạch của cả nước chạy qua. Từ bao đời, xứ Đông vẫn là "phên dậu phía Đông" của Kinh thành Thăng Long, là địa bàn chiến lược, với những vị trí trọng yếu trong các cuộc chiến tranh giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc; Hải Dương án ngữ các đường thuỷ bộ chủ yếu để tiến vào Thăng Long và rút chạy của những đội quân xâm lược phương Bắc. Hình thế núi sông hiểm yếu (đặc biệt là vùng Chí Linh, Kinh Môn), rất thuận lợi cho người chỉ huy tác chiến có tài, cả khi công hoặc khi thủ, tiến hay lui. Vì vậy, rất nhiều nhà quân sự - văn hoá lỗi lạc của dân tộc đã đến đây, nghiên cứu thực địa, bày thế trận, lập chiến công, để lại dấu son không bao giờ phai trong lịch sử nước nhà.

Hải Dương có 9 huyện đồng bằng phì nhiêu bát ngát, tiếp giáp là hai huyện miền núi Chí Linh, Kinh Môn (liền một dải với huyện Đông Triều - từ năm 1961 về trước vẫn thuộc Hải Dương) là một vùng núi non kỳ thú, sơn thuỷ hữu tình, nhiều núi đẹp nổi tiếng từ xưa: Trán Rồng, Côn Sơn, Ngũ Nhạc, Phượng Hoàng, Bái Vọng, Trúc Sơn, An Lạc, An Phụ, Kính Chủ v.v. Đây là vùng đất lý tưởng để các bậc tiên hiền thấm nhuần lẽ xuất xử của đạo Nho lựa chọn. Ở đây, khi bất đắc chí, phải lui về (xử), chỉ đi qua vài dốc núi, nhà nho đã vào đến chốn lâm tuyền, đã tìm được nơi vô cùng thanh tĩnh, yên ả để ở ẩn, tránh thế tục, "lánh đục về trong". Khi thời cơ đến cần ra giúp đời, chỉ một hai khắc giờ đã kịp về với đồng bằng, với cuộc đời rộng lớn, thậm chí chỉ một hai ngày đường bộ hoặc ngồi thuyền là đã về tới Thăng Long, hoặc dễ dàng, mau chóng tới những địa phương khác - nơi cuộc đời đang cần họ ra tay "trị quốc, bình thiên hạ". Có thể nói: Hải Dương là địa bàn thuận lợi cho các danh nhân, cả dụng văn và dụng võ, cả khi hành và khi chỉ, cả lúc xuất lẫn lúc xử *1. Người Hải Dương lại có truyền thống hiếu học, khao khát tri thức, tôn trọng nhân tài, giàu ân nghĩa với người có công với nước, luôn nhiệt tình chào đón và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nhân tài đến Hải Dương sống và phấn đấu vì nghiệp lớn.

Những điều kiện địa lý, lịch sử và con người nói trên đã là nguyên nhân làm cho xứ Đông trở thành nơi sinh ra nhiều danh nhân, thành nơi mời gọi nhiều anh tài 4 phương về đây lập nghiệp. Không phải ngẫu nhiên, Lê Đại Hành chọn núi rừng An Lạc đóng đại bản doanh chỉ huy trận Bạch Đằng đại thắng năm 981; Trần Hưng Đạo - vị tướng tài kiệt xuất, Nguyễn Trãi - danh nhân văn hoá thế giới cùng Chu Văn An, người thầy tiêu biểu mẫu mực của muôn đời, đó là những nhân vật vĩ đại bậc nhất của đất nước, đã gắn bó máu thịt với Hải Dương. Cuộc đời, sự nghiệp của của các danh nhân cùng quá trình lao động sáng tạo của đông đảo nhân dân, qua nhiều thế hệ, đã làm cho Hải Dương - "đất học", "đất danh nhân", "đất văn hiến" - xây dựng được nhiều truyền thống quý báu, để lại một kho tàng văn hoá thật phong phú, đa dạng và độc đáo. Đó là một khối lượng lớn văn hoá vật thể và phi vật thể rất giá trị, với hàng ngàn di tích quý, hàng trăm làng nghề lâu đời, nhiều sản phẩm văn hoá ẩm thực và nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc, nhiều sinh hoạt văn nghệ dân gian nổi tiếng như hát chèo, hát đối, hát trống quân, cò lả và rất nhiều bài ca dao dân ca làm say đắm lòng người.

Toàn tỉnh hiện có 1.098 di tích lịch sử, văn hoá, danh thắng; trong đó có 133 di tích được xếp hạng quốc gia, tiêu biểu là Côn Sơn, Kiếp Bạc, Phượng Hoàng (Chi Linh) An Phụ, Kính Chủ (Kinh Môn). Các di tích trên địa bàn mang dấu ấn của nhiều thời đại: thời đồ đá cũ có niên đại trên 3 vạn năm ở hang Thánh Hoá - núi Nhẫm Dương (Kinh Môn), thời đại đồ đồng với những di chỉ, di vật quý tại Đồi Thông (Kinh Môn), Hữu Chung (Tứ Kỳ), làng Gọp (Thanh Hà)... Văn hoá Lý - Trần, Lê, Nguyễn là một dòng chảy đậm đặc và liên tục trên vùng đất này, để lại dấu ấn đậm nét trong hàng loạt di tích, gắn liền với những sự kiện kịch sử trọng đại, những danh nhân nổi tiếng. Chỉ riêng huyện Chí Linh đã có hàng trăm di tích quý như thế; trong một không gian chừng 10km2 thuộc bốn xã Hưng Đạo, Văn An, Lê Lợi, Cộng Hoà đã có hàng chục di tích lưu giữ những kỷ niệm về 3 danh nhân vĩ đại: Trần Hưng Đạo - danh nhân quân sự (Kiếp Bạc), Nguyễn Trãi - danh nhân văn hoá (Côn Sơn), Chu Văn An - danh nhân giáo dục (Phượng Hoàng).

Hải Dương còn là quê hương của nhiều làng nghề truyền thống danh tiếng như chạm khắc đá Kính Chủ (Kinh Môn), chạm khắc gỗ Đông Giao (Cẩm Giàng), kim hoàn Châu Khê và gốm Cậy (Bình Giang); gốm Chu Đậu (Nam Sách); khắc ván in Hùng Lục, Liễu Tràng (Gia Lộc), thêu Xuân Nẻo (Tứ Kỳ), dệt chiếu Tiên Kiều (Thanh Hà)... Sản phẩm của các làng nghề truyền thống thể hiện sự sáng tạo, khéo léo, tài hoa của người xứ Đông, được khách hàng trong nước và quốc tế ưa chuộng.

Hệ thống di tích lịch sử - văn hoá - danh thắng, đặc biệt là các di tích quan trọng của quốc gia trên địa bàn, cùng với hệ thống các làng nghề nổi tiếng, góp phần quan trọng làm cho Hải Dương trở thành một vùng văn hoá đặc biệt hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu của khách thập phương về các phương diện: tìm hiểu lịch sử - văn hoá, sinh hoạt tâm linh, thưởng ngoạn cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, chiêm ngưỡng bàn tay tài hoa, khéo léo và các sản phẩm nghệ thuật tinh xảo của các nghệ nhân làng nghề…

Người Hải Dương không chỉ giỏi làm ra nhiều nông sản, đặc sản quý như gạo nếp cái hoa vàng (Kinh Môn, Cẩm Giàng), vài thiều (Thanh Hà), dưa hấu (Gia Lộc), nai dai, chuối mật (Chí Linh)… mà còn giỏi chế biến nhiều món ăn đặc sản nổi tiếng khắp trong, ngoài nước như bánh đậu xanh, bánh khảo, bánh cuốn (TP. Hải Dương), bánh gai (Ninh Giang), bánh đa Kẻ Sặt (Bình Giang), rượu Phú Lộc (Cầm Giàng), giò chả (Gia Lộc), chả, mắm rươi (Kim Thành), mắm cáy (Thanh Hà)…. Văn hoá ẩm thực của Hải Dương phong phú, đa dạng, dân dã mà tinh tế, hấp dẫn. Hương vị đặc biệt của các món ẩm thực địa phương đã làm cho người Hải Dương tự tin mời khách bốn phương và những người đã một lần thưởng thức, thì xa lâu còn nhớ.

Giá trị đặc trưng của văn hoá phi vật thể xứ Đông được thể hiện ở các lễ hội truyền thống, ở phong tục, tập quán, lối sống của cộng đồng người Hải Dương xưa và nay; ở các hoạt động văn nghệ dân gian; ở một khối lượng không nhỏ những trước tác về chính trị, quân sự, văn hoá - xã hội, về sử học, y học … của các trí thức lớn, các nhà khoa bảng người Hải Dương. Với 566 lễ hội được khôi phục, đặc biệt, với việc từng bước thực hiện thành công Đề án nâng cấp lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc giai đoạn 2006 - 2010 đã một phần thể hiện rõ nét yếu tố văn hóa đặc trưng này. Đó là, lễ hội mang đậm yếu tố lịch sử, phong tục, tín ngưỡng tôn giáo, tưởng niệm và ngợi ca công lao, đức hạnh của các bậc hiền tài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, giáo dục các thế hệ hướng tới sự tiến bộ, sự cao đẹp; cầu mong quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, đời sống ấm no, hạnh phúc... Mồng 4 tết âm lịch, đình Nhân Lý (Nam Sách) khai hội - lễ hội mở đầu của mùa lễ hội Xuân. Từ 16 đến 21 tháng giêng là lễ hội Xuân Côn Sơn. Tháng tám mùa thu, Lễ hội đền Kiếp Bạc, một trong những lễ hội lớn nhất của cả nước. Đến với lễ hội xứ Đông, du khách sẽ được tham dự các lễ rước lớn, các cuộc biểu diễn nghệ thuật, các trò chơi dân gian, diễn xướng đặc sắc: Lễ đàn Mông Sơn thí thực (lễ hội Côn Sơn); hội quân, hội hoa đăng trên sông Lục Đầu (lễ hội đền Kiếp Bạc); bơi chải (lễ hội Đền Quát - Gia Lộc; Đình Cậy - Bình Giang), đánh gậy (lễ hội Đền Cuối, Gia Lộc); hát đối (lễ hội Đền Vàng, Gia Lộc), hát chầu văn (Đền Tranh, Ninh Giang); đặc biệt là trò đánh bệt (lễ hội Đền Sượt - TP Hải Dương), thi bày mâm ngũ quả và thi nấu cơm (lễ hội chùa Minh Khánh và lễ hội chùa Hào Xá, Thanh Hà)...

Có thể nói: Lễ hội và di tích ở Hải Dương là một tiềm năng, thế mạnh lớn cho ngành du lịch của tỉnh và của cả vùng Đông Bắc đất nước.

Cùng với lễ hội dân gian, nghệ thuật chèo cũng phát triển sớm, sâu rộng và đạt nhiều thành tựu, khiến xứ Đông thành một cái nôi chèo của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Chiếng chèo Đông, từ những năm ba mươi của thế kỷ XX đến nay, vẫn rất nổi tiếng, đã sinh ra và nuôi dưỡng nên nhiều nghệ nhân tên tuổi: Phạm Thị Trân, Trùm Thịnh, Trùm Bôn, cố nghệ sĩ nhân dân Trịnh Thị Lan, Minh Lý. Những nghệ sỹ tài năng ấy đã có đóng góp đáng tự hào cho nghệ thuật chèo Việt Nam hiện đại. Cùng với chèo, hát ca trù trên đất Hải Dương cũng rất phổ biến, với không ít nghệ nhân tài ba. Nghệ sỹ lão thành Nguyễn Phú Đẹ, tuy tuổi đã ngoại tám mươi, vẫn được giới chuyên môn đánh giá là cây đàn đáy bậc thầy và diệu nghệ nhất, viên ngọc quý của nghệ thuật ca trù Việt Nam hiện nay. Tiềm năng văn hoá xứ Đông rất lớn, còn vì vùng đất này vẫn đang lưu giữ rất tốt nhiều loại hình văn nghệ, cả bác học lẫn dân gian: Tuồng, xiếc, rối nước, hát trống quân, hát đối, hát ru, ca dao, tục ngữ. Kho tàng văn nghệ truyền thống khá đồ sộ trên địa bàn, thể hiện một cách nhuần nhị những nét thuần hậu, tinh tế, trữ tình và lạc quan trong tâm hồn, cốt cách của người tỉnh Đông, có sức thu hút mạnh mẽ đối với du khách.

Văn hoá xứ Đông phong phú, đa dạng, có giá trị nhiều mặt bởi được hình thành, tạo dựng không chỉ từ truyền thống lao động cần cù và thông minh sáng tạo mà còn từ truyền thống yêu nước anh hùng của người Hải Dương. Suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đất và người Hải Dương đã góp phần vẻ vang làm nên những mốc son lịch sử chói lọi trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với tên tuổi nhiều nhân vật nổi tiếng cả nước, tiêu biểu là 2 nữ tướng Thiện Nhân, Thiện Khánh (thời Bà Trưng); là Khúc Thừa Dụ, người khởi đầu cho thời kỳ khôi phục và xây dựng nền độc lập sau hàng ngàn năm Bắc thuộc; là các quan, tướng lừng danh: Yết Kiêu, Trần Khắc Chung, Trần Khánh Dư, Nguyễn Chế Nghĩa … (thời Trần); là Nguyễn Trãi, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới (thời Lê sơ); là Nguyễn Hữu Cầu, người anh hùng nông dân khởi nghĩa nổi tiếng nhất thế kỷ XVIII (thời Lê mạt); là Đốc Tít, Đỗ Quang, những anh hùng cần vương chống Pháp (thế kỷ XIX); là Lê Thanh Nghị, Nguyễn Lương Bằng, những chiến sỹ cách mạng kiên cường, có công lao to lớn trong sự nghiệp giành và giữ nền độc lập của Tổ quốc (thế kỷ XX). Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hải Dương đã có trên 30 vạn thanh niên lên đường bảo vệ Tổ quốc, trong số đó có hơn 38 ngàn liệt sỹ; toàn tỉnh có gần 1,7 ngàn Mẹ Việt Nam anh hùng. Đất nước và nhân dân đời đời ghi nhớ công lao của những người đã cống hiến hy sinh vì độc lập - tự do. Họ là những tấm gương sáng chói cho các thế hệ hôm nay và mai sau noi theo.

Hải Dương xưa nay rất nổi tiếng bởi truyền thống hiếu học và khoa bảng; là tỉnh đứng đầu cả nước về số người đỗ đại khoa*2, với 498 tiến sĩ nho học, trong đó có 11 trạng nguyên, một người (Nguyễn Thị Duệ), hiện được coi là nữ tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Nam Sách có 125 tiến sỹ, nhiều nhất cả nước tính theo địa bàn cấp huyện. Làng Mộ Trạch (huyện Bình Giang) có 39 tiến sỹ, được tôn vinh là Làng Tiến sĩ của nước Nam. Văn Miếu Mao Điền (Cẩm Giàng), Văn Miếu của trấn Hải Dương xưa, là một minh chứng cho truyền thống hiếu học của người tỉnh Đông, một trung tâm đào tạo nhân tài cho đất nước. Trong số những nhà khoa bảng của tỉnh Hải Dương, có rất nhiều người có tài đức lớn, lập được nhiều công trạng đối với Tổ quốc, nhân dân; nhiều người để lại những trước tác nổi tiếng trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, khoa học, văn học, ngoại giao… như: Tuệ Tĩnh, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Lê Cảnh Tuân, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Lương Như Hộc, Vũ Hữu, Vũ Quỹnh, Nguyễn Dữ, Lê Quang Bí, Đỗ Uông, Vũ Phương Đề, Phạm Quý Thích, Nguyễn Quý Tân. Ở thời đại nào, Hải Dương cũng là tỉnh đóng góp nhiều nhân tài, vật lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, phát huy truyền thống hiếu học của quê hương, noi gương các bậc tiên hiền, các thế hệ người tỉnh Đông đã phấn đấu không ngừng, làm cho Hải Dương luôn giữ vững vị trí hàng đầu về phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, có nhiều học sinh giỏi quốc gia và quốc tế.

Nhận thức sâu sắc rằng: Kho tàng văn hoá truyền thống do tổ tiên để lại đó là vốn di sản quý báu, là cơ sở xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam dân tộc, hiện đại, là nguồn nội lực trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, nên ngay sau ngày hoà bình lập lại, các cấp uỷ Đảng, chính quyền và toàn ngành Văn hoá Thông tin tỉnh nhà đã luôn chăm lo việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá của tỉnh.

Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, đã có trên 70% di tích trên địa bản được chống xuống cấp bằng nguồn ngân sách Nhà nước và nguồn vốn nhân dân đóng góp. Các khu di tích: Cơn Sơn, Kiếp Bạc, Phượng Hoàng, An Phụ, Văn Miếu Mao Điền, cụm di tích Tuệ Tĩnh và hàng loạt di tích xếp hạng quốc gia khác trên địa bàn được quy hoạch và từng bước trùng tu, tôn tạo. Các công trình có giá trị lịch sử, văn hoá, nghệ thuật cao như tượng đài Trần Hưng Đạo trên núi An Phụ, đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ Trần Nguyên Đán và đường lên Ngũ Nhạc Linh Từ tại Côn Sơn, đền thờ Tuệ Tĩnh tại xã Văn Thai, Điện Lưu Quang và đền thờ Chu Văn An tại khu di tích Phượng Hoàng...được xây dựng mới hoặc tu bổ lớn những năm gần đây. Môi trường cảnh quan tại các khu di tích được bảo vệ khá tốt. Những nỗ lực to lớn của tỉnh đã góp phần nâng vị thế văn hoá xứ Đông lên một tầm cao mới, đáp ứng nhu cầu của hàng triệu du khách tới tham quan, nghiên cứu học tập và sinh hoạt văn hoá tâm linh tại các di tích.

Công tác nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy văn hoá phi vật thể cũng được UBND tỉnh quan tâm đầu tư, ngành Văn hoá Thông tin thực hiện có hiệu quả. Tỉnh đã hoàn thành nhiều công trình khoa học nghiên cứu về phong tục tập quán, lễ hội, văn nghệ dân gian, di sản Hán nôm, làng nghề truyền thống, nhân vật chí v.v. Đó là những nguồn tư liệu quí giá cho công tác nghiên cứu khoa học, góp phần giáo dục truyền thống, xây dựng lối sống cao đẹp cho các thế hệ người Hải Dương hôm nay và mai sau. Hàng loạt làng nghề truyền thống được khôi phục và hỗ trợ phát triển theo một quy hoạch thống nhất, hiện đang hoạt động có hiệu quả, sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị thẩm mỹ và kinh tế cao, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và du lịch, dịch vụ. Các loại hình văn nghệ truyền thống như: Hát chèo, hát tuồng, hát ca trù, hát chầu văn, hát đối, hát trống quân đang được hồi sinh mạnh mẽ thông qua các hoạt động biểu diễn, giao lưu, liên hoan nghệ thuật, hội diễn, hội thi của đông đảo quần chúng tại các địa phương trong tỉnh... Hiện nay Hải Dương còn có 8 đoàn nghệ thuật xiếc tư nhân, 3 phường rối nước đang được bảo tồn và hoạt động hiệu quả, không chỉ thể hiện niềm đam mê nghệ thuật và ý thức trách nhiệm của các nghệ sỹ, của đông đảo nhân dân Hải Dương trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hoá; đồng thời, đây là bằng chứng về những nỗ lực của tỉnh, của ngành Văn hoá - Thông tin, đối với việc đẩy mạnh công tác xã hội hoá, quyết tâm xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Cùng với sự bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, các thiết chế và nếp sống văn hoá mới đang ngày càng được xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động. Thiết chế văn hoá cấp tỉnh đều tập trung tại thành phố Hải Dương. Bảo tàng tỉnh đang lưu giữ hơn 41ngàn hiện vật, 16 bộ sưu tập hiện vật gốm, hàng năm thu hút hàng chục nghìn lượt người tới tham quan, học tập, nghiên cứu. Thư viện tỉnh có hơn 92 ngàn bản sách, gần 200 loại báo, tạp chí, với trên 50 ngàn lượt bạn đọc trong 1 năm. Nhà Triển lãm Thông tin hàng năm tổ chức từ 3 đến 4 cuộc triển lãm. Các thành tựu, sản phẩm kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước và của tỉnh được phản ánh khá kịp thời qua công tác triển lãm, thông tin, cổ động. Nhà Văn hoá Trung tâm tỉnh là nơi tổ chức nhiều sự kiện chính trị, văn hoá lớn của tỉnh, đồng thời, còn là địa chỉ yêu thích của hàng ngàn hội viên tới sinh hoạt nhiều loại hình văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao. Rạp chiếu bóng, Nhà hát nhân dân cũng đang được đổi mới hoạt động sau nhiều năm đối mặt với sự chuyển đổi của cơ chế thị trường, từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu hưởng thụ ngày càng cao của công chúng. Tại các huyện - thành phố, các xã, thôn - khu dân cư, đều được tỉnh hỗ trợ và nhân dân đóng góp xây dựng Nhà văn hoá, thư viện, tủ sách và duy trì được các hoạt động thường xuyên, có chất lượng, nên lôi cuốn đông đảo nhân dân, góp phần nâng cao đời sống văn hoá cộng đồng.

Ngày nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, tỉnh Hải Dương đang phát triển mạnh mẽ, toàn diện; đặc biệt, sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới ngày càng khởi sắc, phát triển đồng bộ và chất lượng, khẳng định vị thế, tầm vóc của văn hiến xứ Đông trong lịch sử cũng như trong cuộc sống hiện tại, góp phần xứng đáng vào việc làm cho tỉnh Hải Dương trở thành điểm đến lý tưởng của thế kỷ XXI để du khách tha hồ khám phá, thưởng thức và du lịch./.

Ghi chú:

*1. Xuất và xử, hành và chỉ: Phương châm xử thế của các nhà Nho. Khi gặp minh quân, thánh chúa, lúc có thời cơ có thể đem tài đức ra giúp đời thì ra (xuất) thi thố với đời, phò vua giúp nước, giúp dân (hành); vào lúc hôn quan bạo chúa trị vì, lúc dòng đời đen bạc, không thể tỏ chí mình, ở lại khó giữ được thanh danh, thì dừng không làm việc phò vua nữa, thôi làm quan (chỉ), lui về ở ẩn (xử), lánh chỗ đục, về chỗ trong.

*2. Tính theo đơn vị tỉnh, thì Hải Dương đứng đầu, nếu tính theotỷ lệ số tiến sỹ trên số dân, thì tỉnh Bắc Ninh đứng đầu.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

caosonhd

BĐH HD Hải Dương
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN XỨ ĐÔNG:

Trong những năm qua, Hải Dương thực sự đã trở thành điểm sáng về sự năng động trong phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta sẽ không mấy ngạc nhiên về sức bật mạnh mẽ của mảnh đất này nếu hiểu sức mạnh ấy được hun đúc từ chính cội nguồn truyền thống văn hóa - lịch sử. Truyền thống là nền tảng, là động lực, tạo đà cho Hải Dương tự tin tiến nhanh, tiến mạnh cùng đất nước trong giai đoạn mới, giai đoạn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Hải Dương là tỉnh thuộc trung tâm Ðồng bằng Bắc Bộ, thuộc địa bàn trọng điểm kinh tế của các tỉnh phía Bắc. Phía đông giáp thành phố Hải Phòng; phía tây giáp tỉnh Hưng Yên; phía bắc giáp 3 tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh; phía nam giáp tỉnh Thái Bình. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh 1.660,9 km2.

Tên gọi "Hải Dương" chính thức có từ năm 1469. Hải Dương có nghĩa là "ánh sáng từ miền duyên hải chiếu về".

14v8m0-3.jpg


Cổng thành Hải Dương 1884-1885

ÐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH HẢI DƯƠNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ:

Hải Dương là vùng đất được hình thành trong thời đồ đá. Cùng với những biến thiên, thăng trầm của lịch sử, vùng đất này cũng có những thay đổi về tên gọi, địa giới hành chính. Lúc đầu là một bộ phận thuộc Dương Tuyền (thời Hùng Vương); Giao Chỉ, Giao Châu (thiên niên kỷ I); sau trở thành Nam Sách Lộ, Hồng Lộ (thời Lý, Trần); Hồng Châu, Nam Sách Châu (cuối thế kỷ XVI); Thừa Tuyên, Hải Dương (năm Quang Thuận thứ 10 - năm 1469). Năm 1831, tỉnh Hải Dương chính thức được thành lập (lúc này tỉnh Hải Dương còn có tên gọi là tỉnh Ðông), bao gồm:

+ Phủ Thượng Hồng có các huyện: Ðường Hào, Dương Yên, Cẩm Giàng, Thanh Miện, Tứ Kỳ, Vĩnh Bảo.

+ Phủ Nam Sách có các huyện: Nam Sách, Chí Linh, Thanh Hà, Tiên Lãng.

+ Phủ Kinh Môn có các huyện: Giáp Sơn, Ðông Triều, Thuỷ Ðường, An Lão, Nghi Dương, Kim Thành, An Dương.

Năm 1887, huyện An Dương, An Lão và một phần đất của huyện Thuỷ Ðường được tách ra, thành lập tỉnh Hải Phòng. Năm 1889, cắt toàn bộ huyện Thuỷ Ðường và năm 1893 cắt tiếp huyện Tiên Lãng cùng một phần đất huyện Kim Thành, Kinh Môn về Hải Phòng.

Năm 1947, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, để tiện cho việc chỉ đạo, chỉ huy tác chiến, các huyện Ðông Triều, Chí Linh, Nam Sách, Kinh Môn chuyển về tỉnh Hồng Quảng. Năm 1954, các huyện trên lại chuyển về tỉnh Hải Dương. Năm 1960, huyện Ðông Triều được cắt hẳn về Hồng Quảng và huyện Vĩnh Bảo cũng cắt về tỉnh Kiến An.

Từ năm 1960 trở đi, tỉnh Hải Dương có các huyện: Ninh Giang, Tứ Kỳ, Gia Lộc, Thanh Miện, Bình Giang, Cẩm Giàng, Nam Sách, Kinh Môn, Kim Thành, Thanh Hà, Chí Linh và thị xã Hải Dương.

Tháng 3-1968, theo Nghị quyết số 504/NQ-TVQH của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, tỉnh Hải Dương hợp nhất với tỉnh Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Toàn tỉnh lúc này có 20 huyện và 2 thị xã, tỉnh lỵ là thị xã Hải Dương.

Tháng 4-1979, huyện Gia Lộc hợp nhất với huyện Tứ Kỳ thành huyện Tứ Lộc; huyện Thanh Miện hợp nhất với huyện Ninh Giang thành huyện Ninh Thanh; huyện Cẩm Giàng hợp nhất với huyện Bình Giang thành huyện Cẩm Bình.

Tháng 4-1979, huyện Nam Sách hợp nhất với huyện Thanh Hà thành huyện Nam Thanh; huyện Kinh Môn hợp nhất với huyện Kim Thành thành huyện Kim Môn.

Tháng 6-1996, huyện Ninh Thanh và Tứ Lộc tách ra thành các huyện Ninh Giang, Thanh Miện, Tứ Kỳ, Gia Lộc.

Tháng 1-1997, tỉnh Hải Hưng tách ra thành 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, tỉnh lỵ tỉnh Hải Dương là thị xã Hải Dương.

Tháng 4-1997, huyện Cẩm Bình tách thành 2 huyện Cẩm Giàng và Bình Giang; huyện Kim Môn tách thành 2 huyện Kim Thành và Kinh Môn; huyện Nam Thanh tách thành 2 huyện Nam Sách và Thanh Hà.

Tháng 8-1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 88/NÐ-CP nâng cấp thị xã Hải Dương thành thành phố Hải Dương. Như vậy, từ năm 1997 đến nay, tỉnh Hải Dương có 11 huyện là: Gia Lộc, Tứ Kỳ, Ninh Giang, Thanh Miện, Cẩm Giàng, Bình Giang, Nam Sách, Thanh Hà, Kim Thành, Kinh Môn, Chí Linh và thành phố Hải Dương.

SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HẢI DƯƠNG:

Là một tỉnh thuộc vùng Ðồng bằng sông Hồng, có thời là một trong "tứ trấn" bảo vệ kinh thành Thăng Long, Hải Dương đã trải qua mọi biến động của lịch sử đất nước. Lịch sử của tỉnh cũng là lịch sử của những chiến công hào hùng.

Năm 905, Khúc Thừa Dụ, người làng Cúc Bồ (huyện Ninh Giang) đã lãnh đạo nhân dân lật đổ chính quyền cai trị của phong kiến phương Bắc, giành quyền tự chủ cho dân tộc.

Thế kỷ XIII, khi vó ngựa Nguyên - Mông xâm lược nước ta, tại bến Bình Than (nay thuộc địa phận huyện Nam Sách), vua Trần Nhân Tông đã triệu tập và chủ trì cuộc họp của các vương hầu, bách quan bàn kế sách đánh giặc (lịch sử gọi cuộc họp này là Hội nghị Bình Than).

Tháng 5-1285, quân Nguyên - Mông bị quan quân nhà Trần đánh tan tác, tướng giặc là Toa Ðô bị chém chết. Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn đuổi theo đánh úp tướng Thoát Hoan ở Vạn Kiếp. Ngày 10-6-1285, chiến thắng Vạn Kiếp tiêu diệt quá nửa quân Nguyên - Mông. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng chạy trốn sang biên giới. Năm 1287, nhà Nguyên lại sai Trấn Nam Vương Thoát Hoan sang xâm lược nước ta. Quân Nguyên hội quân ở sông Bạch Ðằng đón thuyền lương, bị Hưng Ðạo Vương đánh bại. Tháng 4-1288, Thoát Hoan đem tàn quân chạy theo đường bộ về Vạn Kiếp lên biên giới.

Năm 1873, quân Pháp bắt đầu xâm lược Hải Dương, nhưng đã phải thua chạy trước sự chống trả quyết liệt của nhân dân Hải Dương. Phải 10 năm sau (năm 1883), quân Pháp mới quay lại và chiếm đóng Hải Dương. Phong trào kháng Pháp phát triển rầm rộ, lan rộng trong toàn tỉnh. Tên công sứ Pháp ở Hải Dương đã phải thú nhận: "Sau cuộc xâm lăng, chúng ta phải trả một cái giá quá đắt cho chiến thắng".

Ðầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước theo xu hướng dân chủ tư sản dấy lên mạnh mẽ ở Hải Dương. Ðiển hình là phong trào Ðông Du, Ðông Kinh Nghĩa Thục (1905 - 1907); phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu, để tang cụ Phan Chu Trinh (1925 - 1926). Năm 1928 - 1930, tổ chức Việt Nam Quốc dân Ðảng đã gây dựng cơ sở ở thị xã Hải Dương và các huyện Vĩnh Bảo, Kim Thành, Nam Sách, Chí Linh, Thanh Hà, Tứ Kỳ, Ðông Triều. Ngày 15-2-1930, tại làng Cổ Am (Vĩnh Bảo) đã nổ ra cuộc khởi nghĩa, quân khởi nghĩa đã kéo vào cướp huyện đường, giết chết tri huyện Hoàng Gia Mô. Mặc dù sau đó, làng Cổ Am bị dìm trong bể máu, nhưng cuộc khởi nghĩa là minh chứng cho tinh thần yêu nước nồng nàn và ý chí đấu tranh bất khuất của nhân dân Hải Dương.

Từ năm 1930, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Ðảng, nhân dân Hải Dương đã kiên cường bất khuất cùng cả nước đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945) và tiến hành 2 cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1946 - 1975) đi đến thắng lợi cuối cùng.

Kiêu hãnh, oai hùng với những chiến công vang dội trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm cùng truyền thống ngàn năm văn hiến, Hải Dương hôm nay đang khẳng định vị thế bằng những "bước chân Thánh Gióng" trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Hải Dương đang nỗ lực không ngừng để vươn lên hoà nhịp cùng sự đổi thay từng ngày, từng giờ của đất nước, phát huy truyền thống của một vùng đất giàu đẹp, văn hiến và anh hùng.

Năm, tháng và các mốc sự kiện của Hải Dương:

1804.

Vua Gia Long ra chiếu rời trấn sở Hải Dương từ Mao Điền về TP Hải Dương ngày nay
Trấn thủ Trần Công Hiến khởi công xây dựng Thành Đông ( thành nội)

1824.

Thành Đông được gia cố bằng đá ong ( đá ong lấy từ thành nhà Mạc ở Đồ Sơn)

1831.

Vua Minh Mạng phân định lại các khu vực hành chính trong cả nước , trấn Hải Dương đổi thành tỉnh Hải Dương.

1862.

Ngày 9/5/1862 tại pháp trường Năm Mẫu ngoại thành Hải Dương, gần bến Đò Hàn gần 200 giáo dân của địa phận Hải Dương bị xử tội.

1866.

Mở rộng Thành Đông phía ngoài 4 cổng thành đắp thêm 4 thành phụ gọi là Thành Dương Mã hay là Thành ngoại

1872.

9/11 lái buôn Jean DuPuis tới cửa sông Hồng (thuộc tỉnh Hải Dương). quan đầu tỉnh là Lê Tuấn từ chối cho Dupuis ngược sông, bắt phải chờ hồi âm của triều đình. Dupuis nán lại chờ 15 ngày rồi tự tiện ngược sông lên Hà Nội.

1873.

Ngày 4/12/1873( rằm tháng 10 năm Quý Dậu) Pháp chiếm Thành Đông lần thứ nhất.
Ngày 31/12 Pháp buộc phải trao trả Thành Đông trước sự chứng kiến của Nguyễn Văn Tường (đại diện triều đình Huế) và Philastre (đại diện soái phủ Sài gòn).

1883.

Ngày 19/8 Pháp chiếm Thành Đông lần 2
Từ ngày 12 đến 19 /11 quan quân triều đình liên kết với quân Cờ đen bao vây tấn công Pháp ở Thành Đông.

1885.

Đêm 28 rạng 29/9 quân của Tán Thuật ( Nguyễn Thiện Thuật) bao vây tấn công tỉnh lỵ Hải Dương

1888.

Tổng thống Pháp ra nghị định xây dựng Hải Phòng thành thành phố và tách Hải Phòng ra khỏi Hải Dương.

1889.

Ngày 23/7 quân Đốc Tít tấn công thành Hải Dương.

1897.

Phá Thành Đông, lấp hào phía Đông, mở rộng mặt bằng xây dựng Sở rượu.
Đêm 13 rạng sáng ngày 14/12 Mạc Đĩnh Phúc kéo quân từ Thanh Hà sang tấn công trại lính khố xanh và tòa công sứ Hải Dương.
Ngày 29/12 thủ lĩnh nghĩa quân Mạc Đĩnh Phúc bị xử tử tại thị xã Hải Dương.

1904.

Hoàn thành đường sắt và quốc lộ 5 , cùng với cầu Phú Lương

1923.

Tháng 12 toàn quyền Đông Dương ra nghị định đầu tư ngân sách xây dựng Hải Dương thành thành phố.

1924.

Từ 1924- 1927 lấp các ao hồ khoảng 100.000m3 đất lấy mặt bằng mở rộng Thành phố

1926.

Đồng chí Trần Cung về xóm Cựu Thành xây dựng tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội.

Tháng 12 đồng chí Đỗ Ngọc Du sau lớp huấn luyện ở Trung Quốc về Hải Dương tuyên truyền tổ chức quần chúng ở các phố Hàng Đồng, Đông Kiều, Cựu Thành..

1927.

Hoàn thành xây dựng Chợ Lớn, trường Con gái ( trường Võ Thị Sáu )

1931.

Đồng chí Đỗ Ngọc Du bị giam ở nhà tù Hỏa Lò đưa về nguyên quán và xử án tại Hải Dương.

1932.

Xây dựng bến oto buýt, gần nhà Máy sứ hiện nay

1934.

Hoàn thành xây dựng dinh Tổng đốc, cầu Cất và đền Thánh.

1936.

Xây dựng nhà máy nước ở Phương Độ. Tháng 3 âm lịch trùng tu chùa Đông Thuần

1937.

Tháng 7/1937 xứ ủy Bắc Kỳ cử đồng chí Nguyễn Văn Xứng ( tức Lê Thanh Nghị) về thị xã Hải Dương xây dựng phong trào cách mạng.

1938.

Tháng 8/1938 thành lập chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của thị xã Hải Dương tại số nhà 17 phố Đông Môn, đồng chí Nguyễn Thượng Mẫn là bí thư chi bộ.

1940.

Xứ ủy quyết định thành lập liên tỉnh B
Tháng 6/1940 đồng chí Hoan thành lập chi bộ nhà Máy nước, đồng chí Nguyễn Đức Thắng là bí thư chi bộ.
Tháng 9/1940 Pháp đầu hàng Nhật. Nhật vào Hải Dương đóng ở trường Con gái
Ngày 7/11/1940 treo cờ búa liềm trên đỉnh két nước, chào mừng kỉ niệm cách mạng tháng Mười

1942.

Đắp đường nối liền quảng trường trung tâm thành phố ( Vườn hoa Bảo Đại) (tổng hợp ngày nay) với ga Hải Dương. Trong khi đào đất đắp đường phát hiện lăng mộ Đinh Văn Tả.

1945.

Chi bộ Hải Dương được thành lập , đồng chí Đỗ Văn Thành làm bí thư chi bộ

Tháng 5/1945 đồng chí Lê Đức Thịnh, xứ ủy viên Bắc Kỳ thành lập tỉnh ủy lâm thời tại số nhà 3 phố Đông Mỹ.

Chiều 17/8/1945 biến cuộc tuần hành biểu dương lực lượng của thanh niên Trần Trọng Kim thành cuộc tuần hành , mít tinh ủng hộ Việt Minh.

Sáng 18/8/1945 thành lập chính quyền cách mạng TP Hải Dương

Đêm 18 rạng 19/8/1945 Hai Lạng đầu hàng, bàn giao lại trại bảo an binh cho cách mạng.

Tháng 10/1945 khoảng 3000 quân Tưởng tràn vào Hải Dương.

1946.

Tháng 3/1946 Thành ủy Hải Dương được thành lập , đồng chí Đỗ Văn Thanh là bí thư Thành ủy
Cuối tháng 3 /1946 , 3000 quân Tưởng rút khỏi Hải Dương, 350 lính Pháp vào thay thể theo hiệp định sơ bộ , đóng ở 3 điểm trong thành phố và 2 địa điểm bên ngoài; đầu cầu Phú Lương và cầu Lai Vu.

Ngày 15/4/46 một trung đội tăng ni cứu quốc từ Bắc Mã đệ tứ chiến khu Đông Triều về đóng ở chùa Đông Thuần tham gia chặn đoàn xe cơ giới của Pháp qua Hải Dương lên Hà Nội, chưa được phép của chính phủ ta.

Tháng 10/1946 khai giảng trường trung học Nguyễn Bỉnh Khiêm, trường trung học Quốc lập đầu tiên của tỉnh Hải Dương.

1947

4/1947 Tp Hải Dương đổi là Tx Hải Dương theo quy chế tổ chức hành chính của nước VNDCCH (Lúc này, vùng nội thị bị Pháp tạm chiếm).

1948

3/1948 tỉnh ủy chỉ định thành lập thị ủy. Đ/c Quảng làm bí thư. Cắt X. Ngọc Châu (H. Nam Sách) về Tx Hải Dương.

1950

Cắt xã Thanh Bình từ H. Cẩm Giàng về Tx Hải Dương.
10/1950 thành lập chi bộ 10 tại nhà tù Tx Hải Dương (Lấy tên chi bộ 10, để kỉ niệm CMT10 Nga). Đ/c Hồng Vũ làm bí thư chi bộ.

1954

9/1954 thành lập UB Quân chính Hải Dương để chuẩn bị tiếp quản Tx. Ông Nguyễn Như Thiết làm chủ tịch.
30/10/1954 bộ đội từ 2 ngả (QL 5 và đường 17) tiến vào giải phóng Tx Hải Dương.
Đ/c Đỗ Mười –Bí thư tả ngạn đọc diễn văn tại cuộc mít tinh quần chúng ở vườn hoa Độc Lập.
Cắt X. Ngọc Châu về H. Nam Sách. Cắt X. Thanh Bình về H. Cẩm Giàng.

1955

Trong Đại hội bơi lội lần đầu tiên sau ngày giải phóng, đấu thủ Nguyễn Văn Củ đoạt giải nhất bơi lội toàn Miền Bắc tổ chức tại Quảng Bá – Hà Nội.

1957

30/5/1957 Bác Hồ về thăm Hải Dương và nói chuyện với các cán bộ tại trường Nguyễn Ái Quốc (Nay là bảo tàng Hải Dương).

1958

12/1958 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 2 bầu 8 đ/c vào BCH. Đ/c Nguyễn Văn Bán làm bí thư, đ/c Phạm Văn Kính làm chủ tịch.

1960

2/1960 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 3 bầu 15 đ/c vào BCH. Đ/c Nguyễn Văn Thanh làm bí thư.

1961

3/1961 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 4 bầu 17 đ/c vào BCH. Đ/c Nguyễn Văn Bán làm bí thư.

1962

5/1962 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 5 bầu 17 đ/c vào BCH. Đ/c Dư Văn Chãi làm bí thư.
6/7/1962 Bác Hồ thăm nhà máy Sứ Hải Dương, Bác nói chuyện với cán bộ và nhân dân Hải Dương tại Vọng Cung.

1963

6/1963 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 6 bầu 15 đ/c vào BCH. Đ/c Dư Văn Chãi làm bí thư.

1964

5/1964 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 7 bầu 13 đ/c vào BCH. Đ/c Phạm Văn Kính làm bí thư kiêm chủ tịch.

1965

22/12/1965 một tốp máy bay A6 lợi dụng lúc trời chưa sáng, cắt bom đánh cầu Phú Lương lần đầu tiên trong chiến tranh chống Mỹ.

1967

Từ ngày 29-31/10/1967 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 8 tại thôn Hóp, X. Quảng Nghiệp, H. Tứ Kỳ. Đại hội đã bầu 15 đ/c vào BCH. Đ/c Nguyễn Đức Tiền làm bí thư.
Mỹ ném bom đền Thánh. Hội đồng nhà thờ Thế giới giúp tỉnh ta xây dựng bệnh viện 500 giường.

1968

Vỡ đê sông Thái Bình, Tx. Hải Dương bị lụt lớn, mất toàn bộ vụ mùa. Hải Dương – Hưng Yên hợp nhất thành tỉnh Hải Hưng. Tp Hải Dương chọn làm thủ phủ của tỉnh Hải Hưng.

1969

Quốc hội quyết định cắt X. Ngọc Châu, H. Nam Sách và các X. Việt Hòa, Cẩm Thượng, Tứ Minh, Thanh Bình của H. Cẩm Giàng về Tx. Hải Dương.

1970

Từ 01 – 16/01/1970 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dưong lần thứ 9 bầu 15 Uỷ viên chính thức và 2 dự khuyết họp tại CLB Nguyễn Trãi. Đ/c Nguyễn Đức Tiền làm bí thư.

1971

Nhập một phần X.Tân Hưng, H. Gia Lộc về Tx. Hải Dương thành lập X. Hải Tân.
22/08/1971 đê sông Thái Bình vỡ ở X. Nhất Trai, Gia Lương, Hà Bắc. Nước tràn vào Tx. Hải Dương, lụt to. Riêng thôn Ngọc Uyên có đê quai bảo vệ nên an toàn.

1972

Từ 24/04 – 08/1972 máy bay Mỹ liên tục oanh tạc Miền Bắc. Nhà ga, trường Trung cấp Sư phạm và 5 nhà máy: nhà máy sứ, xí nghiệp mì sợi, nhà máy đá mài, cơ khí tỉnh, xí nghiệp gỗ bị bắn phá.

1973

Từ 12 – 14/04/1973 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dưong lần thứ 10 bầu 14 Uỷ viên chính thức và 1 dự khuyết. Đ/c Lê Quang Vinh làm bí thư.

1974

12/1974 khánh thành nhà thờ Tin lành Hải Dương do tỉnh đầu tư xây dựng.

1975

01/1975 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 11 bầu 17 Uỷ viên chính thức và 2 dự khuyết. Đ/c Lê Quang Vinh làm bí thư.

1977

06/1977 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 12 bầu 18 Uỷ viên chính thức. Đ/c Phạm Quang Đạm làm bí thư.

1979

10/1979 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 13 bầu 31 Uỷ viên BCH. Đ/c Phan Văn Giao làm bí thư.

1982

11/1982 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 14 bầu 33 Uỷ viên chính thức và 8 uỷ viên dự khuyết. Đ/c Phạm Xuân Triển làm bí thư.

1986

25/09/1986 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 15 bầu 33 Uỷ viên chính thức và 8 uỷ viên dự khuyết. Đ/c Phạm Nguyên Du làm bí thư.

1988

Từ 12-14/12/1988 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 16 bầu 32 Uỷ viên BCH. Đ/c Phạm Nguyễn Mạnh Khắc làm bí thư.

1991

Từ 19-21/08/1991 Đại hội Đảng bộ Tx. Hải Dương lần thứ 17 bầu 35 Uỷ viên BCH. Đ/c Phạm Nguyễn Mạnh Khắc làm bí thư.

1992

Hoàn thành xây dựng toà nhà tỉnh uỷ cao 6 tầng (toà nhà cao nhất Hải Dương lúc đó).
 
Chỉnh sửa lần cuối:

caosonhd

BĐH HD Hải Dương
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

CÁC ĐỊA DANH HÀNH CHÍNH CỦA TỈNH HẢI DƯƠNG

1- Thành phố Hải Dương

- Diện tích: 71 km2
- Dân số: 213.639
- Ðơn vị hành chính: TP Hải Dương hiện có :
15 phường: Bình Hàn; Cẩm Thượng; Hải Tân; Lê Thanh Nghị; Nhị Châu; Ngọc Châu; Nguyễn Trãi; Phạm Ngũ Lão; Quang Trung; Tân Bình; Thanh Bình; Trần Hưng Đạo; Trần Phú; Tứ Minh; Việt Hòa.
Và 6 xã: Ái Quốc, An Châu, Nam Đồng, Tân Hưng, Thạch Khôi, Thượng Đạt
- Cơ cấu kinh tế: công nghiệp - xây dựng; dịch vụ; nông nghiệp - thuỷ sản
+ Năm 1997: 47% - 45% - 8%
+ Năm 2002: 44,2% - 50,9% - 4,9%
+ Năm 2005: 50,5% - 46% - 3,5%

Giới thiệu chung:
Thành phố Hải Dương là thành phố đạt tiêu chuẩn đô thị loại loại 2 thuộc tỉnh Hải Dương, là Trung tâm công nghiệp - dịch vụ thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.

Vị trí địa lý:
Thành phố Hải Dương nằm ở vị trí trung tâm tỉnh, phía bắc giáp huyện Nam Sách, phía đông giáp các huyện Kim Thành và Thanh Hà, phía tây giáp huyện Cẩm Giàng, phía nam giáp huyện Gia Lộc, phía đông nam giáp hai huyện Thanh Hà và Tứ Kỳ. Thành phố Hải Dương nằm cách Thủ đô Hà Nội 57 km về phía tây, cách thành phố Hải Phòng 45 km về phía đông.

Lịch sử:
Thành phố Hải Dương được khởi lập từ năm 1804 dưới tên gọi Thành Đông.
Trước năm 1804, Lỵ sở Hải Dương được đặt tại Lạc Thiên (Chí Linh), lúc ấy gọi là thành Vạn hay doanh Vạn. Sau đó rời về Mao Điền (Cẩm Giàng).
Năm 1804 (năm Gia Long thứ ba), để củng cố bộ máy cai trị, nhà Nguyễn đã phân chia lại địa giới hành chính của cả nước, do vậy Lỵ sở Hải Dương đã được rời từ Mao Điền về vùng ngã ba sông Thái Bình và sông Sặt, thuộc địa phận ba xã Hàn Giang, Hàn Thượng và Bình Lao. Tỉnh lỵ mới cách Kinh đô Huế 1.097 dặm. Tổng đốc Trần Công Hiến là người khởi công xây dựng thành, gọi là Thành Đông, với mục tiêu vừa là trấn thành, vừa án ngữ phía đông Kinh thành Thăng Long. Trong thành không có dân, chỉ có quan lại và quân lính.
Năm 1866 (năm Tự Đức thứ 19), Đông Kiều phố được hình thành (Phường Trần Phú và một phần phường Trần Hưng Đạo ngày nay), nhiều phố nghề ra đời như Hàng Giày (Sơn Hòa ngày nay), Hàng Đồng (Đồng Xuân), Hàng Bạc (Xuân Đài), Hàng Lọng (Tuy An).
Năm 1889, Thành Đông bị thực dân Pháp phá bỏ để lấy mặt bằng xây dựng Nhà máy Rượu và vài tòa dinh thự của người Pháp.
Năm 1923, Toàn quyền Đông Dương quyết định thành lập thành phố Hải Dương. Không gian thành phố được chia thành hai khu vực: khu hành chính - nằm ven sông Sặt và khu kinh tế - từ Nhà máy Rượu đến Nhà ga xe lửa. Các công sở và dinh thự của quan chức người Pháp được tập trung ven sông Sặt. Một số tòa dinh thự mang kiến trúc Pháp hiện nay vẫn còn được sử dụng như dinh Công sứ (nhà làm việc và nhà khách Tỉnh ủy); Sở Lục bộ (Sở Giao thông); nhà Séc-tây (Sở Thể dục- Thể thao cũ), Kho bạc (Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh), dinh Phó sứ (Sở Văn hóa - Thể thao & du lịch)... Với vị trí thuận lợi về giao thông và phát triển kinh tế, văn hóa; thành phố Hải Dương đã trở thành một trong 4 thành phố quan trọng nhất của Bắc Kỳ (cùng TP Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định).
Tháng 3 năm 1947, nhà cầm quyền Pháp chia thành phố Hải Dương thành 2 quận, rồi sau đó một thời gian lại chuyển thành thị xã.
Ngày 30-10-1954, thị xã Hải Dương được giải phóng hoàn toàn. Sau khi giải phóng, thị xã được chia làm 3 khu phố: Bắc Sơn, Bạch Đằng và Chi Lăng; mỗi khu phố có một số đường phố và xóm nhỏ.
Năm 1959, thị xã được tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng và quy hoạch đô thị với quy mô dân số từ 40.000 đến 50.000 người.
Từ 1968 tới năm 1996 là tỉnh lị tỉnh Hải Hưng.
Năm 1969, thị xã Hải Dương được mở rộng, sáp nhập thêm các xã Ngọc Châu (Nam Sách), Thanh Bình, Tứ Minh, Việt Hòa (Cẩm Giàng), Hải Tân (Gia Lộc).
Năm 1981, các phường Trần Phú, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Phạm Ngũ Lão được thành lập.
Từ ngày 6 tháng 11 năm 1996, trở lại là tỉnh lị tỉnh Hải Dương.
Năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP thành lập các phường Thanh Bình, Cẩm Thượng, Hải Tân, Ngọc Châu, Bình Hàn và tách một số khu dân cư của phường Trần Phú để thành lập phường Lê Thanh Nghị.
Ngày 6 tháng 8 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định 88/CP thành lập thành phố Hải Dương và là đô thị loại III với 11 phường, 2 xã.
Ngày 1 tháng 7 năm 2008, thành phố sáp nhập thêm các xã Nam Đồng, An Châu, Ái Quốc, Thượng Đạt (Nam Sách), 38 ha của thị trấn Lai Cách (Cẩm Giàng), các xã Tân Hưng, Thạch Khôi (Gia Lộc) và một phần thôn Ngọc Lặc, xã Ngọc Sơn (Tứ Kỳ). Như vậy, sau khi được điều chỉnh địa giới hành chính thành phố có 19 phường, xã (13 phường, 6 xã).
Ngày 17 tháng 5 năm 2009, thành phố có quyết định trở thành đô thị loại 2.
Ngày 23 tháng 9 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính phường và thành lập các phường Nhị Châu và Tân Bình thuộc TP Hải Dương

Sự kiện:
Trong tháng 10 năm 2009 (Ngày 30/10), thành phố Hải Dương đón nhận các sự kiện lớn như: Kỷ niệm 205 năm thành lập Thành Đông, 55 giải phóng thành phố Hải Dương, Lễ công bố quyết định thành phố Hải Dương trở thành đô thị loại II; và từ 30 tháng 10 đến 08 tháng 11-2009, thành phố Hải Dương đồng đăng cai tổ chức Đại hội Thể thao châu Á trong nhà lần thứ 3 (Asian Indoor Games III) tại Việt Nam.

Kinh tế:
Thành phố Hải Dương là trung tâm công nghiệp, thương mại và dịch vụ của tỉnh.
Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố đạt 14,5%. Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - Xây dựng 53,07%, Dịch vụ 45,68%, Nông nghiệp - Thuỷ sản 1,25%. Trên địa bàn thành phố, Chính phủ đã phê duyệt các khu công nghiệp, thu hút 1.247 doanh nghiệp hoạt động.
Năm 2008, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng ước đạt hơn 1.346 tỷ đồng, tăng 52% so với năm 2007. Cũng năm này, thành phố có 1.700 doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực, trong đó có hơn 900 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người một năm đạt 1.344 Usd/người

Trong 6 tháng đầu năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn TP Hải Dương đạt hơn 676 tỷ đồng, bằng 50,8% kế hoạch năm và tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, kinh tế tập thể đạt hơn 11 tỷ đồng, bằng 50,3% kế hoạch năm; doanh nghiệp tư nhân gần 124 tỷ đồng, bằng 49,7%; công ty trách nhiệm hữu hạn hơn 238 tỷ đồng, bằng 50,8%; công ty cổ phần hơn 206 tỷ đồng, bằng 50,9%; hộ cá thể, gần 98 tỷ đồng, bằng 48,7% kế hoạch năm. Thành phố hiện có gần 2.000 doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực, trong đó có gần 1.000 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
Thành phố Hải Dương là một trong những trung tâm về công nghiệp của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.

Du lịch:
Địa điểm tham quan, giải trí:
- Công viên Bạch Đằng
- Quảng trường Độc Lập (Ngã 5 Bách hóa Tổng Hợp)
- Quảng trường 30 tháng 10 (ĐTM Tây Hải Dương)
- Khu sinh thái Hà Hải.
- Nước khoáng nóng Thạch Khôi.
- Các tuyến phố thương mại
Di tích lịch sử:
Thành Hải Dương:
Thành được xây từ năm 1804, đặt tại tổng Hàn Giang (nay là thành phố Hải Dương), nhằm bảo vệ Lị sở Hải Dương sau khi được chuyển từ Mao Điền về.
Thành có hình 6 cạnh, chu vi 551 trượng 6 thước, cao 1 trượng 1 thước 2 tấc, mở 4 cửa. Ban đầu thành được đắp bằng đất, đến năm 1824 (năm Minh Mạng thứ 5), thành được xây thêm bằng đá ong (kiểu xây này cũng được thấy ở thành Bắc Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An), có sống khế. Năm Tự Đức thứ 19 (1865), đắp thêm thành Dương Mã ở các cửa, hình chóp nón úp vào hào trước cửa thành, cao 5 thước 4 tấc, hào rộng 3 trượng 3 thước, sâu 6 thước.
Thành đã bị phá hủy trong chiến sự 1946-54, ngày nay vẫn còn sót lại một số ít đoạn tường thành và dinh Tổng Đốc ở trụ sở của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hải Dương.


2- Thị xã Chí Linh

- Diện tích: 281 km2
- Dân số: 164.837 người (+ khách vãng lai trên 32 vạn người)
- Đơn vị hành chính: Thị xã Chí Linh có 20 đơn vị hành chính gồm

+ 12 xã: An Lạc, Bắc An, Cổ Thành, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Văn Đức.
+ Và 8 phường: Phả lại; Văn An, Chí Minh; Sao Đỏ, Thái Học, Cộng Hòa, Hoàng Tân, Bến Tắm

Trong đó có 13 xã, phường là miền núi, chiếm 76% diện tích và 56% dân số của toàn thị xã. Ngoài ra còn có Trường ĐH Sao Đỏ, trên 120 cơ quan đơn vị, nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp đóng trên địa bàn
Giới thiệu chung
Chí Linh là vùng đất nổi tiếng bởi địa linh nhân kiệt, bởi vị trí địa lý đặc biệt, nằm án ngữ trên đường giao thông thủy, bộ từ biên giới phía Bắc về Hà Nội. Địa danh này gắn với nhiều nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thị Duệ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi.

Vị trí địa lý

Thị xã nằm ở phía đông bắc tỉnh Hải Dương, cách trung tâm tỉnh 40 km. Phía đông giáp huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Phía tây giáp tỉnh Bắc Ninh. Phía nam giáp huyện Nam Sách. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang.

Phía bắc và đông bắc của Chí Linh là vùng đồi núi thuộc cánh cung Đông Triều, ba mặt còn lại được bao bọc bởi sông Kinh Thày, sông Thái Bình và sông Đông Mai.

Chí Linh nằm trong vùng tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Nó có đường giao thông thuận lợi. Đường bộ có Quốc lộ 18 chạy dọc theo hướng đông-tây qua trung tâm huyện nối liền Hà Nội - Quảng Ninh, đường Quốc lộ 183 nối Quốc lộ 5 và đường 18, đường 37 là đường vành đai chiến lược quốc gia từ trung tâm huyện đi tỉnh Bắc Giang. Đường thuỷ có chiều dài 40 km đường sông bao bọc phía đông, tây, nam của huyện thông thương với Hải Phòng, Bắc Giang, Đáp Cầu (Bắc Ninh).

Đơn vị hành chính nổi bật

Chí Linh trước đây có 3 thị trấn, trong đó, Thị trấn Sao Đỏ là huyện lỵ của huyện Chí Linh cũ. Nay 3 thị trấn trở thành 3 phường tiêu biểu của thị xã.

• Phường Sao Đỏ (Thị trấn Sao Đỏ cũ): Có một số lý giải khác nhau về cái tên của thị trấn, song lý giải phổ biến nhất và được chấp nhận nhiều nhất là Sao Đỏ là nơi hoạt động cách mạng của ông Nguyễn Lương Bằng và Sao Đỏ chính là bí danh của ông, sau này được đem đặt tên cho thị trấn.

Sao Đó khá đông dân so với một thị trấn thông thường do khi xây dựng Nhà máy nhiệt điện Phả Lại, người ta đã tạm xóa sổ Thị trấn Phả Lại vốn rất sầm uất ở ven sông và đưa toàn bộ dân về sinh sống ở vùng đồi núi tiếp giáp Thị trấn Sao Đỏ. Toàn bộ thị trấn nằm trải dài trên nhiều ngọn đồi thấp, trong đó có khu vực được gọi là Ba Đèo, nơi có đường vào Sân golf Ngôi Sao Chí Linh.

Những năm từ 2000 trở đi, có nhiều dự án phát triển đô thị đã được triển khai ở đây[4]. Tuy nhiên, cũng giống như các thị trấn khác của cả nước, Sao Đỏ chưa có bản sắc đô thị.

Tại Sao Đỏ có nhiều cơ quan, trường học và doanh trại quân đội.

Ngày27 Tháng 9 2009, Bộ Xây dựng đã có Quyết định 941/QĐ-BXD về việc công nhận Thị trấn Sao Đỏ là đô thị loại IV, huyện lỵ của huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương.

• Phường Phả Lại (Thị trấn Phả Lại cũ): vốn là một thị trấn lâu đời, nằm ven Lục Đầu Giang. Năm 1979 - 1980, để khởi công xây dựng Nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thị trấn đã bị giải tỏa. Sau khi nhà máy xây dựng xong, thị trấn đã được hình thành ngay xung quanh nhà máy với hình thái rất lộn xộn. Từ Phả Lại, thị trấn này đã phát triển khá lan man và lan tới Bình Giang.

Về địa lý, Thị trấn Phả Lại nằm ở phía Tây của huyện Chí Linh. Thị trấn có diện tích tự nhiên 1.382 ha; trong đó, diện tích đất đồi núi, lâm nghiệp là 362 ha; diện tích đất nông nghiệp là 506,15 ha; phần còn lại là đất của các cơ quan đơn vị, xí nghiệp, các thành phần kinh tế đóng trên địa bàn; tạo nên một hình thái kinh tế đa dạng và phong phú. Tổng số nhân khẩu của thị trấn là 21.147 khẩu[5].

• Phường Bến Tắm (Thị trấn Bến Tắm cũ): Thành lập ngày 14/1/2002, trên cơ sở 412,88 ha diện tích tự nhiên và 5.703 nhân khẩu của xã Bắc An, huyện Chí Linh. Địa giới hành chính của thị trấn Bến Tắm là: Đông, Tây và Bắc giáp xã Bắc An; Nam giáp xã Hoàng Tân.

Lịch sử

Chí Linh được hình thành từ lâu đời, năm 891 vua Đại Hành đã chọn An Lạc là cơ sở chỉ huy chống quân xâm lược Tống. Trải qua các thời kỳ phong kiến Chí Linh đã được nhiều triều đại chọn là nơi xây dựng cung thành, tỉnh lỵ như thành Phao (Phả Lại) – đời nhà Mạc, thành Vạn (Tân Dân) Chí Linh còn có tên gọ là Bằng Châu hay Bằng Hà sau đó đổi tên là Phượng Hoàng và sau này là Chí Linh. Tháng 6 năm 1886 thực dân Pháp thành lập Nha Chí Linh thuộc phủ Nam Sách; tháng 4 năm 1947 Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Hồng; tháng 11 năm 1948 Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Yên; tháng 2 năm 1955 Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương

Du lịch

Chí Linh có phong cảnh đẹp và nhiều di tích lịch sử từ cấp địa phương đến cấp quốc gia. Trong đó có thể kể đến:

• Chùa Côn Sơn có phong cảnh tuyệt đẹp với rừng thông, hồ, suối Côn Sơn và bàn cờ tiên nổi tiếng trong thơ Nguyễn Trãi. Tại đây còn có đền thờ Trần Nguyên Đán, đền thờ Trần Nguyên Hãn và đền thờ Nguyễn Trãi.

• Đền Kiếp Bạc nằm cạnh Lục Đầu Giang, nơi hợp lưu của sáu con sông (ngã sáu sông). Đền thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn còn gọi là Đức Ông nổi tiếng về sự linh thiêng

• Đền Cao thuộc xã An Lạc. Ở đây có bốn ngôi đền linh thiêng từ lâu đời, thờ năm anh em nhà họ Vương đã có công giúp vua Lê Đại Hành đánh tan quân Tống do Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng chỉ huy năm 981.
• Đền Chu Văn An nằm trên núi Phượng Hoàng, thuộc xã Văn An; cách khu di tích Côn Sơn khoảng 4 km. Đây là một điểm di tích văn hoá và danh thắng mà quý khách có thể đến thăm, với cảnh rừng thông đẹp trùng điệp, có đền thờ cũ và mới xây xong năm 2007. Lăng mộ Chu Văn An nằm trong khu di tích này. Lễ hội vào tháng tám và tháng một, trọng hội vào ngày 25-8 và 26-11. Khu di tích được xếp hạng năm 1998.

• Chùa Thanh Mai thuộc xã Hoàng Hoa Thám. Chùa Thanh Mai là ngôi chùa rất cổ, được xây dựng năm 1329 do Thiền sư Pháp Loa - Đệ nhị tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên tử sáng lập. Chùa được công nhận di tích lịch sử quốc gia năm 1992.

• Đền bà Chúa Sao sa thờ nữ Tiến sĩ duy nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam, bà Nguyễn Thị Duệ. Đền cũng thuộc xã Văn An; cách khu di tích Côn Sơn khoảng 5 km.

• Đền Mẫu Sinh thờ Mẫu, rất đặc biệt bởi được xây dựng trên lưng chừng núi Ngũ Nhạc với Hậu cung nằm trên một tảng đá lớn hình người phụ nữ đang nằm sinh con. Tương truyền Đền Mẫu Sinh là nơi sinh ra Đức Thánh hài nhi. Đền được tin là rất thiêng và là nơi khắp nơi về cầu tự.

Các di tích danh thắng và cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời như núi Nam Tào, Bắc Đẩu, sông Lục Đầu Giang, ... tạo thành cụm du lịch lớn của tỉnh, bên cạnh các di tích lịch sử và thắng cảnh thiên nhiên còn có sân Golf Ngôi Sao Chí Linh. Hàng năm có nhiều du khách trong nước và quốc tế đến tham quan du lịch.

• Sân golf Chí Linh

Nằm ở phường Sao Đỏ, thị xã Chí Linh. Sân golf này cách Hà Nội 86km, trên đường tới vịnh Hạ Long.

Nằm ngay vị trí trung tâm tam giác kinh tế du lịch phía Bắc, sân golf Chí Linh được đánh giá là một trong những sân golf hàng đầu không chỉ tại Việt Nam mà cả vùng Đông Nam Á. Câu lạc bộ golf Ngôi Sao Chí Linh đã nhanh chóng trở thành một điểm sáng du lịch, trung tâm thể thao, vui chơi, nghỉ dưỡng, xúc tiến đầu tư... cao cấp của cả vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.

"Trải rộng trên diện tích 325 ha trong lòng một thung lũng tuyệt đẹp, với một hồ nước tự nhiên nép mình bên những dải đồi thông xanh hùng vĩ bao quanh, sân golf Ngôi Sao Chí Linh được xây dựng 36 lỗ theo tiêu chuẩn quốc tế AAA. Những thảm cỏ xanh được chăm sóc, xén tỉa mỗi ngày, những con đường nhỏ uốn mình vòng quanh mép hồ, các rặng cây, các dốc thoải ven đồi, là điểm dừng chân với những quán nhỏ đơn sơ nép mình trong tán cây thơ mộng

Địa linh nhân kiệt

Địa danh Chí Linh gắn với tên tuổi của các nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc sau:
Thiền sư Pháp Loa: ông có tục danh là Đồng Kiên Cương, là người thuộc hương Cửu La, huyện Nam Sách. Năm 1304 ông xuất gia theo Điều Ngự Trần Nhân Tông tu hành tại chùa Yên Tử và trở thành người kế thừa của Thiền phái Trúc Lâm. Năm 1329, ông cho xây dựng hai ngôi chùa là Thanh Mai và Côn Sơn. Ngày 03/3/1330, ông viên tịch tại chùa Quỳnh Lâm, sau theo di chúc của ông, các phật tử đã đưa pháp thể của ông về nhập tháp tại chùa Thanh Mai, Chí Linh. Cảm mến công đức của ông, vua Anh Tông sắc phong danh hiệu Đại Tuệ Tịnh Tri Đức thiền sư, tên tháp là Viên Thông bảo tháp.
Trần Hưng Đạo: Đóng đại bản doanh tại Vạn Kiếp. Những năm cuối đời ông sống ở Vạn Kiếp và mất tại đây.
Nguyễn Thị Duệ: nữ tiến sĩ duy nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam.

Trần Nguyên Đán: Là ông ngoại của Nguyễn Trãi. Ông ở ẩn tại Chi Ngái, Chí Linh.

Nguyễn Trãi: thuở nhỏ sinh sống ở Chí Linh. Sau này, nhiều năm ông ở ẩn tại chùa Côn Sơn, Chí Linh.

Chu Văn An: mở trường dạy học trên núi Phượng Hoàng, thuộc xã Văn An (ngày nay), huyện Chí Linh


3- Huyện Nam Sách

Diện tích: 109 km2
Dân số: 111.635 người
Đơn vị hành chính: 18 xã và 01 thị trấn
Thị trấn : Nam Sách

Xã: An Bình, An Sơn, An Lâm, Cộng Hòa, Đồng Lạc, Hiệp Cát, Hồng Phong, Hợp Tiến, Minh Tân, Nam Chính, Nam Hồng, Nam Hưng, Nam Tân, Nam Trung, Phú Điền, Quốc Tuấn, Thái Tân, Thanh Quang
Giới thiệu chung
Nam Sách là huyện có lịch sử phát triển lâu đời, con người đến sinh cơ lập nghiệp khá sớm. Theo kết quả khảo cổ học gần đây nhất cho thấy ngay từ đầu Công nguyên, mảnh đất này đã có con người sinh sống

Vị trí địa lý

Huyện Nam Sách phía bắc giáp huyện Chí Linh, phía đông giáp huyện Kinh Môn và huyện Kim Thành, phía nam giáp thành phố Hải Dương, phía tây giáp huyện Cẩm Giàng và huyện Gia Bình (tỉnh Bắc Ninh). Tính chất đất đai cũng như địa hình của huyện mang đặc tính địa hình của đất phù sa sông Thái Bình. Độ cao so với mực nước biển trung bình là 0,60 m.

Khí hậu ở Nam Sách mang rõ nét tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa, hội tụ đầy đủ điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.

Lịch sử

Tên Nam Sách không hiểu có từ khi nào chỉ biết rằng, Phạm Chiêm là một hào trưởng ở vùng Trà Hương (Nam Sách Giang) giúp Ngô Quyền trong chiến thắng Bạch Đằng năm 938 và đã cưu mang con trai Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập năm 944. Sau khi giành lại ngôi vua Ngô Xương Văn xưng vương lấy hiệu là Nam Tấn Vương và Ngô Xương Ngập lấy hiệu là Thiên Sách Vương, mỗi người lấy một từ của tên "Nam Sách" để tỏ lòng ghi nhớ về vùng đất này. Đến đời nhà Lý cũng có tên là Nam Sách Giang. Nam Sách là nơi phát tích của hai dòng họ Việt Nam đó là dòng họ Phạm (Trà Hương) và họ Mạc (Long Động).
Thời nhà Trần, Nam Sách là tên gọi của một xứ, bao gồm Chí Linh, Nam Sách, Thanh Hà và Tiên Lãng (Hải Phòng) ngày nay. Cuối thời nhà Trần, nó là tên gọi của một châu (Nam Sách châu) thuộc phủ Lạng Giang. Đầu thời kỳ Lê sơ, là tên gọi của một lộ, bao gồm Nam Sách thượng và Nam Sách hạ. Đến thời Lê Nhân Tông là tên gọi của một phủ. Đến năm 1466, Lê Thánh Tông chia cả nước thành 13 đạo thừa tuyên, Nam Sách là một trong số đó. Tháng 4 năm 1469, nó lại chỉ là tên gọi của một phủ, do đạo thừa tuyên Nam Sách đã đổi thành Hải Dương. Trong thành phần phủ Nam Sách khi đó có các huyện Thanh Lâm, Chí Linh, Thanh Hà và Tiên Minh (Tiên Lãng ngày nay). Thời Hậu Lê, trụ sở phủ Nam Sách đặt tại Vạn Tải (nay thuộc xã Hồng Phong). Tới năm Gia Long 7 (1806) chuyển về Tổng Xá (xã Thanh Quang ngày nay). Năm 1898, bỏ cấp phủ. Tên gọi huyện Nam Sách có lẽ có từ khi này.

• Các giai đoạn từ 9/1947 tới 25/8/1948 và từ 7/11/1949 tới 22/2/1955, huyện thuộc tỉnh Quảng Yên.

• Ngày 24/2/1979 Nam Sách hợp nhất với Thanh Hà thành huyện Nam Thanh.

• Ngày 17/2/1997 huyện Nam Thanh lại tách ra thành huyện Nam Sách và huyện Thanh Hà.

Truyền thống-Văn hóa

Đình thờ Phạm Chiêm ở Thuỵ Trà, Nam Trung, Nam Sách, Hải Dương

Nam Sách đã từng là đại bản doanh của nhiều triều đại: Hai bà Trưng, nhà Tiền Lý, nhà Ngô, nhà Trần.

Đây cũng là vùng đất của gốm Chu Đậu, chùa An Ninh (Chùa Trăm Gian xứ Đông), quê hương của nhiều nhân vật lịch sử như:

• Phạm Chiêm (Phạm Lệnh Công) người đã cưu mang con trai Ngô Quyền (ông Tổ trung hưng nước Việt), có công xây dựng nhà Hậu Ngô Vương.

• Phạm Cự Lạng, cháu của Phạm Chiêm, người suy tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi cửu ngũ.
• Mạc Đăng Dung, người mở đầu triều đại nhà Mạc.

• Ngô Hoán, một thành viên trong hội thơ Tao Đàn của Lê Thánh Tông.

Tại Nam Sách còn là nơi mai táng Vũ Hồn, thủy tổ của một dòng họ Vũ/Võ của Việt Nam và Thành hoàng của làng Mộ Trạch giàu truyền thống khoa bảng.

Trong thời kỳ phong kiến Hải Dương có 10 vị đỗ đại khoa (Thủ khoa Đại Việt hay Trạng nguyên) thì riêng huyện Nam Sách có 6 vị là:

• Thủ khoa Minh kinh bác học Mạc Hiển Tích (1086), người Long Động, Nam Tân;

• Trạng nguyên Trần Quốc Lặc (1256) người Uông Hạ, Minh Tân;

• Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (1304) người Long Động, Nam Tân;

• Trạng nguyên Trần Sùng Dĩnh (1487) người Đồng Khê, An Lâm;

• Trạng nguyên Vũ Dương (1493) người Mạn Nhuế, Thanh Lâm.

• Trạng nguyên Đặng Thì Thố (1559) người làng Thạc, An Châu (nay thuộc thành phố Hải Dương);

Cũng chính vì có nhiều người đỗ đạt cao mà nhiều ý kiến cho rằng Nam Sách tức là "Sách của trời Nam".
Trong cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc Nam Sách có 8 người được nhà nước Việt Nam tuyên dương là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đó là Vũ Ngọc Diệu, Đỗ Chu Bỉ, Nguyễn Nhật Chiêu, Đặng Đức Song, Mạc Thị Bưởi, Nguyễn Trung Goòng, Nguyễn Đức Sáu và Nguyễn Đăng Lành.

Năm 1978, huyện Nam Sách được tuyên dương là anh hùng lực lượng vũ trang.

Nơi đây còn là quê hương nhà thơ Trần Đăng Khoa.

Kinh tế

Nông nghiệp

• Khuyến khích phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, đưa giống cây trồng, vật nuôi mới vào sản xuất. Mở rộng diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, với những con có giá trị kinh tế cao như tôm, cá rô phi đơn tính, cá chim trắng. Giai đoạn 2006 - 2010, phấn đấu đưa tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp đạt 7,6 - 7,8% /năm; tổng thu trên 1 ha diện tích đất nông nghiệp vào năm 2010 đạt 53 triệu đồng/ha.

• Diện tích trên 800 ha nuôi trồng thuỷ sản, 1.038,5 ha sông ngòi tự nhiên và 500 ha đất bãi trũng cấy lúa được chuyển đổi sang đào ao lập vườn phát triển nuôi trồng thuỷ sản.

Công nghiệp

Trước kia Nam Sách có làng nghề gốm cực kỳ nổi tiếng là gốm Chu Đậu, từ năm 1995 bắt đầu phục hồi làng nghề gốm này. Huyện đã có khu công nghiệp Nam Sách được Chính phủ phê duyệt trên 63 ha, cụm công nghiệp An Đồng đã được tỉnh phê duyệt trên 35 ha. Khu Công nghiệp Cộng Hoà. Ngoài ra một số doanh nghiệp đã đầu tư vào thị trấn Nam Sách, xã Minh Tân; khả năng dành đất cho công nghiệp ở dọc đường 183, đường 17 của huyện còn lớn.

Du lịch

Toàn huyện có nhiều di tích lịch sử đền, chùa, miếu, trong đó có 11 di tích được Nhà nước xếp hạng, mặt khác Nam Sách là một miền quê trù phú về phát triển cây vụ đông xuân, phát triển các làng nghề, phải kể đến 2 làng nghề là sấy rau quả ở Mạn Thạch Đê (xã Nam Trung) và làm hương (xã Quốc Tuấn). Đó là những tiềm năng để huyện có thể phát triển du lịch, văn hoá, thu hút khách tham quan, tìm hiểu lịch sử văn hoá dân tộc.

Kiến trúc

Cầu Bình bắc qua sông Kinh Thày nối liền Nam Sách với Chí Linh

Nam Sách nằm ở trung tâm của tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có hệ thống giao thông tổng thể không phải là không thuận lợi, mặc dù có sông bao bọc gần như bốn phía: đường 183 nối Hà Nội, Hải Phòng với Quảng Ninh (qua cầu Bình), có đường sông dài gần 50 km. Đây là một huyện có đầy đủ các điều kiện về địa lý, giao thông, cơ sở hạ tầng để phục vụ cho việc phát triển các khu công nghiệp, kinh tế trang trại, mặt khác theo chủ trương phát triển tổng thể của Tỉnh đến năm 2015 thì việc xây dựng thêm Cầu nối liền Thành phố Hải Dương (chạy thẳng từ Thành phố Hải Dương xuyên qua đường vành đai các Thôn Trúc Khê, Nham Cáp, Nhân Lễ và La Xuyên nối thẳng với đường quốc lộ 183 để hình thành một tuyến lộ Hải Dương - Quảng Ninh). Đây chính là tiền đề để biến Nam Sách thành một trung tâm khu vực, điểm liên kết với các Tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Nhờ điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, giao thông mà Nam Sách đang dần trở thành một huyện có lợi thế thu hút vốn đầu tư lớn nhất so với các huyện trong toàn Tỉnh.

Làng nghề truyền thống:

Nam Sách nổi tiếng với nghề Gốm Chu Đậu, hiện nay vẫn được bảo tồn và phát triển, dưới đây là một số hình ảnh video viết về nghề làm gốm này:
NHẠC PHẨM: CON ĐƯỜNG GỐM SỨ - CON ĐƯỜNG TIẾP NỐI của nhạc sĩ Mai Đoan hát ca ngợi nghề làm Gốm Chu Đậu - Nam Sách - Hải Dương nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội

Video Online:
[video=youtube_share;aAkon-ipdWc]http://youtu.be/aAkon-ipdWc]DVD Con Duong Gom Su Mai Doan[/video]

Download DVD:
Dowload định dạng MPEG2 (Chất lượng DVD gốc dạng Clip):
DVD.Con.Duong.Gom.Su_Mai.Doan.mpg - Fshare - Dịch vụ chia sẻ, lưu trữ dữ liệu miễn phí tốt nhất

Dowload định dạng ISO (Chất lượng DVD gốc cho cả đĩa giới thiệu về Gốm Chu Đậu):
DVD_Con.Duong.Gom.Su_Mai.Doan.iso - Fshare - Dịch vụ chia sẻ, lưu trữ dữ liệu miễn phí tốt nhất

GỐM CHU ĐẬU KỶ NIỆM 1000 NĂM THĂNG LONG HÀ NỘI (Định dang DVD ISO):
http://www.fshare.vn/file/T0QT5PKAWT/

GẶP GỠ VỚI NGHỆ NHÂN LÀM GỐM HẠ BÁ ĐỊNH GIỮA THÀNH ĐÔNG (Định dang DVD ISO):
http://www.fshare.vn/file/TRGNPYZF8T/

GẶP GỠ VỚI NGHỆ NHÂN THỔI HỒN VÀO ĐẤT - HẠ BÁ ĐỊNH (Định dang DVD ISO):
http://www.fshare.vn/file/T2T0GR7AFT/

4- Huyện Thanh Hà

Diện tích: 159 km2
Dân số: 152.492 người
Đơn vị hành chính: gồm 24 xã và 01 thị trấn

Giới thiệu chung:

Thanh Hà là một huyện của tỉnh Hải Dương, đất đai do phù sa bồi tụ, sông ngòi nhiều nên rất màu mỡ, phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nổi tiếng với đặc sản Vải thiểu

Vị trí địa lý:

Nằm ở phía đông nam tỉnh, Phía bắc giáp huyện Nam Sách, phía đông giáp huyện Kim Thành, phía nam giáp thành phố Hải Phòng, phía tây giáp thành phố Hải Dương. Huyện có 24 xã và 1 thị trấn (huyện lỵ).

Huyện được chia làm 4 khu là Hà Nam, Hà Đông, Hà Tây và Hà Bắc.

• Hà Nam bao gồm 6 xã: Thanh Xuân, Thanh Thuỷ, Thanh Sơn, Thanh Xá, Thanh Khê, Thị trấn Thanh Hà

• Hà Bắc bao gồm 7 xã: Thanh An, Thanh Lang, Việt Hồng, Hồng Lạc , Tân Việt, Cẩm Chế, Liên Mạc

• Hà Đông bao gồm 6 xã: Trường Thành, Vĩnh Lập, Thanh Bính, Thanh Hồng, Thanh Cường, Hợp Đức

• Hà Tây bao gồm 6 xã: Tiền Tiến, Thanh Hải , Tân An, Phượng Hoàng, An Lương, Quyết Thắng

Tính chất đất đai cũng như địa hình của huyện mang đặc tính địa hình của đất phù sa sông Thái Bình. Độ cao so với mực nước biển trung bình là 0,60 m.

Khí hậu ở Thanh Hà mang rõ nét tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa, hội tụ đầy đủ điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.

Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, lại nằm giữa vùng trọng điểm của đồng bằng Bắc Bộ, nên Thanh Hà có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội và quân sự của tỉnh Hải Dương.

Thanh Hà có các con sông lớn như Thái Bình (ở phía Tây Nam), sông Rạng, sông Văn Úc (ở phía Đông Bắc) bao bọc quanh tạo nên các tuyến giao thông đường thuỷ rất quan trọng với thành phố Hải Dương các tuyến bạn như Tứ Kỳ, Kim Thành và giữa Hải Dương với hải cảng Hải Phòng, Quảng Ninh. Ngoài các con sông lớn bao quanh, trong địa phận Thanh Hà còn có sông Gùa nối sông Thái Bình với sông Văn Úc, tách khu vực Hà Đông (gồm 6 xã) như một hòn đảo nằm giữa các con sông lớn; sông Hương (đầu công nguyên gọi là sông Cam Giang) chi lưu của sông Thái Bình vào Thanh Hà từ đầu phía Tây Bắc (đầu xã Tiền Tiến, hiện nay đã bị lấp) xuyên dọc giữa huyện nhập vào sông Văn Úc tại xã Thanh Xuân. Từ các con sông lớn, có các sông, ngòi nhỏ chạy len lỏi vào tận các thôn, xã trong huyện, tạo thuận lợi cho việc tưới tiêu nước cho đồng ruộng và là hệ thống giao thông thuỷ quan trọng trong việc giao lưu kinh tế, văn hoá, quân sự giữa các vùng, giữa Thanh Hà với các huyện trong tỉnh và các tỉnh trong cả nước. Đồng thời cũng rất thuận lợi cho việc chăn nuôi đánh bắt thuỷ sản, chăn nuôi gia cầm có giá trị kinh tế cao.

Giao thông bộ có đường 390A chạy từ Ngã Ba Hàng (đường 5 cũ) qua địa phận xã Tiền Tiến về huyện lỵ xuôi xuống bến Gùa, kéo dài đến phà Quang Thanh; đường 390B nối từ đường 5 (đầu cầu Lai Vu) qua các xã Hồng Lạc, Việt Hồng, Cẩm Chế về huyện lỵ. Hai con đường này là huyết mạch giao thông của huyện, ngoài ra trong nội hạt còn có các con đường nhỏ liên huyện, liên xã, liên thôn tạo thành hệ thống giao thông sinh hoạt, giao lưu kinh tế, văn hoá của nhân dân và có vai trò quan trọng đối với an ninh quốc phòng của địa phương.

Về điều kiện tự nhiên, đất đai do phù sa bồi tụ, sông ngòi nhiều nên rất màu mỡ, phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, do phù sa bồi tụ không đều nên địa hình thổ nhưỡng của Thanh Hà không bằng phẳng và phần lớn vẫn ở dạng phù sa non. Khi chưa có hệ thống đê, hàng năm vào mùa mưa, nước lũ từ thượng nguồn đổ về mang phù sa tràn vào đồng ruộng, đầm bãi, ao hồ, có khi ngập nước đến ba bốn tháng (từ tháng 5 đến tháng 9 âm lịch). Sau khi nước rút đi đã để lại lớp phù sa dày 5 - 10 cm. Thanh Hà có2/ 3 diện tích là triều bãi, nhiều vùng trước đây là đầm hồ, bãi trũng, quanh năm chỉ có cỏ lau , lác sú, vẹt mọc um tùm, song đó lại là môi trường tốt cho các loài thuỷ sinh quý, có giá trị dinh dưỡng cao như: tôm, cá, cua, cáy, rươi, ruốc,...

Riêng 6 xã khu Hà Đông trũng hơn, có nhiều đầm, hồ, ruộng bãi rất thấp, lại gần hạ lưu, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thuỷ triều lên xuống hàng ngày, do đó đã tạo thành một vùng sinh thái nước lợ đặc biệt phong phú. Nhiều loại thuỷ sản được mệnh danh là đặc sản nổi tiếng: Tôm rảo, cà ra, rươi, rạm,... “Tháng mười cà ra, tháng ba tôm rảo”; đặc biệt con rươi là thuỷ sản quý chỉ có ở vùng nước lợ, sống chủ yếu trong lòng đất phù sa, xuất hiện nhiều vào tháng 9, tháng 10 (âm lịch)

Lịch sử:

Mảnh đất Thanh Hà có lịch sử phát triển lâu đời căn cứ vào tài liệu khảo cổ thì xa xưa nơi đây là biển cả mênh mông, trải qua hàng vạn năm - được phù sa sông Thái Bình và sông Kinh Thầy bồi đắp đã thành đồng bãi phù sa châu thổ. Những cư dân Thanh Hà đầu tiên đã đến đây khai phá vùng đầm lầy, bãi lau, bờ sú thành đồng ruộng tốt tươi. Trải qua quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước cùng dân tộc, nhân dân lao động và đã tạo dựng lên mảnh đất giàu đẹp như ngày nay và trở thành niềm tự hào của người Thanh Hà.

Từ lâu trong nhân dân đã có câu ca:

“Đã là con mẹ con cha

Sinh ra ở đất Thanh Hà xứ Đông”


Cũng có nơi trong huyện truyền nhau câu ca:

“Muốn làm con mẹ con cha

Thì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông”
(tỉnh Hải Dương xưa có tên tỉnh Đông - xứ Đông).

Trải qua những biến động của lịch sử, đơn vị hành chính và địa giới Thanh Hà cũng thay đổi. Thời Hùng Vương , nước ta được chia thành 15 bộ, Hải Dương thuộc bộ Dương Tuyền; đến đầu Công nguyên nhà Hán đô hộ chia nước ta ra làm 3 quận, 10 huyện, Thanh Hà lúc đó có tên huyện là Câu Lậu (gồm Nam Thanh Hà, Tây An Lão và 1/ 3 huyện Tiên Lãng - Hải Phòng). Lúc này cư dân đã khá đông đúc, sống tập trung ở các vùng thuộc khu Hà Bắc, Hà Tây và một phần Hà Nam ngày nay.

Đến đầu thế kỷ VI, Thanh Hà đã có nhiều cụm dân cư ở tập trung thành xóm trại; lớn hơn là các trang như: Cập Hiền Trang (Tiền Tiến); Hoàng Mô, Hoàng Mai Trang (Quyết Thắng); Hưu Cao Trang, Sơn Trại Trang (Thanh Bình); Hạ Hào Trang (Thanh Xá); Đìa La Trang (Cẩm Chế); Tảo Sơn Trang (Thanh An); Đại Lý, Hải Hộ Trang (Hồng Lạc),...

5- Huyện Kinh Môn

Diện tích: 163 km2
Dân số: 156.886 người
Đơn vị hành chính: 22 xã và 3 thị trấn:
Thị trấn: Kinh Môn, Minh Tân, Phú Thứ

Giới thiệu chung

Kinh Môn là một huyện của tỉnh Hải Dương, giáp với Hải Phòng và Quảng Ninh, một huyện tương đối đặc biệt so với các huyện khác của tỉnh vốn được mệnh danh là tỉnh nông nghiệp. Một dãy núi đất trong hệ thống núi vòng cung Đông Triều làm xương sống của cả huyện. Về núi non, Kinh Môn cảnh trí tương đối giống Chí Linh, nhưng Kinh Môn còn đặc biệt là có những núi đá xanh rải rác, sông bao bọc, cánh đồng rộng lớn. Trong các sách thường phân loại Kinh Môn là huyện bán sơn địa

Vị trí địa lý

Huyện Kinh Môn nằm ở phần lãnh thổ phía đông của tỉnh Hải Dương, phía bắc giáp tỉnh Quảng ninh, phía đông giáp thành phố Hải Phòng, phía tây nam giáp huyện Kim thành, phía tây bắc giáp huyện Nam sách và Chí linh của Tỉnh Hải Dương. Huyện nằm kề bên 2 tuyến đường quốc lộ 5A và 18 là 2 tuyến giao thông quan trọng của quốc gia và vùng trọng điểm kinh tế phía bắc. Huyện được bao bọc và chia cắt bởi 4 song lớn (sông Kinh Môn, sông Kinh thầy, sông Đá vách, sông Hàn mấu).

Nhìn chung vị trí địa lý của huyện khá lý tưởng: cách Hà nội khoảng 80 km, nằm trong vùng Kinh tế trọng điểm phía bắc, lại nằm kế bên 2 trung tâm kinh tế lớn là Quảng ninh và Hải phòng, giao thông thuỷ bộ tương đối thuận lợi nên có điều kiện giao lưu kinh tế với bên ngoài và đón nhận các cơ hội đầu tư.

+ Địa hình:

Huyện có địa hình đồi núi xen kẽ đồng bằng, nhiều sông ngòi chia cắt nên nơi cao, nơi thấp. Hiện còn khoảng 300 ha đất canh tác ven đồi thuộc địa hình cao và 700 ha đất ruộng trũng thường bị ngập úng vào mùa mưa

Địa hình như vậy cho phép huyện phát triển một nền kinh tế nông nghiệp hàng hoá đa dạng, toàn diện.
+ Khí hậu - thuỷ văn : Hàng năm được chia làm 2 mùa rõ rệt : mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau thường mưa ít (chiếm 15% tổng lượng mưa tong năm), nhiệt đọ thấp, nhất là tháng 1 nhiệt độ trung bình 13,8oc. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 thường nhiệt độ cao ( nhất tháng 7 nhiệt độ trung bình 32,4oc), mưa nhiều chiếm 85% lượng mưa cả năm tập trung vào tháng 7, 8. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm từ 1500 - 1700mm, nhiệt độ trung bình cả năm 23,5oc. Thuỷ văn nước lên xuống trong ngày, hàng năm từ tháng 7 đến tháng 9 có từ 2-3 lần xuất hiện lũ ở mức báo động cấp 3.

Khí hậu-thuỷ văn đã tạo cho Kinh Môn có tập đoàn cây trồng phong phú cả cây nhiệt đới, ôn đới.

Các loại tài nguyên

+ Tài nguyên đất:

Kinh Môn có diện tích tự nhiên 16.326,31 ha trong đó đất nông nghiệp 8900 ha (chiếm 55%) có 7300 ha đất trồng cây hàng năm còn lại là đáat trồng cây ăn quả lâu năm và nuôi trồng thuỷ sản. đất thuộc phù sa cổ của sông Thái Bình có độ PH từ 5,5 - 6,5, đồ phì thấp.

+ Tài nguyên nước:

Huyện có 4 sống lớn chảy qua lên nguồn nước mặt phong phú đủ đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân. Nguồn nước ngầm bị nhiễm mặn, hàm lượng sắt cao không sử dụng được.

+ Tài nguyên rừng:

Kinh Môn có 1812 ha rừng trồng trên các đồi núi đất trong đó có khoảng 300 ha ven các đồi trồng cây ăn quả (nhãn, vải, na) và hơn 15.000 ha rừng đặc dụng đã bắt đầu khép tán.

+ Tài nguyên khoáng sản:

Đá vôi : Trữ lượng khoảng 300 - 400 triệu tấn trong đó khoảng 200 triệu tấn chất lượng tốt (hàm lượng caco3 đạt 90 - 97%) có thể khai thác làm xi măng, số còn lại làm vôi và đá xây dựng.

Cao lanh trữ lượng khoảng 40.000 tấn, bô xít 20 vạn tấn. Đất sét và đá phiến sét trữ lượng hạng chục triệu tấn khai thác phục vụ cho sản xuất xi măng, ngoài ra còn hàng triệu m3 cát ở các dòng sông.

Tiềm năng khoáng sản của huyện khá phong phú đặc biệt là vật liệu xây dựng là ưu thế lớn của huyện làm tiền cho để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng nhất là sản xuất vật liệu xây dựng (đá, xi măng, cát).

+ Tài nguyên nhân văn:

Kinh Môn có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử được xếp hạng quốc gia như đến An Phụ, Động Kính Chủ, Động Hàm Long, Tâm Long, Đình Huề Trì, Đình Ngư Uyên. Hàng năm thu hút hàng chục vạn du khách thập phương thăm viếng.

Nhìn chung vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên của Kinh Môn rất thuận lợi cho phát triển kinh tế toàn diện. Song do địa hình bị chia cắt bởi sông ngòi, đồi núi nên cần 1 lượng vốn đầu tư ban đầu khá lớn để làm đường, làm cầu, trạm bơm tưới, tiêu.

Lịch sử

Thuở xa, khi bà Lê Chân lập trang An Biên khai phát khu vực Hải Phòng ngày nay, chắc chắn Kinh Môn không xa biển. Đến năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Thừa tuyên Hải Dương có 4 phủ, 18 huyện thì Phủ Kinh Môn là một trong 4 phủ, quản 7 huyện: Giáp Sơn, Đông Triều, Kim Thành, An Lão, An Dương, Nghi Dương và Thuỷ Đường. Đối chiếu với bản đồ ngày nay, Kinh Môn chỉ còn là danh chỉ huyện Giáp Sơn xưa, trừ các huyện Kim Thành, Đông Triều cơ bản là đất cũ, các huyện còn lại chính là nằm lọt trong phần lớn Thành phố Hải Phòng ngày nay.

Vùng đất thuộc phủ Kinh Môn chắc chắn có một giai đoạn phát triển mạnh, vì nằm giữa Chí Linh quê gốc và Dương Kinh nơi đất căn bản của họ Mạc. Nhưng cuối triều Mạc, bắt đầu Lê Trung hưng phải gánh chịu nhiều cuộc tàn phá ghê gớm. Một phần do sự suy tàn của triều Mạc, một phần đây chính là địa điểm đường thủy nối Tây đô Thanh Hóa với Đông đô, cuộc chiến phò Lê và tồn Mạc đã làm cho cả vùng thành chiến địa. Đại Việt sử ký toàn thư chép năm 1598, Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng đã từ Thăng Long, vâng mệnh vua Lê Thế Tông, kéo về Kinh Môn thảo phạt “giặc ngụy”. Sau khi nhà Mạc chạy dài lên phía Bắc, thế lực chống triều đình mạnh nhất tập trung ở Thuỷ Đường (nay là Thuỷ Nguyên), rồi Đông Triều, Kim Thành, Thanh Hà, An Dương… đều không thần phục triều đình. Nhưng duy chỉ có Giáp Sơn là không thấy nói có “ngụy”, và chắc chắn Nguyễn Hoàng đã kéo quân theo đường thủy đến phủ lỵ Kinh Môn làm bản doanh để làm cuộc chinh phạt. Chính vùng sông nước từ Kinh Môn đến Đồ Sơn, nằm trong khu vực phủ Kinh Môn xưa, hai trăm năm sau lại là vùng đất hoạt động của Quận He Nguyễn Hữu Cầu chống lại triều đình. (Ghi chú: Quyển tiểu thuyết “Vườn An Lạc” của Nguyễn Xuân Hưng chính là viết về giai đoạn này của Kinh Môn) Ngược dòng lịch sử, Kinh Môn có một vùng di tích vốn là trang ấp của An Sinh Vương Trần Liễu, thân sinh Đức Thánh Trần Hưng đạo đại vương. Trang ấp này ngày nay thuộc xã An Sinh, dưới chân núi An Phụ. Chính sử chép nhà Trần phát tích từ Thiên Trường, nhưng hàn vi mấy đời đánh cá trên sông, cứu công chúa nhà Lý trên sông. Ngày xưa, con sông Bạch Đằng đổ vào hệ thống sông Thái Bình rồi lên kinh thành chính là đường thủy quốc lộ chính, địa vật ngày nay chắc khác xưa nhiều, con cháu nhà Trần có thể đánh cá dọc sông Kinh Thày hay không, nhưng chắc chắn An Phụ có vị trí tâm linh cao quý đối với họ Trần. Bằng chứng là sau này, các đời vua từ Minh Tông trở về sau đều không phải an táng ở Thiên Trường (Nam Định) mà an táng tại An Sinh. Có sách nói An Sinh ngày nay thuộc Đông Triều,đó là thông tin nhầm lẫn.An Sinh là một phần của Kinh Môn.An Sinh vốn là trang ấp cổ của dòng trưởng họ Trần, các đời vua sau đều là con cháu của cả dòng Trần Cảnh lẫn Trần Liễu, chắc chắn phải chọn nơi đất phát của họ để an táng. Tiếc rằng sau khi Trương Phụ đánh bại nhà Hồ, đã cho tàn phá tất cả những di tích của nước ta, nhất là những dịa danh gắn với các vị vua chống ngoại xâm. Ngày nay, tượng Trần Quốc Tuấn đặt tại đỉnh An Phụ, thấp hơn đền Trần Liễu quả là đắc địa và đúng với tâm linh lịch sử. Chính An Sinh chứ không phải Thiên Trường mới là nơi Trần Quốc Tuấn sống thuở ấu thơ, gắn bó với trang ấp của cha, gần với phủ đệ Vạn Kiếp chỉ vài giờ đi thuyền.
Khi chính phủ quyết định sát nhập Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng vào năm 1968 thì huyện Kinh Môn sát nhập với Kim Thành để thành lập huyện Kim Môn. Đến năm 1997 thì tách trở lại như trước.

Kinh tế

+ Tốc độ tăng trưởng (KV huyện quản lý):

Năm 2001 ; 2002 tăng 10,7%/năm (năm 2001 tăng 9,24%; 2002 tăng 12,42% đạt, dự kiến năm 2003 tăng 12,5%.

+ Cơ cấu kinh tế:

Trên địa bàn Huyện Kinh Môn năm 2002 có cơ cấu nông nghiệp 12,2%, công nghiệp xây dựng 79%, dịch vụ 8,8%

Khu vực huyện quản lý năm 2002 là nông nghiệp 48,6%, công nghiệp-xây dựng 25,2%, dịch vụ 26,2%. Năm 2003 dự kiến nông nghiệp 45,7%, công nghiệp-xây dựng 27,45%, dịch vụ 26,85%. Trong nông nghiệp năm 2002 trồng trọt 56,2%, chăn nuôi-thuỷ sản 39,6%, dịch vụ 4,2%, năm 2003 dự kiến trồng trọt 55,5%, chăn nuôi-thuỷ sản 39,9%, dịch vụ 4,6%.

+ Giá trị sản xuất:

Trên địa bàn năm 2002 đạt 2.989.777 triệu đồng (giá hiện hành) tăng 20,1% so với năm 2001.
Khu vực huyện quản lý năm 2002 đạt 837.417 triệu đồng tăng 13,2% so với năm 2002, năm 2003 ước đạt 923.341 triệu đồng.

a/ Nông-Lâm-Thuỷ sản:

Diện tích gieo trồng hàng năm từ 17.300 - 17.500 ha, hệ số sử dụng ruộng đất từ 2,3 - 2,4 lần. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 2 năm 2001 ; 2002 tăng 5,41% (năm 2001 tăng 4,13%; năm 2002 tăng 6,86%; năm 2003 dự kiến tăng 5,2%. Giá trị sản xuất năm 2002 đạt 371.356 triệu đồng (hh). (cố định 302.321 triệu đồng), năm 2003 ước đạt 374.000 triệu đồng (hh) (cố định 318.000 triệu đồng). Giá trị thu được/ha đất canh tác năm 2002 đạt 28,4 triệu đồng, năm 2003 ước đạt 30,5 triệu đồng, năm 2005 dự kiến đạt trên 37 triệu đồng, lương thực 70.000 - 72.000 tấn/năm. Đàn lợn xấp xỉ 8 vạn con, đàn bò gần 4.000 con trong đó 60% là bì lai sin, đàn gia cầm khoảng 80 vạn con, diện tích nuôi thuỷ sản 450 ha xu hướng nuôi lợn, gia cầm, thả cá, trồng cây ăn quả theo mô hình kinh tế trang trại ngày càng phát triển. Phong trào nuôi đặc sản có giá trị kinh tế cao phát triển nhanh như nuôi Ba Ba toàn huyện đã có 462 hộ nuôi. Diện tích cây ăn quả 1100 ha trong đó vải 270 ha, nhãn 165 ha.

Bước đầu hình thành 4 vùng sản xuất hàng hoá tập trung : Khu nam An phụ là gạo tẻ, hành tỏi, bò, khu Tam lưu gạo nếp hoa vàng, cá tôm, rau, thịt lợn, khu Bắc An phụ gạo tẻ, gạo nếp, thịt gia cầm, bò, cây ăn quả, khu đảo rau, cây cảnh, thuỷ sản, dê ...

b/ Sản xuất công nghiệp:

Tốc độ tăng trưởng (KV huyện quản lý) năm 2001 tăng 15,11%, năm 2002 tăng 31,9%, năm 2003 ước tăng 28%.

Giá trị sản xuất:

Trên địa bàn năm 2002 đạt 2.134.226 triệu đồng (giá cố định đạt 2.318.228 triệu đồng) chiếm 40% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Hải Dương. Với những sản phẩm chính xi măng 2,5 triệu tấn, đá xây dựng 1,5 triệu m3.

Khu vực huyện quản lý năm 2002 đạt 142.678 triệu đồng (giá cố định 115.628 triệu đồng). Năm 2003 ước đạt 183.000 triệu đồng (giá cố định 148.000 triệu đồng) với những sản phẩm chính như xi măng 14 vạn tấn, đá xây dựng 245.000m3, vôi, gạch nung, quặng si líc ...

c/ Xây dựng:

Hàng năm huyện đầu tư hơn 100 tỷ đồng vào lĩnh vực xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách tỉnh cấp, huyện tiết kiệm chuẩn bị thường xuyên chuyển sang xây dựng cơ sở hạ tầng, ngân sách các xã và nguồn chủ yếu do dân đóng góp tập trung vào kiên cố cao tầng trường học các cấp, đường giao thông, kênh mương, trạm xá, đường điện ... kết quả đã kiên cố, cao tầng được 44,04% phòng học mầm non, 94,93 phòng học tiểu học, 94,87% phòng học trung học cơ sở, 100% phòng học trung học phổ thông, xây dựng xong đường điện hạ thế tới tất cả các cụm dân cư trên địa bàn, bê tông hoá, nhựa hoá được 24,8 km, trên 60km bê tông hoá đường giao thông, 7 xã bê tông hoá các trục chính liên thôn ( Hiệp Sơn, Minh Tân, Phú Thứ, Phạm Mệnh, Thất Hùng, Hiến Thành, An Phụ) 50 km kênh mương, trong đó 42 km kênh cấp 3

d/ Các ngành dịch vụ:

Ngành dịch vụ năm 2002 tăng trưởng 11,7% đạt giá trị 194.513 triệu đồng (giá cố định 127.204 triệu đồng). năm 2003 ước tăng 12,2% đạt giá trị 222.000 triệu đồng (giá cố định 142.720 triệu đồng), trong đó : các dịch vụ bưu điện có tốc độ phát triển nhanh nhất toàn huyện đã có 4437 máy điện thoại đạt 2,8 máy/trăm dân với 21 bưu cục và điểm văn hoá xã, số báo phát hành hàng ngày dứng thứ 2 toàn tỉnh. Toàn huyện có hơn 400 phương tiện vận tải thuỷ và hơn 700 phương tiện vận tải bộ ..., các hoạt động tài chính, ngân hàng bảo đảm đúng chế độ chính sách của nhà nước.

Du lịch

Kinh Môn nổi tiếng với Đền Cao - là nơi thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và danh lam thắng cảnh động Kính Chủ - nơi có nhiều hang động đá vôi tuyệt đẹp và gắn với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Hải Dương cũng như của Việt Nam trong thời kỳ chống ngoại xâm.

Động Kính Chủ nằm trong quần thể núi đá xanh cách An Phụ vài ba cây số. Chắc rằng thời Lý, Kính Chủ là nơi trung tâm Phật giáo, trước khi các nhà tu hành phát hiện ra An Tử. Chính sử chép nơi đây có 49 hang động, lầu son gác tía. Lý Thần tông được nhà Trần cho tu ở đó, thực chất là an trí. Nay di tích này không còn nhiều, hầu như chỉ còn phế tích. Vấn đề của Kính Chủ cũng là vấn đề chung nan giải của cả nước.


Khu vực đồi núi Kinh Môn còn có những di tích lịch sử và thắng cảnh được Nhà nước xếp hạng với đỉnh An Phụ có đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu - thân phụ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn; với động Kính Chủ có nhiều hang động tạo nên phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, nơi đây còn bút tích của danh nhân Phạm Sư Mệnh đề thơ "Đặng thạch môn sơn lưu đề".

Những dãy núi đá Kinh Môn là nơi đã diễn ra các cuộc chiến đấu của ông cha ta chống giặc ngoại xâm như thời vua Trần Nhân Tông đã đóng quân ở núi Kính Chủ để chống quân Nguyên. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã diễn ra các cuộc chiến đấu rất oanh liệt của quân dân Kinh Môn tại các khu núi đá với các địa danh: Kính Chủ, Áng Sơn, Thung Sanh mãi mãi còn ghi đậm dấu tích kiên cường trong ký sức của người dân Kinh Môn.

Văn hóa - Giáo dục

Cơ sở vật chất : 44,04% phòng học mầm non được xây dựng kiên cố, 94,93% phòng học tiểu học, 94,87% phòng học trung học cơ sở, 100% phòng học trung học phổ thông được xây dựng kiên cố cao tầng.
Chất lượng giáo viên 48,8% giáo viên mầm non, 90,8% giáo viên tiểu học, 94,14% giáo viên trung học cơ sở và 100% giáo viên trung học phổ thông đạt chuẩn


6- Huyện Kim Thành


Diện tích: 163,5km2
Dân số: 149.500 người (2004)
Mật độ: 914 người/km2
Đơn vị hành chính: gồm 20 xã và 1 thị trấn

Thị trấn: Phú Thái

Và 20 xã là: Thượng Vũ, Việt Hưng, Tuấn Hưng, Kim Xuyên, Phúc Thành, Kim Lương, Lai Vu, Cộng Hoà, Cổ Dũng, Kim Anh, Kim Khê, Ngũ Phúc, Kim Tân, Kim Đính, Bình Dân, Cẩm La, Đồng Gia, Liên Hoà, Đại Đức, Tam Kỳ.

Xưa là huyện Trà Bái, đời Lê là Kim Thành, quê Ngô Bệ. Từ đời Lê về trước, huyện có 17 người đỗ đại khoa.

Vị trí

Kim Thành là huyện nằm ở phía Đông của tỉnh Hải Dương. Bắc giáp huyện Kinh Môn, ranh giới là sông Kinh Môn. Nam giáp huyện An Lão của TP Hải Phòng, ranh giới là sông Lạch Tray. Tây giáp huyện Thanh Hà, ranh giới là con sông Rang. Đông giáp huyện An Dương của TP Hải Phòng

Tiềm năng

Kim Thành thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có độ nóng và độ ẩm cao. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23oC. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.453 mm. Độ ẩm trung bình hằng năm 85%.Có hai con sông lớn chảy qua địa bàn huyện là sông Kinh Môn và sông Rạng. Đây là nguồn cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất. Đồng thời cũng là nguồn mang lại phù sa cho đất.

Huyện Kim Thành có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuấtnông nghiệp, đặc biệt là cây trồng vụ đông, tạo cho huyện có cây trồng phong phú đa dạng:cây lương thực (lúa,ngô), cây thực phẩm (rau, hành tỏi, dưa hấu, củ đậu).

Trên địa bàn huyện có quốc lộ 5 và đường sắt Hà Nội-HảiPhòng chạy qua rất thuận lợi trong giao lưu kinh tế vớicác tỉnh thành trong khu vực. Ngoài ra còn có hệ thống tỉnh lộ 188 và 186 đi các huyện khác trong tỉnh.

Di tích và danh thắng có thể kể đến như: đình Nại Thượng, chùa Muống, đình chùa Dưỡng Thái, đình Kiên Lao, chùa Linh Quang, chùa Khánh Quang, đình Lương Xá.

7- Huyện Gia Lộc

Diện tích: 112 km2
Dân số: 147.322 người
Đơn vị hành chính: Huyện có một thị trấn và 22 xã, bao gồm:

Thị trấn: Gia Lộc

Các Xã:

Đoàn Thượng, Đồng Quang, Đức Xương, Gia Hòa, Gia Khánh, Gia Lương, Gia Tân, Gia Xuyên, Hoàng Diệu, Hồng Hưng, Lê Lợi, Liên Hồng, Nhật Tân, Phạm Trấn, Phương Hưng, Quang Minh, Tân Tiến, Thống Kênh, Thống Nhất, Toàn Thắng, Trùng Khánh, Yết Kiêu.

Giới thiệu chung:

Gia Lộc là một huyện nằm phía tây nam của tỉnh Hải Dương với tổng diện tích 112 km² và dân số 137.586 147.322 người. Địa hình Gia Lộc là đồng bằng, đất nông nghiệp chiếm 67% diện tích. Về giao thông, đường 17 chạy qua địa phận huyện và đường thuỷ trên sông Thái Bình.

Trước đây, huyện mang tên Gia Lộc. Sau đó Gia Lộc sáp nhập với huyện Tứ Kỳ, thành huyện Tứ Lộc vào những năm 1979 - 1996, thuộc tỉnh Hải Hưng. Từ ngày 27 tháng 1 năm 1996, hai huyện lại được tách ra và mang tên như trước đó.

Kinh tế

Gia Lộc hoạt động kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, chủ yếu trồng lúa, các loại rau, khoai tây, tỏi, ớt, hoa đào v.v. với nguồn nước phong phú. Rau quả, táo, dưa hấu Gia Lộc được tiêu thụ cho thị trường trong tỉnh và các tỉnh phía nam. Trung tâm mua bán, trao đổi các sản phẩm nông nghiệp tập trung ở Quán Nghiên(thuộc khu vực xã Gia Xuyên). Tại xã Thống Nhất có Viện cây lương thực Lương Đình Của của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Du lịch

Huyện có đền thờ Yết Kiêu tại xã Yết Kiêu, quê hương của ông, di tích lịch sử Đền Quát, mộ Đỗ Quang, đình Phương Điếm, đền Cuối. Ngoài ra còn có đền thờ Nguyễn Chế Nghĩa tại Thị trấn Gia Lộc.

Người nổi tiếng

• Đoàn Thượng thời cuối nhà Lý, đầu nhà Trần.

• Yết Kiêu thời nhà Trần, bộ tướng của Trần Hưng Đạo

• Nguyễn Chế Nghĩa thời nhà Trần

• Anh em Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật, các tướng của nhà Hậu Lê thời Lê-Mạc phân tranh (1533-1592).

• Phạm Trấn, trạng nguyên năm 1556.

• Đỗ Quang (1807-1866), đỗ tiến sĩ năm 1832, quan nhà Nguyễn.

• Lê Thanh Nghị (1911-1989), phó Thủ tướng của Việt Nam từ năm 1960 đến 1980


8- Huyện Tứ Kỳ

Diện tích: 170 km2
Dân số: 157. 809 người

Đơn vị hành chính: Huyện Tứ Kỳ có 01 thị trấn và 26 xã:

Thị trấn: Tứ Kỳ

Và 26 xã: Ngọc Sơn, Kỳ Sơn, Đại Đồng, Hưng Đạo, Ngọc Kỳ, Tái Sơn, Bình Lãng, Đông Kỳ, Tứ Xuyên, Tây Kỳ, Quang Phục, Tân Kỳ, Dân Chủ, Quảng Nghiệp, Đại Hợp, Quang Khải, Minh Đức, Văn Tố, An Thanh, Cộng Lạc, Quang Trung, Nguyên Giáp, Tiên Động, Phượng Kỳ, Hà Kỳ và Hà Thanh.

Giới thiệu chung

Tứ Kỳ là huyện đồng bằng Bắc Bộ. Cũng giống nhiều huyện khác của tỉnh Hải Dương, Tứ Kỳ nằm hoàn toàn ở giữa hệ thống sông Thái Bình, đất đai của huyện được hình thành nên nhờ sự bồi đắp hệ thống sông này. Phía Đông Bắc giáp huyện Thanh Hà, ranh giới là sông Thái Bình, góc phía Tây Bắc giáp thành phố Hải Dương, phía Tây giáp huyện Gia Lộc, phía Tây Nam giáp huyện Ninh Giang, đều thuộc tỉnh Hải Dương. Phía Đông Nam giáp huyện Vĩnh Bảo (ranh giới là sông Luộc), góc phía Đông giáp huyện Tiên Lãng (ranh giới là một đoạn sông Thái Bình), đều là các huyện của thành phố Hải Phòng, ngã ba sông Luộc đổ vào sông Thái Bình nằm trên ranh giới này. Hầu như bốn xung quanh huyện được bao bọc bởi các con sông nhỏ của hệ thống sông Thái Bình. Chính giữa địa bàn huyện là con sông Tứ Kỳ, chảy theo hướng chủ đao là Tây sang Đông, điểm bắt đầu chảy vào huyện là tại ngã ba ranh giới giữa huyện với các huyện Ninh Giang và Gia Lộc, chảy một đoạn dọc theo ranh giới với huyện Ninh Giang rồi cắt ngang qua giữa huyện (qua thị trấn Tứ Kỳ), điểm cuối đổ vào sông Thái Bình tại ngã ba ranh giới với các huyện Thanh Hà và Tiên Lãng. • Đường bộ: có đường 191, chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, nối thành phố Hải Dương với thị trấn Tứ Kỳ.
• đường 17 đi huyện gia lộc
• Đường thủy: có sông Luộc, sông Thái Bình, sông Tứ Kỳ,...

Du lịch

• Chùa Đông Dương nằm trên địa bàn xã Minh Đức là một ngôi chùa khá cổ, chùa được xếp hạng di tích lịch sử năm 1994.
• Chùa Phúc Diên tại xã Tân Kỳ được xếp hạng năm 1997.
• Chùa Khánh Linh tại xã Phượng Kỳ.
• Miếu Phạm Xá thuộc xã Ngọc Sơn có lễ hội hàng năm tổ chức vào 9 tháng giêng .
• Đình Quỳnh Gôi tại xã Tân Kỳ thờ thành hoàng là Cao Sơn Đại Vương, thời Hùng Duệ Vương, có công chống giặc Thục, giữ yên bờ cõi. Lễ hội hằng năm vào ngày 8 tháng 2.
• Đình Ngọc Lâm (còn gọi là Đình Gậm) tại xã Tân Kỳ, thờ thành hoàng là Cao Sơn Đại Vương, thời Hùng Vương, như thành hoàng đình Quỳnh Gôi. Lễ hội hằng năm vào ngày 12-18 tháng một.
• Thôn Thanh Kỳ, xã An Thanh có nghề dệt chiếu truyền thống từ lâu đời và được công nhận làng nghề vào năm 2000.
• Đền Từ Mắc thuộc thôn Bích Cẩm, xã Quang Phục thờ vua Quang Trung.
• Chùa Đống Duyên thuộc thôn Thái An
• Cây đa cách mạng nằm trong trường Trung học cơ sơ Quang Phục

Nghề truyền thống

Thôn Thanh Kỳ, xã An Thanh có nghề dệt chiếu truyền thống từ lâu đời và được công nhận làng nghề vào năm 2000

9- Huyện Cẩm Giàng

Diện tích: 109 km2
Dân số: 127.914 người

Đơn vị hành chính:

Gồm có 17 xã:, Cẩm Hưng, Ngọc Liên, Cẩm Sơn, Kim Giang, Thạch Lỗi, Cẩm Hoàng, Cẩm Văn, Cẩm Vũ, Đức Chính, Tân Trường, Cao An, Lương Điền, Cẩm Điền, Cẩm Phúc, Cẩm Đông, Cẩm Đoài và Cẩm Định.

Và 2 thị trấn: bao gồm thị trấn Lai Cách (huyện lị), thị trấn Cẩm Giàng

Vị trí địa lý

Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía Tây giáp tỉnh Hưng Yên, phía Nam giáp huyện Bình Giang, phía Đông giáp huyện Nam Sách và thành phố Hải Dương cùng tỉnh.

Kinh tế

• Huyện Cẩm Giàng có vị trí địa lý, giao thông thuận lợi (quốc lộ 5A và đường sắt Hà Nội-Hải Phòng chạy qua) để phát triển kinh tế; có khả năng phát triển nông nghiệp, có nhiều nông sản (lúa đặc sản, hành tây, dưa chuột, cà rốt, ớt, cà chua...). Huyện đang xúc tiến xây dựng khu công nghiệp Phúc Điền, Tân Trường, Đại An và có một số nhà máy lớn như Công ty giày Cẩm Bình, Nhà máy lắp ráp ôtô Ford, Công ty may Venture, Công ty chế biến rau quả thực phẩm Vạn Đắc Phúc, ...

• Nghề truyền thống: chạm khắc gỗ mỹ nghệ Đông Giao, rượu Phú Lộc, giết mổ trâu bò Văn Thai, xay sát gạo
Du lịch

Di tích lịch sử:

Văn miếu Mao Điền- nơi ghi danh các vị tiến sĩ của tỉnh Đông - Một trong những văn miếu đầu tiên của Việt Nam, đền thờ danh y Tuệ Tĩnh, chùa Giám, đình chùa thôn Phú Quân xã Cẩm Định


10- Huyện Bình Giang

- Diện tích: 105 km2
- Dân số: 105.203
- Đơn vị hành chính: 01 thị trấn: Kẻ Sặt

Và 17 xã: Vĩnh Tuy, Vĩnh Hồng, Tráng Liệt, Hưng Thịnh, Hùng Thắng, Long Xuyên, Tân Việt, Bình Minh, Tân Hồng, Thúc Kháng, Thái Dương, Thái Hoà, Bình Xuyên, Thái Học, Hồng Khê, Nhân Quỳên, Cổ Bì

Giới thiệu chung

Bình Giang là một trong 12 huyện thuộc tỉnh Hải Dương. Bình Giang Nằm trên quốc lộ 5, quốc lộ 39B, cách thành phố Hải Dương 20 km. Huyện có ranh giới giáp với tỉnh Hưng Yên, huyện Thanh Miện, huyện Cẩm Giàng và huyện Gia Lộc.Trước kia Bình Giang sáp nhập với huyện Cẩm Giàng thành huyện Cẩm Bình

Vị trí địa lý

Bình giang nằm ở phía Tây Nam thành phố Hải Dương, diện tích tự nhiên là 104,7km2. Phía Bắc giáp huyện Cẩm Giàng; phía Nam giáp huyện Thanh Miện, Phía Đông giáp huyện Gia Lộc; phía Tây giáp huyện Ân Thi và Mỹ Hào của tỉnh Hương Yên.

Bốn mặt huyện Bình Giang đều có sông: sông Kẻ Sặt ở phái Bắc; sông Đình Hào ở phía Đông; sông Cửu An ở phía Tây; sông cầu Lâm, Cầu Cốc ở phía Nam. Trong đó sông Sặt bắt nguồn từ sông Hồng, qua cống Xuân Quan, qua cầu Lực Điền, cầu của đường 39A, nối quốc lộ 5 với thị xã Hưng Yên, tiếp cận với Bình Giang tại vị trí sát làng Tranh Ngoài, xã Thúc Kháng. Đến đây sông có nhánh chạy dọc theo phía Tây huyện, gọi là sông Cửu An; một nhánh chạy dọc phía Bắc huyện gọi là sông Kẻ Sặt, thông với sông Thái Bình, qua Âu Thuyền, thành phố Hải Dương.

Kinh tế

Bình Giang là một huyện chủ yếu là nông nghiệp, đang chuyển sang công nghiệp, dịch vụ, thương mại.
Năm 2006 tổng GDP huyện đạt 862,625 tỉ đồng, trong đó: nông nghiệp (43,06%), công nghiệp (27,88%), tiểu thủ công nghiệp, xây dựng; thương mại dịch vụ (29,06%).

Văn hóa - Giáo dục

Tại xã Tân Hồng, phía đông của huyện Bình Giang có làng cổ Tuyển Cử, trong những ngôi làng cổ cùng hình thành với làng Mộ Trạch.(Theo "Làng Cổ Việt" của Vũ Khiêu???) Theo sử sách ghi lại làng có 36 tiến


11- Huyện Thanh Miện

- Diện tích: 122 km2
- Dân số: 122.574 người
- Đơn vị hành chính: 18 xã và 1 thị trấn

•Thị trấn: Thanh Miện (trước là xã Lê Bình).
•Xã: Cao Thắng, Chi Lăng Bắc, Chi Lăng Nam, Diên Hồng, Đoàn Kết, Đoàn Tùng, Hồng Quang, Hùng Sơn, Lam Sơn, Lê Hồng, Ngô Quyền, Ngũ Hùng, Phạm Kha, Tân Trào, Thanh Giang, Thanh Tùng, Tứ Cường, Tiền Phong.

Giới thiệu chung:

Thanh Miện là một huyện của tỉnh Hải Dương, trung tâm huyện cách Hà Nội 60 km; cách thành phố Hải Dương 23 km và cách thị xã Hưng Yên 25 km. Cùng với mạng lưới giao thông thông suốt, Thanh Miện có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp và nông thôn.

Lịch sử:

Thời thuộc Minh là huyện thuộc châu Hạ Hồng, phủ Tây An, sau thuộc phủ Ninh Giang, trấn Hải Dương. Năm 1979, sáp nhập với huyện Ninh Giang thành huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng, nay là tỉnh Hải Dương. Tháng 1 năm 1996 lại tách thành 2 huyện như cũ.

Vị trí địa lý:

Thanh Miện là huyện đồng bằng nằm ở phía tây nam của tỉnh Hải Dương. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 122,321 km² trải dài từ 106°7′50″ đến 160°16′20″ kinh Đông và từ 20°40′45″ đến 20°50′55″ vĩ Bắc. Phía tây bắc giáp huyện Bình Giang, đông bắc giáp huyện Gia Lộc, đông nam giáp huyện Ninh Giang, nam giáp tỉnh Thái Bình, tây giáp tỉnh Hưng Yên.

Thời tiết khí hậu

Do nằm trong vị trí trung tâm của đồng bằng sông Hồng nên Thanh Miện có khí hậu đăc trưng của đồng bằng Bắc Bộ đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong năm phân biệt thành bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt. Lượng mưa trong năm tập trung từ tháng 4 đến tháng 9 và mưa rất ít từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
Lượng nước mưa trung bình trong năm của huyện từ 1.350 đến 1.600 mm (cao nhất là 2.501 mm vào năm 1973 và thấp nhất là 752,2 mm vào năm 1989). Nhiệt độ trung bình 23,3°C; số ngày nắng từ 180 đến 200 ngày một năm. Độ ẩm trung bình từ 81 đến 87%.

Đất đai, địa hình

Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 122,321 km² trong đó đất nông nghiệp 8.551 ha; đất khu dân cư 865 ha và đất chưa sử dụng 304 ha. Mật độ dân số tính theo website Chính phủ[1] là 1.075 người/km².
Đất nông nghiệp của huyện ở địa hình dốc từ tây bắc xuống đông nam, có cao trình cao, thấp xen kẽ nhau.
Theo đó cơ cấu đất nông nghiệp của huyện rất phức tạp, trong đó 1.489 ha đất chân cao; 4.412 ha đất chân vàn; 1.688 ha đất chân thấp; 277 ha đất trũng và 685 ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản.
Nhìn chung đất nông nghiệp ở Thanh Miện nghèo dinh dưỡng, tầng canh tác mỏng, tỷ lệ đất nghèo lân chiếm 60%( 4.720 ha) và có tới 6.028 ha ở độ chua cấp I (pH< 4,5; chiếm 70%).

Giao thông và nguồn nước

Quy hoạch, phát triển hệ thống giao thông đường bộ là một trong những ưu tiên hàng đầu trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng của huyện trong những năm trở lại đây. Thanh Miện có đường liên tỉnh 38B chạy từ thành phố Hải Dương qua Gia Lộc, qua trung tâm huyện, nối với tỉnh Hưng Yên; Thái Bình đi các tỉnh phía nam.

Đường tỉnh có 20A nối trung tâm huyện với Bình Giang đi Hà Nội; các tuyến 20B; 39D chạy theo trục bắc nam, đông tây nối Thanh Miện với các huyện lân cận. Ngoài ra, hệ thống giao thông thuỷ với sông Luộc; sông Cửu An; sông Hàng Kẻ Sặt và 3 bến chính cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giao thương hàng hoá giữa Thanh Miện với các tỉnh, các huyện khác.

Nguồn nước tưới, tiêu trên địa bàn huyện cũng khá đa dạng và ổn định, do Thanh Miện nằm trong hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải. Phía nam huyện giáp sông Luộc với chiều dài 2,8 km. Trong nội đồng có sông Hàng Kẻ Sặt và sông Cửu An là trục chính Bắc Hưng Hải tiếp giáp với sông ngoài bằng cửa An Thổ và Cầu Xe.

12- Huyện Ninh Giang

Diện tích: 135,4 km2
Dân số: 146.780 người

Đơn vị hành chính: Huyện có 01 Thị trấn và 27 xã

Thị trấn: Ninh Giang

Các xã:

Hiệp Lực, Hồng Dụ, Vĩnh Hoà, Tân Hương, Quyết Thắng, Ninh Hoà, Hồng Đức, Đông Xuyên, Hồng Phong, Tân Phong, Hưng Long, Văn Hội, Quang Hưng, Hồng Thái, Đồng Tâm, Ninh Thành, Nghĩa An, Ứng Hoè, Vạn Phúc, An Đức, Ninh Hải, Kiến Quốc, Hồng Phúc, Hưng Thái, Tân Quang, Hoàng Hanh, Văn Giang

Vị trí địa lý

Ninh Giang là một huyện phía Đông Nam của tỉnh, nằm bên bờ sông Luộc và tiếp giáp với các tỉnh Thái Bình, Hải Phòng. vị trí khoảng 20o 43’vĩ Bắc,106o 24’ kinh Đông. Ninh Giang phía Nam giáp xã Thắng Thủy (Hải Phòng) bằng con sông Luộc , phía Bắc giáp xã Đồng Tâm, Tây Giáp xã Hiệp Lực( xã em đó :) ) phía Tây Nam giáp xã An Khê, phía Đông Giáp xã Hà Kỳ. Theo đường bộ Ninh Giang cách thành phố Hải Dương 29km, Hà Nội 87 km. Về đường bộ tiếp giáp và có các con đường chạy qua 17A, 17B, 217
-Đi Hải Dương - Vĩnh Bảo bằng đường 17A
-Đi Quí Cao- Hải Phòng bằng đường 17B
-Đi Quỳnh Phụ Thái Bình bằng đường 217
-Đi Hưng Yên bằng tuyến sông Luộc
Ninh Giang cách biển 25km( đường chim bay) Thời tiết khí hậy như Hải Phòng và Thái Bình

Sự kiện và con người

Vùng đất Ninh Giang xưa trong một số bộ sử và tiểu thuyết đã nhắc tới. Mỗi thời kỳ với những tên gọi khác nhau, được nhắc tới nhiều nhất là Hồng Châu, Hạ Hồng, Vĩnh Lại.

Kết quả khảo sát và khảo cổ học năm 1982 ở huyện Quỳnh Phụ ( Thái Bình) giáp với Ninh Giang qua sông Luộc, phát hiện thấy phế tích mộ đời Hán. Công trình trên kết luận: vùng đất Quỳnh Phụ ít ra trước kia cũng có dân cư trước Công nguyên, cư dân từ trung du ( Vĩnh Phú,Tuyên Quang) hoặc Biển( Thanh Hóa –Nghệ An) đến lập nghiệp ở đây. Ninh Giang xa biển hơn Quỳnh Phụ, đất bồi tụ trước quỳnh Phụ vì vậy mà sẽ có dân cư trước Quỳnh Phụ. Như vậy muộn nhất cư dân Ninh Giang cũng phái có trước Công nguyên ( tức hơn 2000 năm ).

-Năm 40 Hai Bà Trưng khởi nghĩ. Nhà Hán cử Mã viện sang đàn áp. Tại cùng Hạ Hồng dã chứng kiến cuộc giao tranh giữa 2 bên. Phá vây ở Hạ Hồng Hai Bà chạy về Thạch Bàn. Đô Lượng 1 tướng giỏi của Hai Bà Trưng có cứ quân đóng ở Hiệp Lực ( Ngã ba sông Hóa).

Sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đất nước lại trải qua 1000 năm Bắc thuộc. -Vào thế kỷ thứ X, tương truyền rằng có một người ở làng Cúc Bồ( nay là xã Kiến Quốc) là Khúc Thừa Dụ đã chiêu binh mã nổi dậy chống quân đô hộ phương Bắc. Trong lịch Triều hiến chương loại chí có ghi:

-“Cuối đời Đường thổ hào là Khúc Thừa Dụ người Hồng Châu chiếm lấy cứ thành tự xưng là Tiết Độ Sứ.. rồi đến cháu là Khúc Thừa Mỹ nối chức, yêu cầu nhà Lương cho làm Tiết Độ Sứ. Khi ấy nhà Nam Hải chiếm đất Phiên Ngung, đem quân đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ , rồi đặt Thứ Sử. viên tướng của Khúc là Dương Đình Nghệ nổi lên đánh châu thành, tự xưng là Tiết Độ Sứ, sau bị nha tướng là Kiều Công Tiến giết chết. Khi ấy có một biệt tướng của Diên Nghệ giết Tiến, đánh quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng, tự xưng là vua đóng đô ở Loa thành( Cổ Loa ngày nay)

-Vào thế kỷ thứ XV sau cuộc bảo vệ đất nước của nhà Hồ thất bại nước ta bị ách thống trị của Nhà Minh -Trong thời kỳ này sử còn ghi lại một sự kiện:Vào mùa xuân năm 1418 Lê Lợi dấy binh ở Thanh Hóa thì 1419 tại châu Hạ Hồng, Trịnh Công Chứng và Lê Hành dấy quân đánh Tống binh Lý Bân của nhà Minh ở vùng Bắc

Sau cuộc kháng chiến thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi vua, lập nên một vương triều phong kiến cực thịnh ở Việt Nam. Ở thời điểm đó Ninh Giang chứng kiến sự kiện lạ, sử cũ ghi: “Mùa hạ, tháng tư năm 1443, có rồng hiện ở bến đò Hóa( huyện Vĩnh Lại)”

-Đầu thế kỳ thứ XVI nhà Lê bước vào thời suy vong Mạc Đăng Dung soán ngôi nhà Lê , trong nước diễn ra nhiều cuộc chiến một bên là Chúa Trịnh( dưới danh nghĩa Phù Lê) và một bên là Mạc. Đây là thờ kỳ nội chiến kéo dài, chiến tranh xảy ra liên miên. Ninh Giang nằm trong vùng chiến ác liệt. Tháng 2/1959 sau khi thu phục xứ Hải Dương Trịnh Tùng sai quân đến xã Thanh Giang( huyện Vĩnh Lại) đóng quân vài hôm rồi về kinh.

-Năm 1594 phủ Hạ Hồng có nhiều quân cát cứ chống Trịnh Tùng. Tháng 7 năm ấy Mạc Kính Chương chiếm huyện Thanh Hà và Tứ Kỳ, còn huyện Vĩnh Lại có Lai Quận Công. Những năm ấy xứ Hải Dương mất mùa to, chết đói 1/3.

-Năm 1595 Trịnh Tùng cử Trịnh Văn chương về trấn giữ huyện Vĩnh Lại. Năm 1598 Nguyễn Hoàng lại được cử về xứ Hải Dương dẹp quân chống đối. Thời Lê Trung Hưng vào năm 1740 có nhiều cuộc nôit dậy chống nhà Chúa: Thái Bình có Công Chất, Nam Hà có Tú Cao, Vĩnh Phú có Nguyễn Danh Phương và Hải Dương có Hữu Cầu( Quận He), Ninh Giang là một trong những địa bàn hoạt động của Quận He. Tại đất Tranh Xuyên có những trận giao tranh quyết liệt giữa quân nổi dậy và quân Triều đình. Một lần quân Triều đình bị vây ở đât Tứ Kỳ, danh tướng Triều đình là Hoàng Ngũ Phúc phải đến giải vây, Khi qua vùng Ninh Giang bị quân nổi dậy chặn đánh gây nhiều thiệt hại. Triều đình phải cử quân của Phạm Đình Trọng về đánh quân của Nguyễn Hữu Cầu ở ngá ba sông Tranh. Lần ấy quân Nguyễn Hữu Cầu thua chạy.

-Vào đời Gia Long 1808 vùng Hải Dương có quân Tàu Ô làm loạn. Nhân dân huyện Vĩnh Lại và một số huyện trong vùng cùng quân Triều Đình chiến đấy anh dũng, bắt được nhiều giặc , được Vua ban thưởng.

Vào đời Tự Đức(1858), Pháp tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược của Pháp vào nước ta. Tại Hải dương nhiều huyện như Vĩnh Lại, Tứ Kỳ, Gia Lộc, thành Hải Dương bị giặc chiếm đóng, triều đình phải huy động quân từ nhiều tỉnh, kể cả Thanh Hóa và Nghệ An, có lúc số quân huy động lên tới 15000 quân cùng nhiều thuyền tàu và đại bác dẹp giặc.

Di tích văn hóa

Không nổi tiếng về du lịch nhưng Ninh Giang cũng có một vài Đền_Chùa mang đậm dấu ấn lịch sử như: Đền quan tuần Tranh (hay còn gọi là đền Tranh) là một trong những ngôi đền lớn và nổi tiếng ở Ninh Giang, Chùa Chông, Đình Làng Xuyên Hử,... Đình Làng Xuyên Hử là nơi thờ Vị Thành Hoàng của Làng, trong kháng chiến chống Pháp người dân địa phương đã che dấu cán bộ cách mạng tại đây... người dân còn tháo dỡ Đình Làng lấy vật liệu làm cầu Đồng Bình phục vụ kháng chiến. Tháng 3 năm 2006 được sự đồng ý của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Dương đình làng Xuyên Hử đã được tái tạo lại.

Địa phận xã Tân Phong thuôc huyện Ninh Giang trước đây có rất nhiều các di tích đình, chùa, miếu mạo. Đặc biệt đình Chuông với những cât cột gỗ lim hai người ôm và những phiến đá xanh lát hè nặng hàng chục tấn, Chùa Chuông với rất nhiều tượng phật... Hiện nay đình chùa đã bị phá hết (trong cải cách văn hoá), thời gian gần đây, người dân đã phục dựng lại chùa Chuông ở một vị trí khác nhưng các tượng thì đã không còn (đã bị thiêu hủy trong cải cách văn hoá). Năm 2005 chính quyền địa phương đã tổ chức khai quật tại nơi chôn những pho tượng phật của chùa Chuông cũ và thu giữ được rất nhiều di vật cổ gồm vài chục ngôi tương gỗ không còn nguyên vẹn nhưng những đường nét điêu khắc trên tượng của người xưa được xem là rất tinh tế và đẹp thì vẫn còn gần như nguyên vẹn. Hiện số tượng phật này vẫn được cất giữ tại chùa Chuông mới.

Đền La Khê thuộc Xã Ninh Thành Huyện Ninh Giang Tỉnh HảI Dương. khi xưa gọi là Làng Vào thuộc xã La Khê (社 欏 溪 ) Tổng Đông Bối (總 東 貝) phủ Ninh Giang (府 寧 江 ) tỉnh Hải Dương (省 海 陽 )
Tương truyền Đền La Khê được nhân dân xây dựng từ rất sớm ở khu đất cao ở giữa làng, thờ Tượng Vị Tướng Quân HỒ ĐẠI LIỆU. Đền đã được tu sửa nhiều lần. Đến năm Duy Tân thứ 8 (1914) ngôi Đền được trùng tu và mở rộng.Kiến trúc kiểu chữ đinh (丁) Gồm 5 gian Tiền tế và 3 gian Hậu cung . Đền còn giữ nguyên các hoa văn ,phù điêu mang nét văn hoá thời Nguyễn và các hiện vật như : Ngai thờ ,Mũ đồng ,Khám chỉ ,Bát biểu ,Xà mâu v .v .và 3 pho tượng: Tượng Vị Tướng Quân HỒ ĐẠI LIỆU Phò Bà Trưng ,Giữ chức : Điện Tiền đô chỉ huy Sứ Tướng Quân Tượng Mẫu Hậu Huệ Nương (Mẹ của Tướng Quân Hồ Đại Liệu ). thờ Tượng Ngài Hà Quý Công -tự Bút Hoa Đỗ Thám hoa đời Trần. Đền La Khê suy tôn Vị Tướng Quân HỒ ĐẠI LIỆU Là Thành hoàng làng Có nhiều sắc phong Qua¸các Triều Đại Hiện Được Lưu giũ tại Sở văn Hoá Tỉnh Hải Dương và Viện thông tin khoa học xã hội i: (TT – TS FQ 4018 I X ,44 F2)
.Không những vậy Đền La Khêtrong 9 năm kháng chiến chống Pháp Đền cũng là nơi sơ tán của Trường Đại học Bắc Sơn được đón Đ/c Tôn Đức Thắng về thăm và nói chuyện và cũng là trụ sở hội họp của Mặt trận cứu Quốc Huỵện Ninh Giang Năm 1949 Đền La Khê là Bệnh viện dã chiến của Quân khu Tả Ngạn Thế rồi Năm 1952 Giặc Pháp càn quét đốt phá phần Hậu cung hỏng hoàn toàn.Tượng,đồ thờ đã được nhân dân cất giữ năm gian tiền tế không được trùng tu đã mai một xuống cấp theo thời gian. Đến tháng 10 – 1997 được nhân dân tu tạo rât khang trang . HALUU ST

Đền thờ Khúc Thừa Dụ tại Thôn Cúc Bồ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương, khánh thành đền thờ ngày 11-9 -2009 Đền thờ thờ 3 pho tượng : Khúc Thừa Dụ- Khúc Thừa Hạo -Khúc Thừa Mỹ

Công trình có tổng diện tích hơn 57.000m2, gồm 5 hạng mục chính, được khởi công xây dựng năm 2005, với tổng vốn đầu tư 38.3 tỷ đồng. 3 loại vật liệu quý để làm đền thờ là đá xanh, gỗ lim và đồng.

Đền thờ Anh hùng Dân tộc Khúc Thừa Dụ nằm giáp đê sông Luộc, mặt đền quay theo hướng Nam. Từ ngoài vào trong đền qua chiếc cầu đá, đến sân hội, với hai bức phù điêu ghép bằng các tảng đá lớn. Các họa tiết được chạm khắc công phu, mô tả quang cảnh nhân dân tụ nghĩa theo Tiên Chúa Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ và cuộc sống thái bình, an cư lạc nghiệp.

Đây là một công trình có ý nghĩa lịch sử, văn hóa và du lịch to lớn, nhằm tôn vinh người Anh hùng dân tộc có công đặt nền móng cho nền độc lập, tự chủ của Việt Nam sau 1.000 năm chịu ách thống trị của phong kiến phương Bắc, là một biểu tượng đẹp về truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hải Dương.

Cùng với những di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong tỉnh như Côn Sơn-Kiếp Bạc, Văn miếu Mao Điền, Đền thờ Nhà giáo Chu Văn An, Đền thờ Khúc Thừa Dụ sẽ là một địa chỉ thu hút khách tham quan, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ...
 
Chỉnh sửa lần cuối:

caosonhd

BĐH HD Hải Dương
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

CÁC ĐỊA DANH ĐỀN, CHÙA, MIẾU, MẠO... TRÊN ĐẤT HẢI DƯƠNG

1- Quần thể di tích Chùa Côn Sơn

Chùa Côn Sơn (hay còn gọi là Thiên Tư Phúc tự hay chùa Hun) là một ngôi chùa ở trên ngọn núi Côn Sơn (hay còn gọi là núi Hun) ở phường Cộng Hoà, thị xã Chí Linh. Chùa này được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam xếp hạng quốc gia đợt I năm 1962 và xếp hạng đặc biệt quan trọng vào năm 1994.

Lịch sử
Năm Hưng Long thứ 12(1304) nhà sư Pháp Loa cho xây dựng một liêu (chùa nhỏ) gọi là Kỳ Lân. Đến năm Khai Hựu thứ nhất (1329) chùa được xây dựng mở rộng thành Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự, giao cho Huyền Quang chủ trì.

Ngay từ thời nhà Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm cùng với chùa Yên Tử và chùa Quỳnh Lâm, Quảng Ninh. Nơi đây đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang và người anh hùng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi.

Chùa là nơi tu hành của Quốc sư Huyền Quang - vị tổ thứ 3 của Thiền phái Trúc Lâm. Sau khi Huyền Quang mất, vua Trần Minh Tông đã cho xây Đăng Minh bảo tháp và từ đó đến nay, ngày mất của Huyền Quang dần trở thành Hội Xuân Côn Sơn.

Vào đời nhà Lê, lúc Thiền sư Mai Trí Bản hiệu Pháp Nhãn trụ trì, chùa được trùng tu và mở rộng. Khi đó chùa có đến 83 gian, bao gồm các công trình như : tam quan, thượng hạ điện, tả hữu vu, lầu chuông, gác trống. Nhưng do bị chiến tranh tàn phá, ngày nay chùa Côn Sơn chỉ còn là một ngôi chùa nép mình dưới tàn lá xanh của những cây cổ thụ.

Kiến trúc
Trước sân tiền đường chùa Côn Sơn có những cây đại cổ, làm tăng cảnh đẹp và tôn nghiêm của chùa.

Chùa Côn Sơn xưa là một công trình kiến trúc hoàn thiện, có 385 pho tượng. Tương truyền ở ban thờ đầu hồi phía Đông nhà Tổ có 2 pho tượng nhỏ ngồi xếp bằng, một đàn ông, một đàn bà hướng về bàn thờ Phật. Tăng ni tu ở chùa Côn sơn không biết hai pho tượng đó là ai và có tự bao giờ. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, sợ giặc đến chùa tàn phá, các tăng ni Phật tử dã đem đồ thờ và các pho tượng nhỏ cất giấu ở trong núi. Vào một đêm mưa gió sấm sét to, sư ông trụ trì chùa ngủ không yên, đợi sáng hôm sau trời tạnh vào thăm lại bức tượng. Sư ông vào xem và thấy hai pho tượng trên đắp bằng đất bị mưa làm vỡ, lộ hai dải yểm tâm mới biết đó là tượng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ.

Phía sau chùa Côn Sơn là khu mộ tháp. Đăng Minh bảo tháp được dựng bằng đá xanh, cao 3 tầng, trong đặt xá lợi và tượng Thiền sư Huyền Quang.

Nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ Tiên, dưới chân Đăng Minh bảo tháp là Giếng Ngọc. Người xưa cho rằng Giếng Ngọc chính là mắt của con Kỳ Lân. Giếng Ngọc cũng có thời gian bị cỏ cây che lấp. Năm 1995, ban Quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã cho khơi lại, kè đá, xây bờ, lát sân để phục vụ cho du khách về tham quan Côn Sơn lại được tận hưởng nước giếng thiêng.

Tại Bàn Cờ Tiên trên đỉnh núi Côn Sơn, nơi đây ngày xưa có một am nhỏ hình chữ Công (I), tám mái chảy, có lan can xung quanh. Am này có tên là Am Bạch Vân.

Chùa Côn Sơn đã chứng kiến một chặng đường đời và bi kịch của người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi. Sau những năm tham gia triều chính, Nguyễn Trãi lui về Côn Sơn và sống cuộc dời ẩn dật. Cảnh đẹp Côn Sơn đã gợi nên cảm hứng để Nguyễn Trãi sáng tác nhiều bài thơ trong Quốc Âm thi tập :

Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm

Bia chùa
Tại chùa Côn Sơn, đáng chú ý nhất là tấm bia viết ba chữ "Thanh Hư động", là bút tích của vua Trần Duệ Tông khi vua về thăm Côn Sơn năm 1373. Ba chữ này được viết theo kiểu chữ Lệ là một di vật quý của chùa. Bia đặt trên lưng một con rùa, mai rùa nhẵn bóng vì nhiều người sờ tay vào. Hiện bia được để trong một nhà bia nằm bên phải cổng vào.

Bên trái là một bia đá sáu mặt, tên chữ là Côn Sơn Thiên tư Phúc Tự, cũng là một di vật quý. Năm 1965 khi về thăm chùa Côn Sơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chăm chú đọc tấm bia này.

Lễ hội
Lễ hội chùa Côn Sơn chính thức bắt đầu từ ngày 15 tháng giêng tới hết ngày 22 tháng giêng, tuy nhiên hiện nay lễ hội này thường bắt đầu từ ngày 10 đến hết tháng giêng.

Cải tạo & nâng cấp
Thời gian qua, chùa Côn Sơn đã được đầu tư quy mô lớn để cải tạo nâng cấp thành cụm di tích với nhiều đền, chùa mới.

Đền thờ Nguyễn Trãi
Đền nằm ven dòng suối Côn Sơn, phía hạ nguồn. Được xây mới hoàn toàn với kiến trúc khá đẹp, gồm cầu đá, cổng đá, tam quan, điện thờ... Phía trong có pho tượng Nguyễn Trãi đúc đồng.

Đền thờ Trần Nguyên Hãn
Đền thờ Trần Nguyên Hãn nằm trên đền thờ Nguyễn Trãi, cũng ở ven suối. Trần Nguyên Hãn là đại công thần nhà Lê và là em con cậu ruột của Nguyễn Trãi.

Đền thờ Trần Nguyên Đán
Nằm ở phía trên cả đền thờ Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn, gần thượng nguồn suối Côn Sơn. Trần Nguyên Đán là ông Nguyễn Trãi. Các đền này đều rất đẹp và hợp thành một quần thể mới hoàn toàn hòa hợp với quần thể chùa Côn Sơn cũ.

Giếng Ngọc
Giếng nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ Tiên, phía dưới chân Ðăng Minh Bảo Tháp. Tương truyền đây là giếng nước do Thiền sư Huyền Quang được thần linh báo mộng ban cho chùa nguồn nước quí. Nước giếng trong vắt, xanh mát quanh năm, uống vào thấy khoan khoái dễ chịu. Từ đó có tên là Giếng Ngọc và nước ở giếng được các sư dùng làm nước cúng lễ của chùa.

Bàn Cờ Tiên
Từ chùa Côn Sơn leo khoảng 600 bậc đá là đến đỉnh núi Côn Sơn (cao 200m). Ðỉnh Côn Sơn là một khu đất bằng phẳng, tại đây có một phiến đá khá rộng, tục gọi là Bàn Cờ Tiên. Hiện nay Bàn Cờ Tiên có dựng nhà bia theo kiểu Vọng Lâu đình, hai tầng cổ các tám mái. Ðứng từ đây, du khách có thể nhìn bao quát cả một vùng rộng lớn.

Thạch Bàn
Bên suối Côn Sơn có một phiến đá gọi là Thạch Bàn, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng chân nghỉ khi Người tới thăm di tích này. Từ chân núi đi theo lối mòn có kê đá xuống phía chân núi có một tảng đá lớn, mặt phẳng và nhẵn nằm kề ven suối gọi là Thạch Bàn lớn. Tương truyền khi xưa Nguyễn Trãi lấy làm "chiếu thảm" nghỉ ngơi, ngắm cảnh, làm thơ và suy tư việc nước.

2- Đền Kiếp Bạc:
Đền Kiếp Bạc thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Việt Nam, là nơi thờ phụng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Kiếp Bạc là tên ghép của hai vùng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Đây là di tích quan trọng thuộc khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc

Lịch sử
Vào thế kỷ 13, đây là nơi Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn lập căn cứ, tích trữ lương thực, huấn luyện quân sĩ trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Sang thế kỷ 14, đền thờ ông được xây dựng tại nơi đây và là nơi tổ chức các lễ hội hàng năm để dâng hương tưởng niệm vị anh hùng của dân tộc Việt, người có công lớn với đất nước và được dân gian tôn sùng là Đức Thánh Trần.

Vị trí
Khu vực đền Kiếp Bạc nằm gần Lục Đầu Giang, là nơi tụ hội của sáu con sông: sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Thầy và nhánh chính của sông Thái Bình. Một số người theo thuyết phong thủy cho rằng đây chính là nơi tụ khí để gây dựng cơ nghiệp. Theo đường bộ, đền Kiếp Bạc cách Hà Nội khoảng 80 km (50 dặm) đi theo đường quốc lộ số 1 đến Bắc Ninh rẽ sang đường quốc lộ số 18 và cách chùa Côn Sơn khoảng 5 km (3 dặm).

Kiến trúc
Khu vực đền Kiếp Bạc là một thung lũng trù phú ba phía có dãy núi Rồng bao bọc, một phía là Lục Đầu Giang. Núi tạo thành thế rồng chầu, hổ phục, sông tạo thành minh đường rộng rãi. Phía trước đền có cổng lớn có ba cửa ra vào nguy nga, đồ sộ. Trên trán cổng mặt ngoài có bốn chữ "Hưng thiên vô cực", dưới có 5 chữ "Trần Hưng Đạo Vương từ".
Qua cổng lớn, bên trái có một giếng gọi là Giếng Ngọc mắt rồng. Theo con đường đá đi đến khu vực để kiệu trong mùa lễ hội, phía trước có một án thờ.
Tòa điện ngoài cùng thờ Phạm Ngũ Lão, tòa điện thứ hai thờ Hưng Đạo Vương, tòa điện trong cùng thờ phu nhân Hưng Đạo Vương là công chúa Thiên Thành và hai con gái được gọi là Nhị vị Vương cô. Trong đền hiện còn 7 pho tượng bằng đồng: tượng Trần Hưng Đạo, phu nhân, 2 con gái, con rể là Phạm Ngũ Lão, Nam Tào, Bắc Đẩu và 4 bài vị thờ các con trai của ông cùng 2 gia tướng là Yết Kiêu và Dã Tượng.
Gần đền là Viên Lăng là một quả núi nhỏ cây cối mọc um tùm, một số người cho rằng đây là nơi an táng Trần Hưng Đạo.

Lễ hội
Lễ hội chính tổ chức từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 8 âm lịch, ngoài ra đầu xuân cũng có các hoạt động lễ hội ở đây. Do tính chất địa lý (gần chùa Côn Sơn) và lịch sử, lễ hội Côn Sơn (gắn liền với Nguyễn Trãi) và lễ hội đền Kiếp Bạc (gắn liền với Trần Hưng Đạo) thường được tổ chức trùng nhau để nhân dân tưởng nhớ tới hai vị anh hùng dân tộc.
Ngoài ra, tại đền Kiếp Bạc vào năm 2006, chính quyền chính thức công nhận hình thức sinh hoạt tín ngưỡng lên đồng. Những người theo tín ngưỡng lên đồng thờ Thánh Trần được gọi là Thanh đồng. Hiện nay lên đồng Trần triều diễn ra thường xuyên tại đền Kiếp Bạc.


3- Chùa Giám, nơi suy tôn Đại danh y Tuệ Tĩnh
Ngôi chùa có tên chữ là Nghiêm Quang tự ở xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương
Từ hướng Hải Phòng qua TP Hải Dương, tới Ghẽ thì gặp con đường nhỏ bên phải đi vào… Đường đi rộng 5 mét, hai bên đồng ruộng gió xuân mơn man qua da mặt mát lạnh pha lẫn hương đất, bụi mưa xuân hờ hững trên vai áo, cảm nhận trời đất giao hòa ngày xuân mà lòng xốn xang quen quen lạ lạ. Đi chừng 4 cây số tới chùa Giám.

Ngay trước cổng Tam quan chùa có 3 chữ Hán “Quán Tự Tại”. Qua cổng tam quan là hai bên vườn cây xanh, một hồ hình chữ nhật thả hoa sung. Cách một lối đi là hồ non bộ, vườn cảnh mô phỏng thiên nhiên sơn thủy hữu tình. Liền đó là sân tiền đường rộng lát gạch vuông màu đỏ, xung quanh là lối đi nối sang hai nhánh. Bên phải là 5 gian nhà khách thoáng mát với những cánh cửa gỗ chạm khắc hình nổi từng ô, rất kỳ công tạo thành những bức tranh ước lệ.

Du khách dừng chân trước tấm bảng giới thiệu lịch sử chùa Giám. Chỉ khoảng vài chục hàng chữ nhưng chứa đựng hàng trăm năm thời gian, ghi dấu biết bao công lao to lớn của danh y Tuệ Tĩnh và công đức của những người tạo dựng chùa từ bao đời đến nay.

Nguyên thủy của chùa Giám là Nghiêm Quang tự do sư Hải Triều trụ trì, vốn nằm trên nền đất trống phía đông huyện Cẩm Giàng. Chùa được xây dựng năm 1336 vào thời Lý, thời đó người ta dựng chùa chủ yếu bằng gỗ, chạm trổ hoa văn cầu kỳ, lợp ngói đỏ. Bởi vậy, khi ngôi chùa hình thành đã trở thành một công trình văn hóa nghệ thuật của Phật giáo thời bấy giờ và rất có giá trị về lịch sử, nghệ thuật với thời nay.

Do thời gian và ảnh hưởng của bom đạn chiến tranh nên ngôi chùa cổ đã bị xuống cấp nhiều. Tháng 4 năm 1970, chùa Giám chuyển về xã Cẩm Sơn hiện nay, cách mặt bằng cũ gần 7 cây số, được dựng lại nguyên kiến trúc cũ. Do các tượng và các vật liệu có giá trị văn hóa cần phải được bảo tồn nguyên dạng nên việc di chuyển tượng hoàn toàn bằng phương tiện thô sơ, rất công phu trong suốt ròng rã 7 tháng trời. Đến năm 1975 chùa Giám ở khu đất mới được hoàn chỉnh.

Trong chính điện có các tượng Phật Thích Ca và các vị Bồ tát, tượng Phật Đản Sinh, tượng Quan Âm Thị Kính và Thập Điện Diêm Vương. Trong nhà phẩm là tòa tháp Cửu phẩm Liên hoa bằng gỗ hình lục giác màu cánh sen có 9 tầng, mỗi tầng đều có 18 vị bồ tát bằng đồng ngự và 54 tầng cánh sen nổi, khắc những họa tiết sinh động. Có tất cả 145 pho tượng, duy nhất tượng Phật A Di Đà ngự tầng trên cùng, khách viếng chùa không thể chiêm ngưỡng gần mà chỉ bái vọng mà thôi.

Tòa Cửu phẩm liên hoa nặng 4 tấn, nếu đẩy sẽ xoay vòng tròn, là một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật bằng gỗ độc đáo nhất trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Riêng bức tượng đồng A Di Đà được đúc năm 1712 do Thái Phi Trương Thị Ngọc Chứ, Liễu Hạnh công chúa Hòa diệu đại vương Đức Bà đóng góp công đức. Năm 1717, chùa đúc tượng đồng Quan Âm thánh vị 24 tay và năm 1775 xây dựng điện Thiên Đế cũng do các cung tần và một số người khác thời ấy đóng góp công đức xây dựng....

Bên ngoài chính điện là 2 dãy hành làng có 11 gian thờ 18 vị La Hán. Hậu đường có 7 gian thờ Thiền Sư Tuệ Tĩnh và thờ sư Tổ.

Quan sát toàn cảnh kiến trúc chùa Giám, ta thấy các kiến trúc sư, các nghệ nhân đã tạo trên mặt bằng của chùa sự liên hoàn của các hạng mục tôn lên vẻ tráng lệ cổ kính, ẩn chứa nhiều tầng trí tuệ văn hóa. Ngôi nhà phẩm rộng 7,90 m2 cao trên 10m, khung nhà bằng gỗ, mái ngói vẩy cá rêu nâu đều đặn, 4 góc mái uốn cong hình đuôi rồng nổi rõ dưới nền trời vừa mềm mại vừa uy nghi. Bên trái là khu tháp Tổ màu xám trắng rêu phong, xung quanh xào xạc cây xanh bên vài cây cau cao thanh cảnh. Từ nhà Tăng đến dãy nhà khách, nhà thọ trai đều được được xây cất với một phong cách rất riêng của kiến trúc Việt Nam. Bụi lá trầu không cuốn quýt cây cau xanh ngả chùm quả như muốn níu bàn tay lá trầu. Cây hồng xiêm nặng cành, các loại hoa thơm quanh vườn tỏa hương bốn mùa. Bên nhà Nghè, cây đa cổ thụ xòe tán rộng.

Ngày 13/2 âm lịch hàng năm, chùa Giám tổ chức lễ hội rước tượng Tuệ Tĩnh. Ban lễ nghi lần lượt thực hiện từng phần trong lễ rước: Rước hoa và múa lân rồng, biểu diễn thể thao, rước hồng kỳ, đi sau là đội trống, đội siêu đao – chấp kích – bát bửu, rước kiệu thuốc nam, đoàn tế nam, nối bước là đoàn tế nữ, tiếp theo là đoàn cung nghinh kiệu Tuệ Tĩnh, tượng của Ngài được đặt trên đòn bát cống, có lọng che hai bên rất long trọng, cuối cùng là đoàn chư tăng, chư ni với Pháp phục và các Phật tử cùng các bô lão và những người con quê hương Hải Dương dù làm ăn ở đâu, học sinh, sinh viên, học ở các tỉnh thành khác, kiều bào các nơi đều nhớ ngày lễ hội về tham dự.

Thiền sư, Đại danh y Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, ra đời trong một gia đình bần nông tại huyện Dạ Cẩm, Hồng Châu (là huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương ngày nay), dưới triều Trần Dụ Tông cuối thế kỷ XIV. Mới 6 tuổi, cậu bé Nguyễn Bá Tĩnh đã mồ côi cha mẹ, được sư thầy Hải Triều đón về chùa nuôi gọi là Tiểu Huệ, nhưng thường ngày sư thầy và các Phật tử quen thân gọi là Huệ Tĩnh, pháp danh là Tuệ Tĩnh.

Sư thầy thấy Tuệ Tĩnh có một đức tính căn bản là thông minh, học giỏi, tướng mạo đĩnh đạc, võ nghệ tinh thông, cặp mắt từ bi như Phật nên đã dạy dỗ, cho học văn, học làm thuốc tại chùa để chữa bệnh cho người nghèo. Năm Tân Mão 1351, ông đỗ Hoàng giáp lúc đó 22 tuổi, được triều đình trọng dụng phong chức Bình Tây tướng quân, đi chinh chiến ở Chiêm Thành. Nhưng sau đó ông từ quan trở lại nghề ban đầu là làm thuốc và tiếp tục sự nghiệp cho đến hết đời.

Quá trình nghiên cứu, Tuệ Tĩnh phát hiện nhiều cây thuốc quý đưa vào nền y học dân tộc cổ truyền. Ông cũng phát tâm đóng góp sửa chữa và xây dựng 24 ngôi chùa khác, gây dựng các cơ sở khám chữa bệnh tại những ngôi chùa này.

Trên 3 thập kỷ nghiên cứu và chữa bệnh bằng thuốc nam, Tuệ Tĩnh đã biên soạn hai bộ sách chuyên về nam dược có tên “Nam dược thần hiệu” và “Hồng Nghĩa y thư”. Những bài thuốc của Tuệ Tĩnh chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo.

Là một thầy thuốc giỏi nên năm Giáp Tý (1384), ông được vua Trần cử sang sứ nhà Minh ở Trung Quốc. Tại đây, Tuệ Tĩnh chữa khỏi bệnh cho vợ nhà vua đã được tôn vinh là Đại y Thiền sư và giữ lại không cho về.

Sống trên xứ người, ông nhớ quê hương da diết, vẫn giữ tâm đạo y, thực hiện hạnh Bồ Đề của nhà Phật chữa nhiều bệnh nan y cho dân Trung Quốc, và không quên nghĩa vụ đóng góp với nền y học nước nhà, vừa hành nghề chữa bệnh cho dân bản địa ông vừa miệt mài viết sách. Những đề tài nghiên cứu của Tuệ Tĩnh vẫn lưu truyền ở Trung Quốc, cho đến nay vẫn chưa khai thác hết. Và, ngày 15/2 (âm lịch) năm 1400 Đại y Thiền sư Tuệ Tĩnh đã viên tịch tại Giang Nam – Trung Quốc.

Năm 1690 (tức 300 năm sau) trong một lần Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho sang nhà Thanh tìm viếng mộ Tuệ Tĩnh thì phát hiện phía sau tấm bia mộ có khắc hàng chữ: “Về sau có ai bên nước sang, nhớ cho hài cốt tôi về quê với”. Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho vô cùng xúc động nên cho dập mẫu bia mang về nước, thuê thợ làm lại và chở về Hải Dương là nơi chôn rau cắt rốn của Đại y Thiền sư Tuệ Tĩnh. Nhân dân vô cùng thương quý và cảm động đã cùng nhau lập miếu thờ, người người, nhà nhà đến lễ lạy và phát triển thành đền thờ. Dân địa phương thường gọi là Đền Bia.

Tại tỉnh Hải Dương hiện có ba nơi thờ danh y Tuệ Tĩnh, đó là đền Xưa, đền Bia và chùa Giám, đều là những di tích lịch sử.


................Vẫn còn nhiều đang chờ cập nhật mới.................
 
Chỉnh sửa lần cuối:

caosonhd

BĐH HD Hải Dương
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

CÁC ĐỊA DANH NỔI TIẾNG TRÊN ĐẤT HẢI DƯƠNG

1- Làng Mộ Trạch - Làng Tiến Sĩ

LangMoTrach.jpg


Làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương theo truyền thuyết được Vũ Hồn (804-853) lập ra với tên ban đầu mang đầy niềm hy vọng là Khả Mộ trang. Hơn ngàn năm trước (khoảng trước năm 825), cả khu vực quanh thôn đều gọi là làng Chằm (nghĩa là một vùng đất trũng). Làng này vốn có tên là làng Chằm Thượng, hai làng bên là Chằm Hạ và Chằm Trung (sau gọi là Nhuận Đông, Nhuận Tây, hay còn gọi là Hạ Trong, Hạ Ngoài).
Truyền thuyết kể lại rằng Vũ Hồn cho nơi này là đất có phong thuỷ tốt, giữ làng này làm nguyên quán thì đời đời sẽ tiến phát về đường khoa bảng. Dưới con mắt của nhà phong thủy tài ba, Vũ Hồn cho rằng cả vùng Hải Dương là một đại cuộc, huyện Đường An là huyệt trường và làng Chằm Thượng là huyệt kết. Vì vậy ông quyết định cắm đất lập trại và đặt tên làng là Khả Mộ. Nghĩa là vùng đất khi đó còn cằn cỗi nghèo nàn nhưng có thể sau này sẽ trở nên trù phú hơn và sẽ được mến mộ. Mãi đến sau này, vào khoảng triều nhà Trần (1226-1400) mới đổi tên là Mộ Trạch. Nghĩa là vùng đất được mến mộ.

Truyền thống khoa bảng của làng Mộ Trạch

Vào thời điểm đó, làng Mộ Trạch đã trở nên đông đúc và đã phát tích khoa bảng rực rỡ, trong khoảng thời gian của triều Lê (1428-1789) thì làng Mộ Trạch đã có đến 36 vị đỗ tiến sĩ, mấy chục vị khác đỗ hương cống, cử nhân, sinh đồ, tú tài; nhiều vị đảm đương các chức vị cao trong triều đình đương thời. Có gia đình mấy anh em cùng đỗ đại khoa; có chi họ, như chi họ Vũ Khắc đã đời nối đời đỗ đạt. Từ đó, tên làng Mộ Trạch đã tồn tại suốt gần tám trăm năm, cho đến ngày nay.

Danh sách tiến sĩ

Trong số 36 vị đỗ đại khoa của làng Mộ Trạch liệt kê dưới đây, họ Vũ chiếm đa số tuyệt đối với 9 hoàng giáp và 20 tiến sĩ. Trong khi đó họ Lê có 1 trạng nguyên, 2 hoàng giáp và 1 tiến sĩ.
1. Vũ Đức Lâm, Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm 1448
2. Vũ Hữu, Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (tức Hoàng giáp) năm 1463, tác giả của Lập thành toán pháp
3. Vũ Ứng Khang, hoàng giáp năm 1472
4. Vũ Quỳnh, hoàng giáp năm 1478, người hiệu đính sách Lĩnh Nam chích quái.
5. Vũ Đôn, hoàng giáp năm 1487.
6. Vũ Tụ, hoàng giáp năm 1493.
7. Vũ Thuận Trinh, hoàng giáp năm 1499.
8. Vũ Cán, hoàng giáp năm 1502, tác giả của Tùng Hiên thi tập và Tùng Hiên văn tập
9. Lê Nại, trạng nguyên năm 1505.
10. Lê Tư, hoàng giáp năm 1511.
11. Vũ Lân Chỉ, tiến sĩ năm 1520.
12. Lê Quang Bí, hoàng giáp năm 1526.
13. Nhữ Mậu Tổ, tiến sĩ năm 1526.
14. Nhữ Mậu Tô, tiến sĩ năm 1526.
15. Vũ Tĩnh, tiến sĩ năm 1562 (nhà Mạc).
16. Vũ Đường, tiến sĩ năm 1565 (nhà Mạc)
17. Vũ Bạt Tụy, hoàng giáp năm 1634.
18. Vũ Lương, tiến sĩ năm 1643.
19. Vũ Trác Oánh, tiến sĩ năm 1656.
20. Vũ Đăng Long, tiến sĩ năm 1656.
21. Vũ Công Lượng, tiến sĩ năm 1656.
22. Vũ Cầu Hối, tiến sĩ năm 1659.
23. Vũ Bật Hài, tiến sĩ năm 1659.
24. Vũ Công Đạo, tiến sĩ năm 1659.
25. Lê Công Triều, tiến sĩ năm 1659.
26. Vũ Duy Đoán, tiến sĩ năm 1664.
27. Vũ Công Bình, tiến sĩ năm 1664.
28. Vũ Đình Lâm, hoàng giáp năm 1670.
29. Vũ Duy Khuông, tiến sĩ năm 1670.
30. Vũ Đình Thiều, tiến sĩ năm 1680.
31. Vũ Trọng Trình, tiến sĩ năm 1685.
32. Nguyễn Thường Thịnh, tiến sĩ năm 1703.
33. Vũ Đình Ân, tiến sĩ năm 1712.
34. Vũ Huyên, tiến sĩ năm 1712 (trạng cờ).
35. Vũ Phương Đề, tiến sĩ năm 1736, tác giả Công dư tiệp kí
36. Vũ Huy Đỉnh, tiến sĩ năm 1754.

2- Khu du lịch sinh thái Đảo Cò - Chi Lăng Nam - Thanh Miện


DSCF8085a.jpg


Vị trí:

Nằm giữa lòng hồ An Dương, thuộc địa bàn xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

Đặc điểm:

Đảo Cò Chi Lăng Nam đã trở thành điểm du lịch sinh thái "độc nhất vô nhị" của miền Bắc.

Đến Đảo Cò vào những ngày đất trời lập đông, ấn tượng đầu tiên là cảm giác choáng ngợp trước một cảnh tượng thiên nhiên hy hữu. Hàng vạn chú cò, vạc đậu san sát trên các ngọn tre, cành cây, trông xa như những cành hoa điểm đầy bông trắng.
Người dân Chi Lăng Nam vẫn truyền cho nhau nghe về truyền thuyết vùng đất này. Truyện kể rằng vào đầu thế kỷ 15, những trận đại hồng thuỷ đã làm dải đê lớn ven sông Hồng trải qua 3 lần vỡ đê liên tiếp. Đến lần vỡ đê thứ hai thì tạo thành hòn đảo nổi giữa hồ. Rồi "đất lành chim đậu", từng đàn cò, vạc, chim nước đủ loại từ khắp nơi đổ về đây cư trú. Theo nhịp thời gian, cò, vạc sống trên đảo ngày càng đông về số lượng cá thể và đa dạng về thành phần loài. Hiện nay, với diện tích hơn 3.000m2, đảo Cò đã tập trung tới 15.000 con cò và hơn 5.000 con vạc.

Cứ vào mùa gió heo may, khách du lịch lại đến với đảo Cò để được thoả mắt ngắm nhìn những chú cò. Cả một đảo với những chú cò trắng muốt mang đến cho người xem một sự vui thích thực sự. Cò bay về làm tổ từ tháng 9 cho đến tận tháng 4 rồi đi, và những ngày này, khách du lịch càng thích thú hơn khi được ngắm những chú cò con vừa mới sinh ra đời, đôi chân vẫn còn chưa vững khi đứng trên những cành tre mềm mại. Sáng sớm và chiều tối là khoảng thời gian nhộn nhịp nhất của đảo Cò. Đó là lúc cò bay đi kiếm ăn và kéo về tổ để nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả.

Những chú cò bay kín cả mặt hồ, bay kín cả đảo, những chiếc cánh trắng muốt trao lượn tạo nên một khung cảnh thật tuyệt vời nhưng cũng thật hoang dã. Tiếng kêu của chúng vang xa, lúc trầm lúc bổng tạo thành một bản hoà tấu tuyệt vời như để khởi động một ngày mới hoặc kết thúc một ngày làm việc mệt mỏi.
Du khách đến đảo Cò vào mùa cò về chỉ cần đi một ngày là có thể thăm quan hết đảo. Một chiếc xuồng cỡ nhỏ để không làm náo động không gian sống của cò sẽ chầm chậm đưa du khách đi vòng quanh hồ và ngắm cuộc sống của những chú cò. Nhưng nếu du khách muốn quan sát cuộc sống của cò một cách tỉ mỉ thì hãy ở một đêm bên đảo Cò. Đêm lúc 9-10h tối là lúc cò về nhiều nhất, sự đoàn tụ gia đình cũng bắt đầu từ lúc này cho đến sáng hôm sau. Lúc ấy du khách sẽ có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu cuộc sống của những chú cò trên đảo và sẽ phải ngỡ ngàng vì phát hiện: cùng với cò, vạc, trên đảo còn có vô số loài chim nước khác như: chim chả, bói cá, cuốc, cú mèo. Riêng trong tập đoàn cò, vạc cũng có vô số loài khác nhau. Được biết, hiện hòn đảo tập trung 7 loại cò (cò trắng, cò ruồi, cò nghênh, cò ngang, cò bợ, cò diệc, cò lửa) và 3 loài vạc (vạc lưng xanh, vạc xám, vạc sao).

Dưới tiết trời heo may, được thả mình vào khung cảnh vẫn còn mang đậm vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên thì thật là tuyệt. Đảo Cò thực sự sẽ mang đến cho du khách những khoảng khắc sống cùng thiên nhiên.

Còn đây là phóng sự của Đài truyền hình Hải Dương tìm hiểu về Đảo Cò:

[video=youtube;RWl4vcSt6Cs]http://www.youtube.com/watch?v=RWl4vcSt6Cs&feature=youtu.be[/video]

Còn đây là phóng sự của Báo mạng Media của trang An ninh Thủ Đô nói về Đảo Cò:

[video=youtube;wc0k4yXl-ds]http://www.youtube.com/watch?v=wc0k4yXl-ds&feature=youtu.be[/video]

3- Sân Golf Ngôi Sao - Chí Linh

SanGolfChiLinh2.jpg


Nằm ở thị trấn Sao Đỏ, huyện Chí Linh, Hải Dương, cách 48km đường chim bay từ Hà Nội, trên đường tới vịnh Hạ Long. Nằm ngay vị trí trung tâm tam giác phát triển kinh tế du lịch phía Bắc, sân golf Chí Linh được đánh giá là một sân golf hàng đầu không chỉ tại Việt Nam mà cả vùng Đông Nam Á. Câu lạc bộ golf Ngôi Sao Chí Linh đã nhanh chóng trở thành một điểm sáng du lịch, trung tâm thể thao, vui chơi, nghỉ dưỡng, xúc tiến đầu tư... cao cấp của cả vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
Trải rộng trên diện tích 325 ha trong lòng một thung lũng tuyệt đẹp với một hồ nước tự nhiên nép mình bên những dải đồi xanh hùng vĩ bao quanh, sân golf Ngôi Sao Chí Linh được xây dựng 36 lỗ theo tiêu chuẩn quốc tế AAA. Những thảm cỏ xanh được chăm sóc, xén tỉa mỗi ngày, những con đường nhỏ uốn mình vòng quanh mép hồ, các rặng cây, các dốc thoải ven đồi, là điểm dừng chân với những quán nhỏ đơn sơ nép mình trong tán cây thơ mộng...

Ẩn hiện trong khung cảnh thơ mộng ấy là 36 hố golf được bố trí khoa học với các bẫy cát kín đáo sẵn sàng "bẫy" ngay cả các nhà chơi golf chuyên nghiệp. Điểm cao nhất của sân golf Ngôi sao Chí Linh chính là nhà Câu lạc bộ. Tòa nhà tròn với thiết kế độc đáo, toàn bộ hệ thống cửa và tường bao được xây dựng bằng kính trong suốt cho phép du khách và khán giả có thể chiêm ngưỡng phần lớn diện tích sân với 28/36 hố golf.

Sân golf được xây dựng với khẩu hiệu đặt ra: "Nơi tốt nhất để chơi golf". Phần lớn các công nghệ tiên tiến nhất, vật liệu xây dựng hàng đầu thế giới đã được sử dụng tại đây. Chẳng hạn: các loại cỏ Turf chuyên dụng - loại cỏ tốt nhất dùng cho sân golf - được nhập khẩu từ Úc để sử dụng tại đây; hệ thống tưới linh hoạt điều khiển bằng máy tính của hãng Rainbird được nhập khẩu từ Mỹ, các loại thiết bị bảo dưỡng sân golf hàng đầu thế giới của hãng Toro được nhập khẩu từ Mỹ... Sân golf này do IGCS - một công ty hàng đầu của Úc thiết kế và xây dựng theo tiêu chuẩn golf quốc tế chuyên nghiệp nhưng đồng thời vẫn tạo dựng, gìn giữ, và khai thác tối đa các vẻ đẹp tự nhiên của thiên nhiên. Đội ngũ điều hành sân golf có cả các nhà chơi golf chuyên nghiệp nước ngoài, đem theo kinh nghiệm quản lý và phát triển golf đến nắm giữ các vị trí điều hành chủ chốt. Nhờ thế, sân golf Ngôi sao Chí Linh cũng là một sân golf của Việt Nam được quản lý một cách chuẩn mực, tạo được sự hài lòng, sự đánh giá cao nhất từ những khách chơi golf hay khách tham quan...

Bên cạnh đó sân golf Ngôi sao Chí Linh cũng đồng thời trở thành một điểm đến lý tưởng của du lịch golf, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch từ các nước Đông Nam Á và thế giới đến đánh golf và tham quan. Câu lạc bộ golf Ngôi sao Chí Linh có khách sạn với 90 phòng, 300 biệt thự sinh thái, bể bơi, sân tennis, các công trình phụ trợ...

4- Cụm di tích - Đền An Phụ - Kinh Môn


TuongTranHungDao.jpg


Cụm di tích An Phụ hiện nay thuộc xã An Sinh, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, cách thành phố Hải Dương hơn 30 km về phía đông. Quý khách hành hương theo đường bộ như đường 5, 18, 186, 189 và đường thuỷ theo các tuyến sông Thái Bình, Kinh Thầy đều có thể chiêm ngưỡng và đến di tích một cách thuận tiện.

Cụm di tích An Phụ gồm các công trình và dấu tích :

- Đỉnh núi An Phụ - ngọn phía nam là Đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu, tục gọi là đền Cao, văn bia gọi là An Phụ Sinh Từ (Trần Liễu là thân phụ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, sinh năm Kiến Gia thứ nhất (1211), mất tháng tư, năm nguyên Phong thứ nhất (5 -1251), thọ 41 tuổi. Sau khi mất ông được lập đền thờ trên núi An Phụ. Kỷ niệm ngày mất của ông (1 - 4 âm lịch) trở thành ngày hội của đền Cao.

Khu quần thể gồm có:

- Chùa Tường Vân cổ kính, tục gọi là chùa Cao, xung quanh con nhiều cây cổ 600 - 700 năm tuổi.

- Giếng Ngọc trước chùa ở độ cao 230 mét vẫn đầy nước, quanh năm trong mát ...

- Bàn cờ tiên ở phía đông chùa Cao với nhiều sự tích ...

- Trụ Kinh Thiên (trụ đá chọc trời),

- Tượng đài Trần Hưng Đạo ở độ cao 200 mét, thấp hơn đền An Phụ Sinh Từ 50m, một công trình tượng đài anh hùng dân tộc hoành tráng, điển hỉnh của nước ta cuối thế kỷ 20.

- Đình Huề Trì (phía tây nam núi An Phụ) nơi thờ Thiện Nhân, Thiện Khánh (nữ tướng của Hai Bà Trưng).

Dãy núi An Phụ có chiều dài 17 km, đỉnh cao nhất An phụ cao 246 mét, có nhiều đỉnh nhỏ và những khe đèo đã được dân gian đưa vào thơ ca và thêu dệt lại nhiều sự tích. Trên đỉnh dãy núi cao xanh thẫm nổi lên như một chóp nón khổng lồ - đó là cụm di tích An Phụ. Đỉnh núi chia làm 2 ngọn nhỏ : Ngọn phia nam có đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu ( là thân phụ của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn "1228-1300", người con trung hiếu, người anh hùng dân tộc, văn võ song toàn, lập chiến công hiển hách, 3 lần kháng chiến thắng quân Nguyên Mông), tục gọi là đền Cao, còn văn bia gọi là An Phụ Sơn Từ. Khoảng giữa 2 dãy núi là chùa Tường Vân cổ kính, tục gọi là chùa Cao. Bên chùa còn trụ đá Kinh Thiên (Trụ đá chọc trời), trước chùa có một giếng nước, nước luôn đầy và trong mát quanh năm. Cách chùa 100 mét về phía đông, có một khoảng đất bằng phẳng, xung quanh kè đá gọi là bàn cờ tiên. Xung quanh đền và chùa vẫn còn một số cây cảnh cổ xanh tốt, đặc biệt còn một số cây Đại có 700 năm tuổi, chứng minh cho sự trường tồn của di tích.

An Phụ có hai nhánh kéo dài : Phía đông đến tận phố An Lưu, trụ sở của Huyện Kinh Môn, phía tây kéo dài tới sông Kinh Thầy, đối diện với núi cả của Chí Linh, tạo thành một phòng tuyến tự nhiên, vững chắc, bảo vệ từ xa cho Kinh Thành. Cũng vì thế mà từ thế kỷ 15 trụ sở của sứ đông đặt tại Mặc Động, bên núi Cả để chế ngự miền Đông Bắc và cửa khẩu tại bến Vạn.

An Phụ là dãy núi đất pha sa thạch và sỏi kết, thoai thoải dễ leo, có thể lên từ bất cứ hướng nào. Phía đông có 4 khe nhỏ : Khe Gạo, Khe Tài, Khe Đá, Khe Lim. Xưa rừng có nhiều gỗ quý như Lim, Tùng, Bách.. Hiện nay rừng đã được trồng lại với nhiều loại cây ăn quả, lấy gỗ và khai thác nhựa ...

Từ đỉnh An Phụ nhìn về đông bắc, xa xa đỉnh Yên Tử cao ngất, quanh năm mây phủ, nó như nóc nhà miền đông bắc, nơi bảo lưu nhiều di tích lịch sử thời Trần, chốn Phật tổ của thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Gần hơn là dãy núi đá vôi Dương Nham(Kính Chủ) như hòn non bộ khổng lồ giữa bể cạn mênh mông sóng lúa. Tây Bắc Dương Nham, dòng sông Kinh Thầy lượn gần chân núi tạo nên cảnh sơn thủy hũu tình và cũng là con đường thủy giao thông thuận tiẹn. Phía tây giáp đường liên huyện và một làng quê có tên Kính Chủ, quê hương của những người xứ Đông. Nếu Dương Nham và dòng sông Kinh Thầy là cảnh đẹp tự nhiên thì làng Kính Chủ là một công trình nhân tạo làm cho phong cảnh ở đây sinh động và hoàn thiện.

Từ đỉnh An Phụ nhìn về phia nam, dưới chân núi là các xã An Phụ, Thượng Quận ...những làng quê yên ả, đồng ruộng trù phú, cây trái xanh tươi và sông Kinh Thầy đỏ nặng phù sa, uốn lượn như dải lụa hồng đang lặng trồi bồi đắp cho vùng duyên hải ... ; bên kia sông là xã Kim Xuyên, huyện Kim Thành có đường 5 nối Hà Nội với Hải Phòng chạy qua xã, với hơn 3km đường chim bay là đến cụm di tích An Phụ.

Từ An Phụ nhìn về phía tây nam là miền châu thổ bát ngát, sóng lúa nhấp nhô, sông ngòi uốn lượn nối tiếp nhau, đan xen làng xóm, trang trại xanh tươi, tạo nên bức tranh màu rực rỡ. Cách chân núi không xa là đình Huề Trì, nơi thờ Thiện Nhân, Thiện Khánh(nữ tướng của Hai Bà Trưng). Đây còn là một công trình kiến trúc cỡ lớn và độc đáo, có bình diện gần như vuông khép kín với diện tích gần 640m2, tại Huề trì là trị sở của phủ Kinh Môn từ thời Minh Mệnh (1820 - 1840) cai quản 7 huyện phía đông tỉnh : Đông Triều, Thủy Đường (Thủy Nguyên), Nghi Dương, An Dương, Kim Thành, An Lão, Giáp Sơn (Hiệp Sơn). Như vậy Phủ Kinh Môn cũ bao gồm hầu hết thành phố Hải Phong, huyện Đông Triều và Kinh Môn hiên nay.

Từ nhiều thế kỷ trước, sử sách đã từng ghi "Các núi An Phụ, Thiên Kỳ, Kính Chủ... đều là những cảnh đẹp đáng du ngoạn". Nay cảnh quan đã khác xưa, nhưng là nơi có nhiều di tích cần thăm quan nghiên cưu. Du khách đến An Phụ không chỉ là một cuộc tham quan di tích lịch sử và danh thắng mà còn la một cuộc đi thể thao bổ ích. Trên đường du lịch đến Cụm di tích An Phụ, khách nhớ đến thăm động Kính Chủ và đình Huề Trì, những di tích tiêu biểu của một vùng văn hóa tỉnh Hải Dương.

5- Văn Miếu - Mao Điền:

Văn miếu Mao Điền là một trong số ít văn miếu còn tồn tại ở Việt Nam. Nguyên được lập ra để tổ chức các kỳ thi Hương của trấn Hải Dương xưa nhưng vào thời nhà Mạc đã được bốn lần tổ chức thi đại khoa. Văn miếu Mao Điền ở tại làng Mậu Tài, X. Cẩm Điền, H. Cẩm Giàng, T. Hải Dương; hiện tại nằm ngay cạnh đường QL 5 từ Hà Nội đi Hải Phòng.
Tên gọi:Địa danh Mao Điền theo văn bia ghi lại mang ý nghĩa : Mao là cỏ lau, Điền là ruộng cấy. Như vậy, từ xa xưa Mao Điền là một vùng đất bằng phẳng có nhiều cỏ lau.

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Văn miếu Mao Điền được lập ra để thờ Khổng Tử và các bậc đại nho theo truyền thống của Việt Nam, Trung Quốc và một số nước Đông Á khác. Về mặt kiến trúc, Văn miếu Mao Điền qua các thời kỳ chiến tranh đã bị hủy hoại nặng nề. Đến nay, đã được T. Hải Dương trùng tu tôn tạo phần lớn. Là vùng “địa linh nhân kiệt”, người Hải Dương vẫn luôn tự hào về truyền thống hiếu học và truyền thống tôn sư trọng đạo của mình. Một trong những công trình có ý nghĩa, nơi hội tụ những tinh hoa văn hoá giáo dục của tỉnh Đông hàng mấy trăm năm trước, chính là Văn Miếu Mao Điền – trường học, trường thi đầu tiên của trấn Hải Dương xưa.

ĐỊA LINH – ĐẤT HỌC

Nằm trên QL 5, cách TP Hải Dương15 km, Văn Miếu Mao Điền là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia được xếp hạng. Trong hệ thống văn miếu của cả nước thì Văn Miếu Mao Điền có quy mô và lịch sử lâu đời đứng thứ 2, chỉ sau Văn Miếu Quốc Tử Giám.

Từ giữa thế kỷ thứ XV, với chủ trương mở mang việc học hành và đào tạo nho sĩ, quan lại…nhà Lê đã cho xây dựng một loạt những trường học (trường quốc lập), trong đó có Văn Miếu Mao Điền. Nơi đây xưa, thuộc tổng Mao Điền, phủ Bình Giang, trấn Hải Dương. Nay thuộc thôn Mao Điền, X. Cẩm Điền, H. Cẩm Giàng, T. Hải Dương. Ngay từ khi mới xây dựng, Văn Miếu đã là một công trình kiến trúc văn hóa bề thế, uy nghi. Phần chính gồm hai toà nhà lớn 7 gian, mái cong vút, chạm trổ hình rồng , phượng…, áp sát vào nhau. Nhà trong thờ Khổng Tử- ông tổ của nho học. Nhà ngoài là nơi tụ hội bái lễ của các bậc quan trường học giả. Hai bên là hai dãy nhà giải vũ 5 gian đối diện nhau, do nằm ở hai hướng đông và tây nên người dân nơi đây vẫn quen gọi là nhà Đông vu, Tây vu. Tiếp đến là hai gác chuông xây cất rất hoành tráng. Phía trước là hai hồ nước trong xanh in bóng cây gạo già hàng trăm năm tuổi. Xung quanh là bạt ngàn các loại cây cảnh, cây ăn quả ôm lấy Văn Miếu càng tôn thêm vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch, dịu mát, êm đềm của khu di tích, du lịch nổi tiếng xứ đông.

Xưa kia Hải Dương nằm ở phía đông kinh thành nên gọi là xứ Đông, đây là vùng “đất học” vì thế triều Lê đã coi đây là một trong những trung tâm văn hoá giáo dục của cả nước, tiến hành tổ chức nhiều kỳ thi hội. Hàng năm đến kỳ thi, sĩ tử ở khắp nơi tề tựu về đây dựng lều chõng kín khắp cả khu cánh đồng Tràn phía trước. Trong số các sĩ tử đó có nhiều người là con dân của Hải Dương đã tham dự và hiển đạt từ chính nơi đây. Trong đó có cả danh sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm, người mà trí tuệ và nhân cách đã toả sáng suốt bao thế kỷ. Như vậy, trong quá trình tồn tại, Văn Miếu Mao Điền từ vị trí là trường học của riêng trấn Hải Dương đã trở thành trường thi của cả vùng, góp phần giáo dục và đào tạo nhân tài cho địa phương và cho cả giang sơn X. tắc. Nơi đây còn nhiều dấu tích của các sĩ tử, danh nhân đã chiếm bảng vàng trạng nguyên trong kỳ thi ở cấp cao hơn. Nhiều người đã vinh hiển đã trở về thăm lại trường học xưa, xúc động viết lên những bài thơ còn in lại trên các bia đá cổ. Năm 1948 giặc Pháp đánh chiếm Mao Điền, chúng biến Văn Miếu thành khu căn cứ chiếm đóng, phá nhà, xây lô cốt, tường rào kẽm gai xung quanh, tiến hành tàn sát, chém giết những người dân vô tội. Đạn bom và những năm tháng chiến tranh đã tàn phá di tích nặng nề. Từ một di tích lịch sử có thắng cảnh đẹp, Văn Miếu trở thành một nơi hoang phế. Trận bão năm 1973 đã đánh sập 5 gian nhà Giải vũ – Tây vu. Năm 1992, Bộ VHTT đã ra Quyết định số 97/QĐ-VH xếp hạng Văn miếu Mao Điền là di tích lịch sử Quốc gia. Ngày 22/03/1995, đoàn cán bộ khổng miếu Trung Quốc, do ông Khổng Tường Lâm, cháu 75 đời của Khổng Tử, giám đốc Bảo tàng Khổng Miếu dẫn đầu tới thăm Văn miếu Mao Điền. Ông thực sự xúc động khi nghe giới thiệu về lịch sử Văn miếu và truyền thống hiếu học của các thế hệ người Hải Dương. Từ khi được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia, việc trùng tu Văn miếu Mao Điền được đẩy mamh :
- Năm 1994 tu bổ Bái đường, hậu cung.
- Năm 1995 khôi phục Nghi môn.
- Năm 1999 và 2001 tiếp tục tu bổ Hậu cung Đông vu và khôi phục Tây vu.
- Ngày 26/06/2002, UBND tỉnh Hải Dương đã tổ chức lễ khởi công thực hiện dự án trùng tu tôn tạo di tích với quy mô lớn.
Từ sau ngày khánh thành tu bổ tôn tạo (20/04/2004), Văn miếu Mao Điền đã thu hút hàng vạn lượt khách tham quan hoc tập. Trong đó có nhiều đoàn cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Bộ, ngành Trung ương, nhiều đoàn khách nước ngoài và chục vạn lượt khách trong nước về dự lễ hội và tìm hiểu thân thế sự nghiệp của các danh nhân, các anh hùng.
Giờ đây nhìn lại diện mạo rạng rỡ của Văn Miếu, mỗi người dân đều phấn chấn, tự hào. Nền văn hiến ngàn đời của xứ Đông, trung tâm truyền thống văn hoá giáo dục của cả vùng đã được khôi phục.

NHÂN KIỆT

Nơi đây đã đào tạo hàng ngàn cử nhân, tiến sỹ Nho học đứng vào hàng đầu cả nước. Nếu chỉ tính số người đỗ Đại khoa trong 185 kỳ thi (từ 1075 – 1919), cả nước có 2.898 tiến sĩ thì trấn Hải Dương có 637 vị, trong số 46 Trạng Nguyên, Hải Dương có 12 người. Đặc biệt là Hải Dương còn có “Lò tiến sỹ xứ Đông” thuộc thôn Mộ Trạch, X. Tân Hồng, H. Bình Giang. Tại đây có 39 vị tiến sỹ Nho học qua các thời kỳ lịch sử. Sau khi đỗ đạt, hầu hết các vị Đại khoa đều mang hết tài năng của mình để xây dựng đất nước.

Đây là một việc làm sáng tạo thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Ngày nay, Văn miếu không chỉ thờ Khổng Tử mà còn phối thờ thêm 8 vị Đại khoa tiêu biểu cho các lĩnh vực và thời đại (trong đó có 7 vị là người Hải Dương):
1- Nhà giáo Chu Văn An.
2- Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi (thời Trần, thế kỷ XIII-XIV).
3- Danh nhân văn hoá thế giới, Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi (thời Lê Sơ, thế kỷ XV).
4- Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm (thời Mạc, Thế kỷ XVI).
5- Đại danh y, Thiền sư Tuệ Tĩnh.
6- Nhập nội hành khiển Phạm Sư Mệnh (thời Trần, thế kỷ XIII- XIV).
7- Thần toán Vũ Hữu (thời Lê Sơ, thế kỷ XV).
8- Nghi Ái quan, tiến sỹ Nguyễn Thị Duệ (thời Mạc, thế kỷ XVI).

Để đẩy mạnh “khuyến học, khuyến tài”, UBND T. Hải Dương đã giao cho Sở GD – ĐT kết hợp với Bảo tàng Hải Dương xây dựng nhà truyền thống tại di tích nhằm tôn vinh sự nghiệp Giáo dục đào tạo trong thời kỳ đổi mới. Văn miếu Mao Điền chắc chắn sẽ là địa chỉ du lịch hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước về thăm T. Hải Dương.

LỄ HỘI

Hàng năm, cứ đến tháng 2 âm lịch (từ 15 đến 18) lễ hội Mao Điền lại diễn ra; những người con của quê hương ở khắp nơi lại tề tựu về đây dự lễ hội, báo công, dâng hương tưởng nhớ các bậc danh nhân, tiên hiền của đất nước; chiêm ngưỡng vẻ lộng lẫy uy nghi của một di tích văn hoá như một toà thành cổ mọc lên giữa cánh đồng lúa xanh bạt ngàn của Văn miếu; chắp tay đứng trước các vị vạn thế sư biểu: Khổng Tử, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…lòng càng thêm thành kính khâm phục, quyết tâm noi theo các bậc tiên hiền, tự rèn luyện, học hỏi để trở thành những người con hữu dụng của quê hương, đất nước.
Không khí tưng bừng mà trang nghiêm. Ngày xưa những dịp như thế này quan tổng trấn về được rước từ đường lớn vào Văn Miếu, trên đầu che lọng vàng lộng lẫy. Các nho sĩ khoa bảng, cùng nhân dân khắp nơi kéo về dự. Truyền thống ấy còn giữ gìn tới ngày nay. Chẳng những người Mao Điền, Cẩm Giàng mà khắp vùng, khách thập phương hân hoan đón chờ ngày lễ.

LỜI BÀN

Văn Miếu – Mao Điền là một trong số ít Văn Miếu còn tồn tại cho đến ngày nay và có quy mô, lịch sử lâu đời chỉ sau Văn Miếu Quốc Tử Giám. Hải Dương là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nổi tiếng với truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo, trong đó Văn Miếu Mao Điền chính là nơi hội tụ những tinh hoa văn hóa giáo dục của T. hàng mấy trăm năm trước, là trường học, trường thi đầu tiên của trấn Hải Dương xưa. Văn Miếu Mao Điền vừa được tu bổ, con đường riêng rẽ vào Văn Miếu rộng thênh thang, đủ để tách biệt nơi đây với đường QL 5 ồn ào, khiến không gian thật yên tĩnh và trong lành. Qua cổng lớn, hiện lên trước mắt chúng tôi một không gian mênh mông và đẹp lạ kì. Đó là hai hồ nước xanh ngát có cây cầu trắng bắc ngang, là cây gạo cổ thụ từ lâu đời in bóng, là hai dãy nhà Giải Vũ năm gian đối diện nhau, là hai gác chuông cổ kính và bạt ngàn các loại cây ăn quả, tạo cho Văn Miếu Mao Điền một vẻ trang nghiêm nhưng cũng rất đỗi dịu mát, êm đềm. Khi đứng trước ban thờ Khổng Tử và các bậc đại nho Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Nguyên Bỉnh Khiêm… Có thể nói Văn Miếu Mao Điền là 1 di tích văn hóa mang ý nghĩa sâu sắc và có tầm vóc lớn, như 1 tòa thành uy nghi được bao bọc bởi những đồng lúa xanh ngát, và sẽ mãi là nơi để con cháu đời sau tề tựu, dâng hương tưởng nhớ các bậc danh nhân, tiên hiền của đất nước.
Có về Văn Miếu Mao Điền ta mới thấy cái hay, cái đẹp, cái uy nghiêm, thanh tịnh lẫn lòng tự hào về mảnh đất Hải Dương “Địa linh nhân kiệt”…Nếu có về qua, hãy rẽ vào Văn miếu Mao Điền, các bạn sẽ cảm nhận được những gì đã nêu!


6- LÀNG NGHỀ MỘC ĐÔNG GIAO – CẨM GIÀNG

Quá trình hoạt động làng nghề

Làng chạm khắc gỗ Đông Giao – Xã Lương Điền – Huyện Cẩm Giàng - Hải Dương đã là làng mộc nổi tiếng từ lâu trong toàn quốc. Làng Đông Giao với lịch sử phát triển nghề chạm khắc hơn 300 năm đã sớm nổi tiếng khắp trong nước và quốc tế.

Đông Giao thời Lê là một xã trong số 7 xã của tổng Mao Điền, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương. Cuối thời Nguyễn, Đông Giao vẫn đứng riêng biệt một xã gồm 3 thôn : Sở, Chay và Đông Tiến. Năm 1948, do chủ trương thực hiện liên xã của tỉnh, Đông Giao hợp với các thôn Bến, Thái Lai, Bái Dương, Ải, Bối Tượng, Lường Xá, Đông Khê, Cầu Dốc thành xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

Theo Đại Việt Dư địa chí: “Đông Giao có diện tích 527 ha, phía Bắc giáp xã Đồng Khê, phía Đông giáp xã Thái Lai, phía Nam giáp xã Thượng Cuông thuộc phủ Bình Giang, phía Tây giáp xã Thuần Mỹ huyện Mỹ Hào”.
Với vị trí địa lý hết sức thuận lợi nằm tiếp giáp giữa 3 tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, lại cách không xa thủ đô Hà Nội, làng chạm khắc gỗ Đông Giao đã biết tận dụng và phát huy hết khả năng vốn có của mình. Bên cạnh đó, hệ thống đường giao thông thuỷ bộ như quốc lộ số 5, quốc lộ 38, sông Cẩm Giàng đã góp phần thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế, thuận lợi cho giao lưu hàng hoá, tạo tiền đề cho việc phát triển sản xuất ở Đông Giao.
Theo thần tích của làng, vào thời Lê Cảnh Hưng (1740 - 1786), người thợ Đông Giao mà đại diện là cụ Vũ Xuân Ngôn đã có mặt tại Huế để tham gia xây dựng công trình cho triều đại phong kiến. Đến nay, ở Huế vẫn còn 1 làng của những người thợ Đông Giao xưa mang tên Đông Tiến và vẫn giữ được cái nghề mà cha ông họ truyền lại.

Thực tế khảo sát cho thấy, tình hình kinh tế - xã hội Đông Giao đã có những thay đổi quan trọng về cơ cấu sản xuất : nếu trước đây là “Dĩ nông vi bản” - nghề nông nghiệp trồng lúa nước là gốc - được qui định tại bản Hương ước xây dựng năm 1936 gồm 100 điều (qui định về cơ cấu, tổ chức, quản lý làng xã) thì nay, nghề mộc và chạm khắc đã được xác lập vai trò chủ đạo, mang lại thu nhập cao cho mọi gia đình. Với tổng diện tích canh tác có 329 mẫu, bình quân thu nhập 1,8 tạ thóc/ sào tương đương 600 tấn/năm, thu nhập nông nghiệp ở Đông Giao chỉ đạt khoảng trên dưới 1 tỷ đồng Việt Nam. Trong khi đó, thu nhập từ nghề mộc chạm khắc hiện theo báo cáo của địa phương là hàng chục tỷ đồng/năm với mạng lưới tiêu thụ rộng khắp trên cả nước, trở thành hoạt động nghề nghiệp xuyên quốc gia, quốc tế thu hút mọi lứa tuổi lao động trong làng và các xã lân cận tham gia, tạo thu nhập ổn định cho hàng trăm hộ gia đình.
Nghề mộc và chạm khắc.

Thợ Đông Giao có sự khéo léo, thông minh với bản chất cần cù chịu khó nên qua thời gian, họ đã không ngừng sáng tạo, cải tiến mẫu mã, nâng cao tay nghề. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay họ đã biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tạo nên những sản phẩm chạm khắc gỗ vô cùng phong phú đa dạng. Nếu như trước đây là đồ gia dụng (bàn ghế, giường tủ...) và đồ thờ cúng (ngai ỷ, hương án, bát bửu...) thì nay người thợ sản xuất cả những sản phẩm mỹ thuật nội thất mang phong cách phương Nam (tủ chùa, sa lông, gạt tàn thuốc lá, con giống trang trí các loại...). Đặc biệt là những mặt hàng xuất khẩu cho các nước : Đài Loan, Hồng Công, Singapo,Thái Lan, Trung Quốc... phải được thể hiện trau chuốt hơn, đa dạng hơn theo yêu cầu khách hàng. Đến nay, chỉ tính riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, làng nghề chạm khắc Đông Giao đã có tới gần 30 cửa hàng lớn, có đủ khả năng bao tiêu và xuất khẩu ra nước ngoài mang lại nguồn thu nhập ngày càng cao cho các gia đình. Sản phẩm chạm khắc gỗ Đông Giao hội tụ, kết tinh những giá trị tinh tuý nhất của các yếu tố văn hoá mà người thợ Đông Giao đã gửi gắm vào đó. Vì vậy, với thị trường, sản phẩm chạm khắc gỗ Đông Giao là cầu nối, là hạt nhân tạo nên mối quan hệ biện chứng tất yếu giữa kinh tế - văn hoá và phát triển. Trong nhiều nguyên nhân để Đông Giao tồn tại đến ngày nay thì sản phẩm và thị trường tiêu thụ sản phẩm chạm khắc gỗ giữ vai trò cốt yếu. Chạm khắc gỗ là một nghề thủ công đặc biệt, nó không đơn thuần chỉ mang ý nghĩa về giá trị kinh tế mà nó còn là một nghề mang nặng giá trị về Văn hoá - nghệ thuật, vì qua đó nghệ nhân đã khắc hoạ được khát vọng của con người, tư duy con người và sự cảm nhận nghệ thuật của con người. Đồng thời qua đó đã lưu lại được những sắc thái Văn hoá quê hương, bản sắc Văn hoá dân tộc nói riêng và cũng qua đó, thể hiện được cái riêng của nền văn minh phương Đông.

Truyền nghề và học nghề

Muốn làm được nghề chạm, dù chỉ là chạm khắc đồ thờ các loại, người phó nhỏ ngày xưa phải đầu tư học việc hàng chục năm mới có thể lành nghề. Biết kỹ thuật chạm khắc rồi phải nhớ các lối, các hoạ tiết, các đề tài. Học nghề chạm khó hơn nhiều so với các nghề thủ công khác vì đây là nghề kỹ thuật gắn liền với mỹ thuật cao. Người thợ không chỉ có sức khoẻ tốt, bàn tay khéo léo, kiên trì mà còn phải có khả năng mẫn cảm, tái hiện đề tài theo mẫu và sáng tạo mẫu mới. Để hoàn thành một bức chạm có thể mất hàng tháng là chuyện bình thường, nếu không kiên trì thì không thể theo nghề được.
Đối tượng học nghề xưa thường là nam giới, theo học nghề từ khi còn bé tại nhà thợ cả. Thường thì vừa học vừa làm, nhìn theo mẫu mà chạm. Mọi sinh hoạt người học việc phải tự túc, đến khi lành nghề thì thợ cả mới tính công nên số người học nghề xưa không nhiều, hầu hết thuộc diện “cha truyền, con nối” do đó nhiều bí quyết tồn tại theo mô hình gia đình. Ngày nay, việc học nghề chạm khắc có cả nữ giới và trẻ em tham gia. Tuỳ theo khả năng từng người mà thợ cả có thể giao việc ở mức độ khác nhau. Qua khảo sát thực tế ở Đông Giao hiện nay có hàng trăm thợ học việc từ các địa phương đến như: Hoà Phong (Mỹ Hào - Hưng Yên); Hưng Thịnh (Bình Giang - Hải Dương), Lâm Thao (Gia Lương - Bắc Ninh), Cẩm Hưng (Cẩm Giàng - Hải Dương) ...Đến Đông Giao ngày nay, không ít người không khỏi ngạc nhiên về những sản phẩm tưởng như rất phức tạp lại do chính nhóm thợ thanh thiếu niên thực hiện. Nhiều em mới trên 10 tuổi đã chạm thành công những sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao. Đặc biệt hơn là có những em nữ đục chạm lèo tủ rất đẹp không kém gì những thợ lành nghề.
Chạm khắc gỗ là một nghề được xuất phát từ nghề thợ mộc thủ công đòi hỏi sức lao động tinh khéo nên lực lượng sản xuất chủ yếu là nam giới, do vậy mà sự phân công lao động ở Đông Giao khá rõ ràng và ổn định. Người phụ nữ chăm lo đồng ruộng, con cái, còn người đàn ông “cha truyền, con nối” gắn bó với nghề thủ công. Và như thế, khác với nhiều địa phương thuần nông, nghề chạm khắc gỗ ở Đông Giao đã có sự chuyên môn hoá rất sớm do đặc thù nghề nghiệp. Với đặc trưng như vậy, những năm trước đây, người thợ Đông Giao không thể làm cố định tại gia đình mình, mà làm lưu động theo đơn đặt hàng. Quá trình sản xuất lưu động đó đã tạo nên sự giao lưu văn hoá giữa các vùng. Trên cơ sở đó, văn hoá làng Đông Giao đã diễn ra quá trình hội nhập và phát triển, góp phần tạo nên xu thế đổi mới mang tính thời đại.


................Vẫn còn nhiều đang chờ cập nhật mới.................
 
Chỉnh sửa lần cuối:

caosonhd

BĐH HD Hải Dương
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

CÁC ĐẶC SẢN NỔI TIẾNG CỦA ĐẤT HẢI DƯƠNG

1- Hương nếp thơm nồng rượu Phú Lộc

RuouPhuLoc.jpg


Phú Lộc là một xã thuộc tổng Văn Thai, nay là một thôn thuộc xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Phú Lộc từ lâu đã được biết đến như quê hương của nghề nấu rượu.

Theo truyền thuyết Ma Há và Minh Kha là hai thôn nằm bên đường cái quan Nam Sách đi Cẩm Giàng. Vào thời kỳ giặc phương Bắc xâm lược, chúng đóng quân tại địa phương, mượn cớ mất một con ngựa, giặc triệt hạ cả hai thôn này, những người sống sót phiêu bạt bốn phương, khi đất nước giải phóng, họ trở về làng hợp nhất hai thôn thành một làng lấy tên là Phú Lộc. Mong cuộc sống hạnh phúc, phồn vinh, dân làng lấy nghề nấu rượu và nuôi lợn làm một nguồn sống bên cạnh nghề nông.


Đên thời Nguyễn cả làng Phú Lộc được phép nấu rượu và rượu Phú Lộc đã nổi tiếng từ thời Thiệu Trị, Tự Đức, có mặt hầu khắp thị trường trong tỉnh và ra tới hải đảo thuộc Hải Phòng. Rượu ngày xưa chuyên chở cho vào bong bóng trâu để đảm bảo an toàn, giảm nhẹ bao bì và vẫn đảm bảo chất lượng.

Tuy nhiên đến thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, chúng đã dùng rượu như một công cụ nô dịch và bóc lột nhân dân ta.

Năm 1904 chúng xây dựng nhà máy rượu tại thị xã Hải Dương, trực thuộc công ty rượu Phông-ten của Pháp. Sau khi nhà máy rượu đi vào sản xuất, bọn thực dân ra lệnh cấm rượu của nhân dân tự sản xuất để độc chiếm thị trường chứ không vì mục đích tiến bộ. Khi bắt được nhân dân nấu rượu thì chúng gọi là rượu lậu, phạt rất nặng, còn rượu của chúng thì lại ép mọi làng xã phải mua. Năm 1939, nhà máy rượu Hải Dương bán cho người bản xứ là 2.904.835 lít, thuế thu được 228.204đ tiền Đông Dương, tương đương 2.564 tấn gạo loại I.

Kể từ khi nhà máy rượu Hải Dương hoạt động nghề nấu rượu của Phú Lộc tuy còn nhưng sản lượng không đáng kể.

Sau ngày miền Bắc giải phóng, nghề nấu rượu của Phú Lộc được phục hồi, chính quyền địa phương cho phép sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và xuất khẩu khi rượu quốc doanh chưa có điều kiện sản xuất lớn.

Từ năm 1956-1958 có tới 40% số hộ đăng ký nấu rượu bán cho Nhà Nước. Thời kỳ này rượu Phú Lộc ngoài phần bán cho Nhà nước còn bán rộng rãi ở Hải Phòng, Hà Nội, Quảng Yên, Cát Bà, Cát Hải…

Từ năm 1959 nhà nước ngừng mua rượu, tiến tới hạn chế rồi cấm sản xuất rượu ở đây. Kể từ đó phụ nữ Phú Lộc không còn là những cô bán rượu nữa mà trở thành thợ dệt thảm len xuất khẩu và một số nghề thủ công khác. Nấu rượu không phát triển như xưa nhưng tiếng tăm về rượu Phú Lộc vẫn dư âm trong dân gian.

Người ta nhớ đến rượu Phú Lộc bởi đặc trương của rượu trong suốt, tinh khiết, thơm, nồng hương nếp uống ngọt giọng, không xốc mặc dù nồng độ thường rất cao, có khi rót rượu ra chén có bọt bám vào thành, châm lửa bắt cháy ngay. Rượu Phú Lộc dùng ngâm thuốc rất tốt.

Để có được sản phẩm rượu đặc biệt ấy, người ta đã phải tích luỹ kinh nghiệm nhiều thế kỷ, chú ý đến chất lượng của men, nguyên liệu, quá trình ủ và chưng cất, còn phương pháp chung thì không khác phương pháp cổ truyền mà các làng xưa nay vẫn làm.

Phú Lộc có bài thuốc làm men 21 vị như: Quế, đại, hồi, tiểu, hồi, cam thảo, cát cánh, xuyên khung…nay có phần giảm bớt một số vị nhưng vẫn là bài thuốc ưu việt hơn nhiều địa phương khác. Tuy vậy, biết các vị chưa đủ, quan trọng hơn là tỷ lệ trọng lượng giữa các vị trong bài thuốc và cách ủ men là bí quyết nâng cao chất lượng của rượu.

Hiện nay cả thôn Phú Lộc có khoảng 400 hộ chuyên nấu rượu, trong đó nổi lên một vài đại gia từ nghề nấu rượu, điển hình như ông Hoàng Hữu Vũ, giám đốc công ty TNHH Rượu Phú Lộc. Theo ông Hoàng Hữu Vũ: Hiện có 60 hộ thường xuyên cung ứng rượu cho ông với phương thức công ty cấp men, gạo, than và thu về rượu, tiền công nấu 1 – 1,2 triệu đồng/người/tháng, giá 1 lít rượu tại thời điểm này là 16.000 đồng.

Có một điều đáng ghi nhận, tuy là làng rượu nhưng ở đây cách uống rượu rất văn hoá, không ai say xỉn, không ai mượn rượu để giải quyết công việc. Đây cũng là quy ước của làng từ xưa. Cả làng sống trong rượu nhưng việc thực hiện nếp sống văn hoá đã được ghi nhận bằng danh hiệu Làng văn hoá.

2- Bánh Gai Ninh Giang:

BanhGai.jpg


Về Ninh Giang (Hải Dương) mấy ai quên được hương vị của bánh. Những cái tên mộc mạc như Bánh gai bà Tới, Lan Trạm, Liên Hương…chỉ cần nghe nhắc tới đã thấy đâu đây mùi bánh gai thoang thoảng.

Cách thành phố Hải Dương gần 30 km về hướng đông nam, giáp Hải Phòng và Thái Bình, Ninh Giang được ví là nơi có tiếng gà gáy ba tỉnh đều nghe rõ. Là một thị trấn duyên dáng, được con sông Luộc bao bọc, Ninh Giang đã ghìm sâu tên mình vào lòng người bằng đặc sản quê mình: Bánh gai Ninh Giang.

Khó có thể xác định được nghề làm bánh có từ bao giờ! Cả huyện Ninh Giang có 15 xã thì duy nhất chỉ có thị trấn Ninh Giang là làm Bánh gai. Vòng quanh thị trấn, đâu đâu cũng thấy những chồng Bánh gai, như mời chào, niú kéo khách qua đường.

Đúng như tên của nó, cái làm lên hương vị của Bánh gai là lá gai. Lá gai trông giống như lá dâu, có răng cưa, thường được trồng ở vùng cao. Lá gai khô đóng bịch lại. Lá đẹp phải là loại lá to, các lá quện lại thành từng tảng nhỏ. Khi kéo từng chiếc lá thấy được cái mềm mại, dẻo của lụa, mùi thơm ngai ngái của lá khô. Lá phải sáng màu, mặt d*íi màu trắng như bọc trứng nhện, mặt trên màu xanh đen tựa mực tàu. Loại lá nhỏ, lẫn hoa, vón cục thi không được dùng. Lá đem nghiền nhỏ thành thứ bột xốp xốp, mịn màng mát rượi.

Làm Bánh gai là cả một nghệ thuật !

Hatdau.jpg


Từ cách chọn hạt gạo, hạt đỗ cũng phải sành. Đỗ xanh, phải là loại đỗ chè, hạt nhỏ,vỏ hơi mốc mốc. Xục tay vào thúng đỗ phải nghe thấy tiếng xạo xạo, coong coong của hạt đỗ già đã tách. Có thế khi thổi lên đỗ mới bở, thơm và ngậy. Đỗ đãi sạch vỏ, bỏ sạn, đem cho vào nấu chín. Mở vung nồi đỗ, mùi thơm thơm ngầy ngậy xộc vào cánh mũi; phải đợi một chút, quay mặt cho hơi bay vợi đi, khi đó mới nhìn rõ màu vàng ươm, mỡ màng của đỗ. Hạt đỗ căng tròn, nhón tay xiết lại, nhấc hai đầu ngón tay thấy dinh dính, nhưng xốp và mịn. Nghiêng dưới ánh sáng. thấy những hạt sáng như của khoai tây luộc bở tơi.

Gạo phải là gạo nếp cái hoa vàng, xẩy sạch, ngâm nứơc lạnh đến khi hạt gạo mềm, cấu được thì vớt ra, đãi sạch cho vào cối xay. Đây là loại bột khó tính. Không thể dùng máy nghiền khô mà phải là cối xay bột bằng nứơc. Trước kia là loại máy nhỏ có tay quay của các bà tráng bánh đa, bánh cuốn. Bây giờ được hiện đại bằng cách nối với chiếc mô-tơ, bột xay nhanh và đỡ công khó nhọc cho người. Cho nhiều nước, bột loãng, lọc rất lâu. Cho ít nước ,bột đặc sệt không xay được. Bột phải sánh, chảy đều khắp cối, có những bong bóng li ti chạy dài theo dòng chảy xuống khăn lót. Sau đó bột phải được ép khô.

Vỏ bọc Bánh gai là tổng hợp của bột gạo, lá gai và đường. Trước kia, vỏ bọc thường dùng đường phên (đường đen); giờ, được thay bằng đường kính trắng, thơm và ngọt hơn. Sau đó, cho bột lá gai vào theo tỷ lệ định sẵn; bột phải làm kỹ như người ta thấu đất đánh pháo, thêm chút dầu chuối cho dậy mùi. Bột không được cứng hay nhão quá, sẽ khó nắn và khó bóc bánh. Bột phải dẻo, đen nhờ màu mực tàu. Lấy đầu ngón tay ấn nhẹ xuống mặt bột nhấc lên thấy rõ vân tay nhưng sau đó bột lại đùn ra lấp liền ngay vết lõm. Có thế, bột mới được coi là đạt tiêu chuẩn để có thể nắm bánh.

Việc pha nhân cũng phải có "ngón". Đỗ xanh giã nhỏ, mịn . Cho đường kính trắng, dừa, lạc rang, mứt bí, mứt sen, dầu chuối trộn đều lên. Nhân cũng không được nhão sẽ khó nắn và khi ăn bánh sẽ sậm màu không đẹp. Giữa miếng nhân là miếng mỡ lợn ướp đường trong suốt, thảng màu xanh, cầm cứng và khi cắn thì giòn giòn. Vê tròn lại, phủ lớp vỏ gạo và lăn chút vừng bên ngoài.

Lá gói bánh phải là lá chuối khô, loại lá khô tự nhiên, tuốt từ trên cây xuống, chứ không được dùng loại lá tươi để khô vì như thế, lá sẽ cứng, đen và có mùi ngai ngái. Lá thường phài là màu xám hay màu đỏ của trái xoài chín dại nắng.

Bánh gai không luộc mà hấp như thổi xôi. Cho sôi khoảng hai tiếng, căn cho đều lưả, lửa chỉ không đều, yếu một chút là bánh sống. Có thể ví Bánh gai là loại bánh không thể “ăn vụng” được, mới sôi độ nửa giờ, nồi bánh đã thơm phức xóm nhỏ. Cầm chiếc bánh lên ăn, một tay vừa cầm vừa đỡ bánh, tay kia xé từng tý lá một. Nhớ là tý một thôi, ai vội vàng xé to coi chừng lại lôi từng mảng bột xệ mất. Ai sốt ruột lắm cũng phải ngắm qua lớp vỏ đen bóng, mịn màng của bánh . Sau đó từ từ đưa bánh lên cho tiếp xúc với làn môi. Ăn bánh cũng phải có “nghề”, cắn từng miếng nhỏ, từ từ mím môi lại và nhấc ra. Vị ngọt tới cuống lưỡi, mùi thơm thảng vào cánh mũi, thỉnh thoảng tai nghe thấy tiếng sần sật của mứt bí và mỡ lợn; răng dính với nhau bởi chất bột dẻo dai làm người ăn dù có háu cũng phải nhâm nhi. Trẻ con ăn xong cũng chưa vội chay ra sân chơi tiếp trò chơi dở, mà cố nán lại hít thêm chút hương bánh thoang thoảng từ bàn tay và lẩn quất đâu đây trong không gian.

Xưa, Bánh gai hiếm lắm, chỉ được dùng trong ngày tết hay nhà có giỗ chạp. Ngày thường, hàng xóm láng giềng có việc đi xuống huyện về biếu chiếc bánh, nhà có 5 hay 6 người thì phải xắt thành từng ấy miếng, mỗi người một miếng nhỏ nhâm nhi vị ngọt đượm của bánh. Ngày lễ tết, nhà nào muốn mua chục bánh gai để thắp hương cho các cụ, phải đạp xe xuống thị trấn, cách nhà chục cây số để đặt trước rồi áp tết xuống lấy bánh. Tết mà có chục bánh gai đặt cạnh mâm ngũ quả, cạnh chiếc bánh Chưng trông thật sung túc và ấm áp. Bên giường thờ, cạnh chén trà nóng, xen những giây phút tĩnh lặng cuả câu chuyện, hiếm ai không đôi lần thấy mát cánh mũi khi mùi thơm thoang thoảng toả ra tư chục bánh gai

Bây giờ, đời sống khá hơn, Bánh gai thông dụng hơn. Nhà có người gặt, người cấy hay có bác thợ nề đến sửa giúp trái bếp, bữa điểm tâm hay bữa chiều thường kèm theo chiếc bánh gai. Cũng không phải đi xa vì xã nào cũng có từ 1-2 nhà gói bánh. Người dân Ninh Giang cũng không còn quanh năm quanh quẩn ở trong xã, và tất nhiên chiếc bánh gai cũng “vượt biên” theo bước chân người . Sinh viên đi học, người ra ngoại tỉnh làm thêm, đi thăm cô dì chú bác, ai nấy đều xếp trong hành lý của mình chục bánh gai làm quà .

Về Ninh Giang, mấy ai quên được hương vị của bánh. Những cái tên mộc mạc: Bánh gai bà Tới, Lan Trạm, Liên Hương…chỉ cần nghe nhắc tới đã thấy đâu đây mùi bánh gai thoang thoảng. Bánh gai Ninh Giang vẫn chưa có thương hiệu riêng vì người làm bánh không bon chen theo cơ chể thị trường, làm bánh chỉ cốt một điều: Gĩư được hương vị truyền thống quê mình.

3- Bánh Đậu Xanh Hải Dương

banhdauxanh1.jpg


Bánh đậu xanh Hải Dương là một đặc sản của tỉnh Hải Dương. Bánh đậu xanh là hàng hoá được bán ở nhiều siêu thị lớn của cả nước và được xuất khẩu đến một số nước trên thế giới.
Biết chế biến các món ăn tinh khiết hợp khẩu vị là một phương diện văn hoá, hơn thế còn là một khẩu hiệu văn minh của mỗi địa phương, mỗi dân tộc. Hiện nay, báo ảnh nhiều nước thường dành một trang in mầu trang trọng giới thiệu các món ăn tiêu biểu của dân tộc mình, ở nước ta tục chế biến các món ăn truyền thống hình thành rất sớm, nhất là các loại bánh. Truyền thuyết cho hay, tục làm bánh trưng, bánh dày đã có từ thời Hùng Vương. Chế biến các loại bánh từ lâu đã trở thành nghề nghiệp của nhiều gia đình trong từng địa phương. Trong số những đặc sản của tỉnh Đông xưa phải kể đến bánh đậu xanh của thị xã Hải Dương. Nguyên liệu để chế tạo nên loại bánh này không phải khai thác ở đâu xa mà lấy ngay từ hoa mầu của đồng nội, hương vị của vườn quê. Thành phần của bánh cũng đơn giản: Đậu xanh, đường kết tinh, mỡ lợn, tinh dầu của hoa bưởi. Những nguyên liệu này đều phải chọn lọc, chế biến tinh khiết.
Đậu xanh chọn loại mỏng, mẩy, phơi khô kiệt, quây cót có một lượt chống ẩm, khi sử dụng trần qua nước sôi, vớt hết hạt lép, lửng, mọt rồi rang khô, xay vỡ, sảy sạch vỏ, cho vào chảo rang nhỏ lửa để nhân đỗ chín vàng. Đỗ rang xong đổ vào cối xay để xay nhỏ, điều tiết cho đỗ chảy thật chậm để bột nhỏ mịn. Xay xong dùng rây bột loại mau rây lọc những mảnh vải vụn mà khi xay còn sót lại để cho bột mịn, mượt. Mỡ khổ còn tươi, lột da, rán nhỏ lửa để mỡ không bị cháy, vàng, rán xong lọc qua vải màn, loại bỏ những mẩu tóp nhỏ để mỡ trong suốt và thơm. Đường kết tinh hoà nước, lọc sạch bằng lòng trắng trứng cô đặc để khi hoà với bột đậu chóng nhuyễn đều, khi ăn không có cảm giác sạn.
Tinh dầu hoa bưởi, chưng cất bằng phương pháp thủ công, trong đó có một số chất phụ gia như mùi già, rễ tòng bài.
Bốn nguyên liệu trên được pha với nhau theo một tỷ lệ hợp lý, vượt quá tỷ lệ đó sẽ dẫn đến chất lượng bánh kém.
Giấy gói phải chọn giấy bóng kính, nếu dùng giấy nilon bánh sẽ chóng mất phẩm chất. Nhãn cầu in nhiều mầu vàng, để hoà với mầu sắc của bánh.
Bánh được đóng thành từng khẩu vuông, mười khẩu gói thành một bánh hình chữ nhật theo 5 hàng hai. Kích thước ổn định (8,5 x 3,2 x 1,1cm) nặng 45 gam.
Bánh đậu xanh của thị xã Hải Dương trước cách mạng tháng Tám có nhiều cửa hiệu sản xuất như Mai Phương, Hoa Mai, nhưng nổi tiếng nhất là Bảo Hiên và Cự Hương.

Bánh đậu xanh Hải Dương nhãn hiệu rồng vàng đã có mặt khắp thị trường Bắc Kỳ và bốn lần tham gia hội chợ đều được giải. Đã một thời khách vãng lai qua thị xã Hải Dương không quyên mua bánh đậu rồng vàng làm quà cho người thân. Từ cụ già đến cháu nhỏ mỗi khi nhận được tấm bánh đậu đều phấn chấn, ngăm sngiá từ giấy gói trong veo, bóng láng cái nhãn nhiều mầu ưa nhìn. Khi bỏ khẩu bánh vào miệng thì nó lập tức tan biến, chỉ còn lại vị bùi béo, ngọt đậm và thoang thoảng mùi hương hoa bưởi tưởng như đang sống giữa mùa xuân. Tâm đắc nhất vẫn là các bậc lão thành vào ban đêm giao thừa, chưng đèn thật sáng, thắp hương vòng bài, pha chà Chính Thái, ướp hoa ngâu, bóc phong bánh đậu nhấm nháp từng khẩu với nước chè để tận hưởng cái hương vị đặc sắc của quê hương, rồi cùng bạn đời suy nghĩ về những gì đã qua và chờ đón một chu kỳ mới của thiên nhiên.

Người Hải Dương đi xa, nhìn thấy bánh đậu xanh như nhìn thấy quê hương lòng rạo rực nhớ quê. Khách muôn phương thấy bánh đậu xanh lại nhớ đến một thị xã nhỏ xinh êm đềm cư dân thuần hậu giữa đồng bằng châu thổ, nơi ấy có đường bộ, đường sắt, đường thuỷ đi qua. Những người luống tuổi hôm nay vẫn còn trong ký ức hình ảnh và hương vị bánh đậu xanh Bảo Hiên và Cự Hương xưa: chủ hiệu Bảo Hiên là bà Nguyễn Thị Nhung, mở hnàg làm bánh từ đầu thế kỷ XX, khoảng năm 1922 khi tuổi còn đôi mươi. Làm bánh đậu là nghề bà được thừa kế của gia đình từ nhỏ. Tuy chồng mất sớm để lại một đàn con nhỏ, bà Nhung vẫn đảm đương một cửa hiệu có trên 30 thợ, làm việc ngày 2 kíp, sản xuất hàng tạ bánh mỗi ca. Buôn bán lấy lòng tin làm đầu. Sáng sáng vài chục khách đến nhận hàng, chỉ cần ghi số lượng, chiều tối hoặc ngày sau thanh toán. Khi bánh mất phẩm chất bị huỷ ngay để giữ gìn tín nhiệm. Nguyên liệu mỗi lần nhận hàng toa tầu đường trắng kết tinh loại tốt từ Tuy Hoà ra, từng thuyền lớn chở đậu xanh từ Lục Nam xuống và hàng tạ mỡ khổ từ lò mổ chở tới. Tinh dầu hoa bưởi thì nhà tự chưng cất lấy. Cửa hiệu tấp nập hoạt động nhịp nhàng suốt ngày đêm. Mọi việc từ kỹ thuật, giao dịch quản lý, kế toán, điều hành công nhân…chỉ có một phụ nữ với một quyển sổ, một bàn tính cùng đàn con líu ríu bên mình. Với bàn tay tài hoa và khối óc năng động ấy, bánh đậu xanh Hải Dương nổi tiếng, rồi trở thành đặc sản và hiệu Bảo Hiên Rồng Vàng trở thành một hiệu lớn của tỉnh Đông.

Cùng với Bảo Hiên bánh đậu xanh Cự Hương cũng rất nổi tiếng về chất lượng tuy sản lượng không lớn. Cự Hương có hai loại bánh: Bánh ướt và bánh khô chất lượng đều cao. Bánh cự Hương đã từng sản xuất ở Hà Nội, nhưng khi xa đất mẹ bánh đậu thật khó phát huy. Kháng chiến bùng nổ, rồi chiến tranh kéo dài, thị trường bánh đậu bị thu hẹp. Hoà bình lập lại, bánh đậu xanh Rồng Vàng vào tổ chức sản xuất công tư hợp doanh, rồi tiến lên quốc doanh. Qua nhiều năm tồn tại bánh đậu xanh không thiếu trên thị trường, trong đó có nhiều loại bánh kém phẩm chất với nhãn hiệu và giấy bao gói khác nhau, nhưng tiếng tăm và hương vị của nó chỉ còn trong ký ức.

Từ năm 1986, đất nước có nhiều đổi mới, một nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần được quan tâm và thừa nhận. Nền kinh tế quốc gia như nắng ấm đầu xuân tạo cho trăm hoa đua nở. Trong bối cảnh ấy, bánh đậu xanh Hải Dương được phục hồi và phát triển. Người tiên phong trong mặt hàng này là ông Đoàn Văn Đạt nguyên là một quân nhân về mất sức, học hành có hạn, ông từng trải làm nghề thợ mộc, nuôi lợn, làm bánh quy bằng bột sắn, tuy gian khổ nhưng đều thành công. Năm 1986, nhờ giúp đỡ của nghệ nhân cũ, ông quyết tâm khôi phục danh tiếng của bánh đậu xanh Hải Dương, một đặc sản của địa phương. Ông bỏ ra hàng triệu đồng để mau sắm trang thiết bị, công cụ sản xuất, in nhãn giấy bóng kính bao gói, mong sao lại nguyên bản hình thức và chất lượng bánh đậu xưa và nâng cao đổi mới một số địa phương diện.

Với nhãn hiệu Nguyên Hương nhưng không phải Rồng Vàng mà là hình tượng Phượng Hoàng, ông hy vọng giữ nguyên chất lượng của bánh đậu xanh Hải Dương và để nó bay cao, bay xa đến mọi miền đất nước và những xứ sở xa xôi mang theo hương vị của quê hương. Tại hội chợ Thủ công mỹ nghệ toàn quốc đầu năm 1987, bánh đậu xanh Nguyên Hương được thưởng Huy Chương bạc, năm sau được Huy Chương vàng. Đây là phần thưởng cao nhất cho bánh đậu xanh Hải Dương kể từ sau ngày thị xã được giải phóng. Sau sự kiện này đã thúc đẩy việc phát triển và nâng cao chất lượng của bánh đậu xanh.
Tám năm qua, sống trong cơ chế thị trường, bánh đậu xanh tỏ ra vững vàng và phát triển chưa từng có. Đến năm 1995, thị xã Hải Dương đã có 46 cơ sở sản xuất, kinh doanh bánh đậu được đăng ký như sau:

1- Bảo Hiên
2- Nguyên Hương
3- Bảo Long
4- Bá Tiến
5- Hoà An
6- Minh Ngọc
7- Quê Hương
8- Hoà Hương
9- Việt Hương
10- Long Hương
11- Hương Nguyên
12- Phúc Duyệt
13- Bảo Hương
14- Thiên Hương
15 - Minh Hải
16 - Bảo Nguyên
17 - Hương Nguyên
18 - Nguyên Hưng
19 - Thanh Vân
20 - Hải Hương
21 - Minh Phương
22 - Bảo Thọ
23 - Bảo Ngọc
24 - Nam Hải
25 - Hương Lan
26- Tân Long
27- Tiên Dung
28 - Hồng Ngọc
29- Hoà Long
30 - Minh Thuý
31- Bình Minh
32 - Hoài Hương
33- Đoài Dương
34 - Bảo Long Hưng
35- Bảo Long Khánh
36 - Hải Yến
37- Hoà Hùng
38 - Nguyên Phương
39- Nguyên Long
40 - Thành Hương
41- Nguyên Hùng
42 - Hải Nguyên
43- Ngọc Long
44 - Hoài Yến
45- Hương Loan
46 - Hoài Dương

Trên đây chưa kể những cơ sở sản xuất theo thời vụ, sản xuất mà chưa đăng ký hoặc có chi nhánh ở các thành phố lớn trong nước. Dọc các phố lớn, nhất là trên tuyến đường Hà Nội- Hải Phòng qua thị xã, bánh đậu bày bán đầy ắp các cửa hàng. Nhiều thế nhưng cũng không ế. Trong một năm, mùa xuân và mùa đông hàng bán chạy hơn cả, Nhất là vào dịp tết, những nhà hàng nổi tiếng thường không đủ bánh bán.
Thành phần của bánh đến nay chưa có gì thay đổi, nhưng công cụ sản xuất, vệ sinh công nghiệp, bao nhãn và phương pháp quảng cáo đã đạt được trình độ cao, điển hình là nhà hàng Nguyên Hương. Cơ sở này không chỉ làm tốt những khâu nêu trên mà còn có nhiều hoạt động xã hội và đứng đầu về việc làm từ thiện trong số những cửa hàng bánh đậu.

Chiếc bánh đậu xanh nhỏ bé, giản dị nhưng đã mang tiếng thơm của tỉnh Đông đến muôn nơi và mang về cho quê hương một nguồn thu không nhỏ, và không ít cửa hàng đã đạt tới mức tỉ phú, điều mà xưa nay ít người nghĩ tới.

4- Vải Thiều Thanh Hà

VaiThanhHa.jpg


Mùa hè đỏ lửa cũng là lúc vườn vải nhuộm một màu đỏ sậm. Từ trên cao nhìn xuống màu xanh của lá cây đã bị màu đỏ của trái vải lấn át, trông giống như những đĩa xôi được nhuộm màu rất khéo.

Khu vườn rộn rã tiếng chim, tiếng cười của các cô thôn nữ xinh đẹp, sực nức mùi hương vải thơm nồng. Trái vải kết thành chùm ở đầu cành, nặng trĩu, nhiều khi không chịu nổi sức nặng của trái, gió mạnh một chút là cành nhỏ tự gãy. Một cành vải bằng cổ tay người lớn cũng được khoảng 100 kg trái chín.

Nếu tháng 5 bạn có mặt ở Thanh Hà, Tỉnh Hải Dương bạn sẽ thấy làng quê như có hội, hội vải. Du khách về quê vải vừa tham quan vừa thưởng thức vải tại chỗ. Xe tải thì chở vải đi nơi khác bán.

Trái vải thiều lớn cỡ ngón chân cái, tạo thành chùm, vỏ màu đỏ sậm hơi sần sùi. Bóc vỏ ra, bên trong là một lớp cùi trắng nõn, mọng nước, vị ngọt dịu mát, thơm của nước vải ngấm tận chân răng. Đặc biệt, mùi thơm của vải khi ăn xong vẫn còn vương vấn mãi. Vải thiều Thanh Hà hột nhỏ, màu nâu đen, cây vải tuổi càng cao thì hạt càng nhỏ, có nhiều trái gần như không có hạt và lớp cùi dày ngọt lịm, đầy nước.

Trái vải dễ tiêu hóa, an thần. Dùng vải tươi hay khô đều tốt cả. Vải sấy khô cùi đen lại, dẻo quánh, ngọt vô cùng. Khi ăn, ta có cảm giác như ăn một quả táo Tàu thường có vị thuốc Bắc. Được ăn trái vải sấy khô và uống một ly trà nóng ấm thì thật không còn gì thú hơn. Ở Thanh Hà, nhà nào cũng có bình rượu ngâm vải sấy khô.

Cây vải tổ của vải Thiều được trồng tại thôn Thuý Lâm xã Thanh Sơn do cụ Hoàng Văn Cơm mang về. Người ta kể rằng Cụ Cơm nguyên là một người phục vụ tại một cửa hàng ăn ở tỉnh Quảng Ninh. Một hôm, có một du khách người Trung Quốc sau khi ăn cơm xong đã dùng tráng miệng bằng một loại quả (?) và khi rời khỏi quán ăn ông ta có để lại một vài quả. Cụ Cơm ăn thử thấy ngon quá, liền mang hạt về gieo ở vườn nhà và mọc lên được 3 cây. Trong 3 cây đó chỉ sống được 1 cây và cây đó vẫn tồn đến ngày nay (khoảng 150 tuổi). Vì vậy, xã Thanh Sơn được coi làn xã hạt nhân của vùng sản xuất vải Thiều. Do chất lượng quả vải đươc nhiều người ưa chuộng nên dần dần được nhân rộng ra các xã lân cận như xã Thanh Xá, xã Thanh khê. Trong giai đoạn HTX từ năm 1960-1970, hình thành các vườn cây đặc sản và sản xuất theo kế hoạch của nhà nước, cây vải Thiêù được trồng trong vườn nhà của các xã Thanh sơn, Thanh Thuỷ, Thanh Xá, Thanh Khê, Thanh Xuân, Hợp Đức, Thanh Cường, Thanh Hồng, Thanh Bính, Trường Thành. Từ năm 1993, có chính sách địa phương chuyển đổi đất lúa sang trồng vải cây vải thiều được trồng và phát triển trên khắp các xã trong huyện. Căn cứ vào nguồn gốc lịch sử cây vải là những đặc tính đặc biệt của vải thiều Thanh hà, năm 1992 Trung ương hội làm vườn Việt Nam đã công nhận cây vải do ông Hoàng Văn Cơm thôn Thuý Lâm- xã Thanh Sơn- huyện Thanh Hà – tỉnh Hải Dương trồng là cây vải tổ của Việt Nam.


5- Bánh cuốn Hải Dương

Ở Hải Dương, bánh cuốn được làm ở nhiều nơi nhưng chỉ có bánh cuốn ở xóm Hàn Giang (thuộc khu 5, phường Quang Trung, TP Hải Dương) là ngon hơn cả.

BanhCuon2.jpg


Ở Hải Dương, chỉ có bà Thấu là có bí quyết pha nước chấm ngon. Nhờ đó mà bánh cuốn Hải Dương trở nên hấp hẫn hơn, “thương hiệu” bánh cuốn Hải Dương trở nên nổi tiếng hơn.

Người Hải Dương vẫn quen gọi Hàn Giang là "xóm bánh cuốn". Bánh cuốn Hàn Giang có từ năm 1952. Người đầu tiên có công mang nghề làm bánh cuốn về dạy cho người dân nơi đây là một nhóm thợ có quê gốc ở Thái Bình, những người như bà Tỳ, bà Văn, bà Nhàn, bà Thức, ông Tiếu... Theo bà Tỳ làm bánh cuốn không khó, nhưng làm bánh cuốn ngon, ăn một lần mà nhớ mãi thì khó. Làm được điều này cần sự tỉ mỉ công phu, chứ không phải có công thức là làm được.

Làm bánh cuốn cần cái cảm quan của người làm bánh. Điều này cũng chính là thước đo phân biệt một thợ làm bánh thường và một thợ làm bánh có nghề. Bà Tỳ cho biết: Làm bánh cuốn, pha bột và tráng bánh là khâu khó nhất. Pha bột phải thật khéo nếu không bánh sẽ bị đứt hoặc dày và cứng. Kinh nghiệm pha bột là "pha theo tay mình tráng". Nghĩa là bằng cảm giác của mình thấy bột khi đưa vào tráng có thể dày, mỏng thế nào để pha nước theo tỷ lệ thích hợp. Tuy nhiên, tỷ lệ này cũng không cố định. Nó còn phụ thuộc vào loại gạo dùng để làm bột và thời tiết lúc tráng bánh. Bởi vậy, một người bình thường nếu muốn học nghề làm bánh cuốn cũng phải mất hàng năm mới có thể đúc rút được kinh nghiệm cho mình.

Nhưng quan trọng hơn, theo kinh nghiệm của người có gần 60 năm đứng lò tráng bánh như bà Tỳ thì để làm được bánh ngon người làm bánh phải thật sự yêu nghề. Điều này đã đúng, bởi cũng chính bằng lòng yêu nghề đó mà thế hệ những người như bà Tỳ đã gây dựng lên thương hiệu bánh cuốn Hải Dương nức tiếng khắp nơi, khiến ai đã từng ăn một lần là nhớ mãi. Bánh sau khi tráng xong được phết qua một lớp mỡ hành phi thơm sau đó được ủ trong thúng có lót lá chuối, bao quanh bởi một lớp vải cách nhiệt để giữ bánh luôn nóng. Khi ăn, phải dùng tay để bóc từng lá bánh ra, cắt thành miếng nhỏ vừa ăn. Nước chấm được pha bằng loại nước mắm ngon cùng với các gia vị khác sao cho vừa có màu vàng sóng sánh, vừa có mùi thơm đặc trưng của ớt, cùng vị cay nồng của hạt tiêu xay dối, pha chút chua chua, hăng hăng của chanh. Bánh cuốn Hải Dương ăn kèm với chả quế và các loại rau thơm như húng, mùi, xà lách...

Ở Hải Dương, chỉ có bà Thấu là có bí quyết pha nước chấm ngon. Và cũng chính nhờ bí quyết pha chế nước chấm của bà mà bánh cuốn Hải Dương trở nên hấp hẫn hơn, “thương hiệu” bánh cuốn Hải Dương trở nên nổi tiếng hơn.

Do đó, không phải ngẫu nhiên mà nhiều người từ nhiều nơi khác đã tìm về "xóm bánh cuốn" Hàn Giang để học nghề làm bánh cuốn, trong số đó có những chàng thanh niên còn rất trẻ. Họ đến đây để "học nghề sau này lập nghiệp" như tâm sự của chàng trai Hoàng Đức Lương ( 26 tuổi) quê ở Chí Linh. Anh Lương đã đến cửa hàng Tân Hương của gia đình chị Đỗ Thị Hương để học nghề làm bánh cuốn với hy vọng sau này có thể mở một của hàng bánh trên vùng quê Chí Linh. Trước anh Lương có nhiều bạn trẻ khác cũng đến đây học nghề, có người đã mang nghề làm bánh cuốn Hải Dương vào các tỉnh miền Nam lập nghiệp, trong số đó có không ít người đã thành công.

6- Chả Rươi Hải Dương

charuoi.jpg


Chẳng giống nem công, chả phượng, bào ngư, yến huyết cầu kỳ khó kiếm, chả Rươi là món ăn bắt đầu và hình thành từ những gì dân giã nhất. Theo từ điển tiếng Việt: Rươi là con giun đất, thân có nhiều lông tơ nhỏ, sinh theo mùa, ở vùng nước lợ, xuất hiện nhiều vào cuối tháng chín đầu tháng mười hàng năm:
Hải Dương quê tôi thuộc vùng châu thổ sông Hồng, được bao bọc bởi những con sông lớn, ăm ắp phù sa cuồn cuộn uốn mình ra biển, chính cái nơi tiếp giáp, gặp gỡ của những con sông này với vùng thuỷ triều lên mạnh tạo nên vùng nước lợ miên man ở các huyện Thanh Hà, Tứ Kỳ, Đông Triều, Ninh Giang, đây chính là vùng có nhiều Rươi, Rươi không ai nuôi được ngày thường có vác mai đào xới tung cả vùng đồng triều ngập lợ cũng chẳng tìm nổi một con.

Nhưng tháng chín đôi mươi tháng mười mùng năm lúc bầu trời mây vần vũ như sà xuống thấp, những cánh diều mỏng dính chấp chới dắt díu những hạt mưa lất phất ( Người quê tôi gọi là mưa mở lỗ Rươi) cả vùng bãi triều ngập trong mán nước phù sa nâu nhạt trở thành những ruộng Rươi mênh mang, heo may cứ thổi mưa cứ rơi, ai đó cứ thở than " Kẻ ăn Rươi, người chịu bão" bởi cái sự đau ê ẩm của thân mình thì vùng ruộng Rươi đông như trẩy hội. cũng thật lạ không hiểu từ đâu, những con vật bé nhỏ thân nửa giun, nửa như rết cứ đùn đùn từ lòng đất chui lên có con dài tới vài mét, Lên đến mặt nước chúng đứt thành từng đoạn ngắn.

Lạ lùng hơn mỗi đoạn ngắn ấy thành một con, con nào cũng có đầu có mắt hẳn hoi, chúng kết lại thành đoàn, dạt theo dòng nước chảy, người đi vớt Rươi chỉ cần dùng lưới, vợt bằng vải màu hay rá rổ, thậm chí cả gầu tát nước đơm chỗ cửa nước chảy là vớt được Rươi, Cách vớt này thô sơ, cốt lấy vui làm chính. Còn nếu muốn lấy số nhiều thì phải tốn công hơn một chút. Thông thường người ta khơi bờ ruộng cho nước chảy, giăng mành mành rộng ra theo hình phễu rồi đơm đó vào. Rươi cứ việc theo dòng chảy, ào ạt trôi vô miệng đó. Đứng trên bờ, người ta chỉ việc nâng đó, trút rươi vào thuyền, chở lên mạn ngược gánh đi, cho kịp buổi chợ.

Những thúng Rươi ngon nhất được đem lên Hà Nội và những thành phố lớn bán cho các khách sạn, nhà hàng đặc sản. Loại ngon vừa đem về bán ở các chợ quê. Cách đây vài năm chỉ vài chục ngàn ta có thể mua được một kg Rươi, nhưng một hai năm lại đây Rươi hiếm dần, chẳng biết có phải vì nó cũng ngột ngạt không sinh nở được trong môi trường ô nhiễm mà giá đắt khủng khiếp. Một Kg Rươi ngon ở Hà Nội giá bán có khi lên tới 4- 5 trăm ngàn đồng. Loài thuỷ sinh này còn lạ lùng hơn vì dẫu có đang nổi lên đàn đàn lũ lũ đấy nhưng chỉ cần gặp một trận mưa không cần biết to hay nhỏ thì chỉ sau vài giờ là chúng biến đâu mất sạch ( Người quê tôi gọi là những trận mưa lấp lỗ Rươi)

Để làm được món chả Rươi ngon, khi mua rưoi phải biết chọn lựa, con Rươi thân phải mập màu hồng, bò khoẻ trong thúng là những mớ rươi còn tươi và ngon. loại này khi đánh nhuyễn, thân Rươi tan, ta sẽ có một bát bột Rươi sánh, ánh vàng kem trứng, khi ăn cho vị ngọt đậm, béo ngậy, còn những con Rươi mầu xanh, thân gày bò yếu là Rươi non, khi đánh ít tan, rán lên sẽ khô, xác.
Mỗi món ăn lại có một số gia vị đi kèm để làm nên " Bản sắc" Làm chả Rươi, bạn không thể không mua thêm thịt ba chỉ ngon, trứng gà, vịt tươi, lá lốt, hành hoa, thì là, lá gừng, hạt tiêu, mì chính, nước mắm ngon và đặc biệt phải có vỏ quýt - một vị mà nếu thiếu nó sẽ mất đi mùi vị đặc trưng của chả Rươi. Giờ chắc bạn đã hiểu chẳng hề vô tình khi dân gian ngấm nguýt: " Mắm Rươi thì ít, vỏ quýt thì nhiều"...
Cách chế biến Rươi cũng không đơn giản đâu: Rươi đem về nhà cho vào rổ dày nan, thả nhẹ nhàng vào chậu nước rồi rửa nhẹ tránh làm Rươi vỡ ruột. nhặt sạch mùn rác để ráo nước rồi đổ Rươi vào âu đũa đánh nhuyễn càng lâu càng ngon. Thịt ba chỉ băm nhỏ, tuỳ theo lượng Rươi mà cho nhiều hay ít ( Thường 1 kg Rươi chỉ cho một hai lạng) đập vào đó 2 quả trứng ( gà, vịt đều được); Rau gia vị thái chỉ vằm nhỏ cho vào cùng mì chính, hạt tiêu, nước mắm ngon trộn đảo thật đều là được.
Việc rán Rươi mỗi nơi mỗi khác, có nơi cho Rươi sau khi đã trộn gia vị vào rán luôn, nhưng như vậy Rươi sẽ không ngon, rươi chín không đều và dễ bị cháy, khi ăn mất đi vị béo ngậy, muốn Rươi ngon ta dùng nồi hấp xôi lót lá lốt sau đó cho từng muôi Rươi vào hấp bánh. Khi Rươi chín đều đóng bánh, ta đem bánh Rươi đã được hấp chín cho vào chảo mỡ nóng già, đun nhỏ lửa, đợi khi bánh ngả màu vàng cánh gián đều cả hai mặt, bạn hãy vớt Rươi ra. chỉ khi bạn làm được món chả Rươi với lớp áo chả vàng ruộm mà phía bên trong ruột chả vẫn mềm, ngọt đậm bạn mới là người "sành điệu" và khi đó, nếu sắc vàng màu cánh gián của vỏ áo chả Rươi hút mắt người thưởng thức, bánh chả toả hương thơm ngào ngạt, mùi hương mà đứng cách xa hàng vài trăm mét cũng cảm nhận được thật là quyến rũ cồn cào.
Nhón tay bẻ miếng chả Rươi nóng hổi, đặt vào giữa màu xanh non tơ của lá rau diếp, rau thơm cùng lọn bún trắng ngần cuộn lại rồi chấm vào bát nước mắm chắt có tỏi ớt chỉ thiên vằm nhuyễn, thêm chút đuờng mì chính, chanh tươi... thêm vài giọt nhỏ tinh dầu cà cuống mùa gặt... ta nghe như từ đầu lưỡi vị ngầy ngậy đậm đà của sắc đỏ phù sa, mùi thơm thơm nồng nàn của cây lá vườn nhà... tất cả mùi vị ấy quyện lại làm lên hương vị đặc trưng của chả Rươi dân giã mà lại quý giá vô cùng. Thêm vài chén rượu nếp cái hoa vàng chưng cất thủ công ủ hũ sành nút lá chuối khô để lâu với vài người bạn tâm giao trong một buổi chiều thu đáng nhớ, câu ca lơ lửng giữa đời " Món ngon nhớ lâu..." chắc sẽ khắc sâu vào tâm khảm, biết đâu thi hứng chợt nổi, bạn lại nẩy ra cả một tứ thơ hay?
Đặc biệt hơn nếu vào những ngày tết nguyên đán, giữa tiết trời se lạnh. trên mâm cỗ tết đầm ấm lại có món chả Rươi thơm lừng để khoản đãi bạn bè thì thật thú vị. Sẽ rất nhiều người thắc mắc, làm thế nào để tết có Rươi ăn? điều này không khó vào vụ Rươi chỉ cần sau khi hấp rươi thành bánh, bạn đem bánh Rươi rán qua cho đanh lại, để nguội rồi xếp bánh Rươi vào hộp nhựa có nắp đậy kín lại, cho vào túi nilon gói chặt xếp vào ngăn tủ đá lạnh. Tết đến xuân về, khi mai đào xoè hoa rực rỡ, bạn chỉ cần lấy rươi từ tủ lạnh ra ngoài cho tan băng, Những bánh Rươi khi ấy sẽ tự rời nhau. Bên bếp lửa hồng, những miếng chả Rươi nóng hổi toả mùi thơm ngào ngạt quện mùi hương trầm da diết... trong không khí đầm ấm của ngày xum họp hẳn đây sẽ là món quà quê hiếm có của những ngày đầu xuân....

7- Bún cổ truyền - Làng Đông Cận - Huyện Gia Lộc

Bún là món ăn cổ truyền quen thuộc của người Việt Nam. Ở Hải Dương nổi tiếng nhất là bún Đông Cận, thuộc xã Tân Tiến, huyện Gia Lộc.

Từ xa xưa trong các chợ quê hay chợ tỉnh thành bao giờ cũng có hàng bún. Bún không chỉ là một thứ quà sáng mà còn được sử dụng như một thức ăn chính thay cơm trong những ngày mùa màng ở nông thôn và những tiệc chiêu đãi ở thành phố. Bún mềm và có men chua kích thích tiêu hoá. Vì vậy, khi lao động mệt nhọc, người ta thích ăn bún hơn ăn cơm.

Làm bún là nghề tuy không khó nhưng không phải nhà nào cũng làm được và có truyền thống. Ở Đông Cận có tới 95% gia đình biết làm bún và sản xuất thường xuyên. Có thể nói : Đông Cận là làng bún cổ truyền. Ngoài Đông Cận còn có làng bún Làng Rào (Nam Sách), Xuân Nẻo(Tứ Kỳ), Đông Hào (Ninh Giang).

Nghề làm bún rất đơn giản, vài ba cái vại to (50 lít), cối giã gạo, khuôn, dây lọc bột, túi lọc, mâm, thúng đựng bún, chén (đĩa) vắt con bún. Kỹ thuật làm bún cũng không khó, muốn có bún ngon phải từ nguyên liệu, cách lọc, pha chế.

Nguyên liệu làm bún là gạo, nhất là gạo để lâu, dân gian gọi là gạo kho thì dễ làm. Trung bình 1 kg gạo được 2 kg bún. Ngày xưa bún bán theo con, như cái vẩy ốc. Con bún hay lá bún được vắt trên một đĩa nhỏ, người làm bún gọi là cái chén. Con bún được xếp vào thúng, lót lá chuối tươi, gánh đi chợ bán lẻ. Bún ngon nhất là ăn với mắm tôm hoặc riêu cua, riêu cá. Vào vụ gặt, người ta đổi bún lấy thóc thường rất chạy.

Hiện nay, thị trường bún Đông Cận rất rộng mở, trong đó lớn nhất là cung cấp cho TP Hải Dương. Chưa bao giờ nghề làm bún của Đông Cận lại phát triển như hiện nay. Hầu hết gia đình ở Đông Cận đều làm bún, mỗi ngày đưa ra thị trường hàng chục tấn bún.

Khi đời sống của nhân dân được nâng cao thì nhu cầu về bún càng lớn, do ăn bún rẻ lại dễ tiêu hoá, lại hợp khẩu vị nhiều người. Tuy nhiên, điều quan tâm của nghề này là bảo đảm vệ sinh trong từng công đoạn làm bún, nhất là khi ngâm nước lạnh và đem bán bún ngoài thị trường.

8- Bánh Đa - Kẻ Sặt

Ở Hải Dương hầu như ở huyện nào cũng có người làm bánh đa nhưng chỉ có bánh đa Kẻ Sặt mới nổi tiếng trở thành đặc sản của Hải Dương tương tự như bánh gai, bánh đậu xanh...

Kẻ Sặt thời phong kiến là một xã thuộc tổng Thị Tranh. Kẻ Sặt là tên nôm của làng Tráng Liệt. Năm 1958, tách một phần xã Tráng Liệt, lập thị trấn Kẻ Sặt.

Bánh đa Kẻ Sặt là loại bánh đa ngọt, cao cấp. Để làm bánh đa Kẻ sắt rất công phu, gồm

* Thành phần nguyên liệu:

- Gạo: Gạo làm bánh đa ngọt phải là loại gạo ngon. Hiện nay người dân hay làm bằng loại gạo CR203.
- Vừng: Cũng phải chọn loại vừng tốt, loại vừng tấm là tốt nhất. Trước đây nhân dân thường mua trên miền ngược, hạt nhỏ bằng 2/3 hạt vừng thường.
- Đường: đường kính hoặc đường cát.
- Lạc: Chọn loại lạc già, nhân to, mẩy.
- Dừa: Chọn loại dừa già, cùi dày.

* sơ chế nguyên liệu:

+ Gạo ngâm 1-2 tiếng để ráo nước, sau đó đổ vào cối xay, vừa xay vừa đổ nước, để nước bột có nồng độ vừa phải không loãng quá không đặc quá. Sau được vắt lọc bằng vải. Trước khi tráng đun đường chảy hoà với bột, giã nhỏ gừng lấy nước hoà với bột. Vừng đem ngâm, xát vỏ.
+ Lạc nhân thái thật mỏng sau đó xẩy sạch vỏ.
+ Dừa: Thái mỏng.

* Tráng bánh:

Đổ nước sạch vào nồi khoảng 2/3 dung tích. Khi đun, lửa phải giữ ổn định trong suốt quá trình tráng bánh. Khi nước soi để khuôn lên miệng nồi múc một muôi bột đổ lên khuôn, dùng muôi dàn đều trên mặt khuôn. Đối với bánh đa thông thường chỉ cần tráng một lần là được, nhưng đối với bánh ngọt sau khi tráng lần thứ nhất rắc đều vừng, lạc, dừa lên mặt bánh. Sau đó tiếp tục múc một muôi bột nữa đổ lên trên láng đều kín hết nhân, đậy vung lại khoảng 1-2 phút mở vung ra, lúc này bánh đã chín, dùng ống nứa dài 40-50 cm có đường kính 7-8 cm đặt vào mép bánh đa, để bánh dính vào ống nứa sau đó từ từ năn tròn vào ống nứa, đưa ống nứa đặt vào phên, lăn ống nứa ngược chiều khi cuộn bánh, chiếc bánh đa trải đều trên phên. Trước khi đưa bánh sang phên người ta tiếp tục đổ bột vào khuôn, khi đưa sang phên xong thì bánh trên khuôn chín. làm như vậy tiết kiệm thời gian.

* Phơi và đóng gói:

Khi phên nứa đã đặt đủ bánh mang ra phơi, khi ướt bánh dính vào phên, lúc khô bong ra. Khi bánh khô thu bánh quay vào cót để theo từng chồng. Nếu có khách mua thông thường người ta đóng bánh thành chục, lấy giấy báo bọc ngoài dùng dây buộc.

Bánh đa Kẻ Sặt đầu thế kỷ XX rất nổi tiếng và ăn khách, người ta không chỉ bán tại quê mà còn bán buôn đi nhiều thành phố, thị xã. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, nghề làm bánh đa ngọt sa sút. Sau hoà bình lập lại, 80% dân Kẻ Sặt di cư vào Nam. Đến năm 1991, bên cạnh nghề nông có tới 30% số hộ làm nghề buôn bán và tiểu thủ công nghiệp. Bánh đa ngọt chưa tìm được thị trường nên chỉ có 4 gia đình làm bánh, bằng 2% số hộ hiện có. Hiện nay, đời sống của nhân dân đã được cải thiện, khách sạn, nhà hàng phát triển nếu tiếp thị tốt và cải tiến về mặt sản xuất, bánh đa Kẻ Sặt hoàn toàn có cơ hội phục hồi và phát triển như bánh đậu, bánh gai.

9- Đặc Sản Mắm Cáy - Hải Dương

Trong khi trên thị trường nhan nhản các loại nước mắm được quảng cáo rầm rộ vẫn có thể bị người tiêu dùng "lãng quên", do không hợp khẩu vị, do nghi ngờ có hàm lượng u-rê, chất độc hại 3 MPCĐ cao..., thì nước mắm cáy vẫn chiếm được lòng tin của đông đảo người tiêu dùng. Bởi lẽ, mắm cáy được chế biến bằng phương pháp thủ công truyền thống với nguyên liệu chủ yếu là con cáy vùng nước lợ, muối và nước sạch.

Trên địa bàn tỉnh Hải Dương, con cáy có nhiều ở những vùng nước lợ như Thanh Hà, Kim Thành, Tứ Kỳ, Kinh Môn, Nam Sách... Nhưng nhiều hơn cả là vùng khu Hạ (Tứ Kỳ) và khu Hà Đông (Thanh Hà). Tuy nhiên, những năm gần đây, phần do ngọt hóa nguồn nước sông Thái Bình, sông Hồng, nhờ công trình thủy điện sông Đà; phần do nông dân dùng hóa chất trừ sâu, bệnh hại lúa, vải thiều, nên cáy ít dần. Chị Hoàng Thị May, một nông dân ở xã Hợp Đức (Thanh Hà) cho biết: “Trước đây, ở khu Hà Đông, cáy rất sẵn. Mỗi chiều những tháng mùa lũ, các chị đánh giậm dọc bờ cỏ ven đê, thu được hàng chục kg cáy. Những tháng khác trong năm (trừ các tháng mùa đông), mỗi ngày đi câu cũng thu 3-4 kg cáy. Nay thì kiếm được 2 kg cáy mỗi buổi đánh giậm và vài lạng cáy mỗi buổi đi câu cũng là nhiều lắm rồi".

Cáy được bán ở nhiều chợ trong tỉnh, với giá phổ biến 30 nghìn đồng/kg. Người kinh doanh mắm cáy, thường đến các chợ mua gom cáy về để chế biến. Dọc đường 391 thuộc địa phận huyện Tứ Kỳ, đường 37 thuộc địa phận huyện Ninh Giang, hay đường 183 thuộc địa phận huyện Nam Sách và Chí Linh, thậm chí ngay trong TP Hải Dương... có khá nhiều điểm bán mắm cáy. Chị Hà Thị Ly, một chủ quán chuyên kinh doanh mắm cáy ở xã Quang Phục (Tứ Kỳ), mỗi ngày bán được 5 lít mắm cáy, thu lãi 25 nghìn đồng. Nước mắm ở đây do chính tay người chủ quán chế biến. Chị Ly phải xuống chợ xã An Thanh để mua cáy về chế biến mắm. Chị kể: "Mắm cáy dễ chế biến, với công thức rất đơn giản, ai cũng làm được. Nếu muốn có mắm trong thì cứ 3 bát cáy, bóc yếm, rửa thật sạch, để nguyên con dùng một bát muối để muối cáy. Sau đó, rắc thêm một ít thính bằng gạo rang hoặc đỗ rang nghiền nhỏ, cho vào chum, bọc kín lại, chôn xuống đất. Một năm sau, đào lên, tuỳ theo lượng cáy nhiều hay ít, mà chế nước muối. Cứ 3 bát nước lã đun sôi, hoà tan một bát muối để pha chế, chắt bỏ bã cáy là được mắm cáy trong. Còn chế biến mắm cáy đục, thì cũng công thức trên, nhưng đem cáy giã nhỏ với muối, cho vào chum, bọc kín lại, để vào nơi kín gió, sau một tháng rưỡi, chế thêm nước muối là có mắm cáy đục để dùng. Ngoài những nguyên liệu trên, có thể dùng vỏ quýt, vài lát dứa chín để chế biến nước mắm, nhằm tăng hương vị cho mắm cáy. Nhưng nếu dùng bất cứ một thứ hoá chất nào, kể cả bột ngọt, bột nêm đưa vào khi bắt đầu công việc chế biến nước mắm cáy, đều làm hỏng mắm”.

Tuỳ theo chất lượng mắm cáy, giá bán chênh lệch nhau. Nhưng phổ biến từ 12 đến 25 nghìn đồng/lít mắm cáy trong. Mỗi thứ nước mắm dùng với một loại thực phẩm khác nhau sẽ đưa lại cảm giác ẩm thực riêng. Nước mắm đục, vắt thêm lát chanh, dùng làm nước chấm với rau muống, mồng tơi, bánh đúc, hay ăn với bún... Gần đây, mắm cáy đục còn dùng làm nước chấm thịt trâu, thịt bò luộc. Mắm cáy trong dùng để chấm thịt vịt, thịt ngan, thịt thỏ hay thịt lợn quay đều rất ngon.

Người tiêu dùng quan tâm sử dụng nước mắm cáy chính là cách họ chọn nhằm bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm cho mình và gia đình, tránh dùng phải nước mắm “ rởm” chứa hoá chất độc hại. Xu thế người tiêu dùng quay trở lại dùng mắm cáy truyền thống ngày một nhiều hơn. Bởi vậy, bảo vệ môi sinh vùng nước lợ, tạo thuận lợi cho loại đặc sản quý này tồn tại và phát triển càng trở lên cấp thiết.

10- Đặc Sản Cốm An Châu - Nam Sách

ComAnChauHaiduong.jpg


Xã An Châu trước đây thuộc huyện Nam Sách (nay thuộc thành phố Hải Dương), nổi tiếng với truyền thống làm nghề cốm, trong xã hiện có làng Chùa Thượng có nhiều hộ làm cốm ngon nhất. Không còn nhớ ông tổ của làng nghề mình là ai và không biết có từ thuở nào, đến nay người dân làng Chùa Thượng vẫn còn duy trì được nghề làm cốm truyền thống của tiền nhân để lại.

Truyện xưa kể rằng: Khi mùa lũ lụt đi qua miền quê ấy, những ruộng lúa chất chứa bao thành quả lao động của người nông dân bị ngập lụt, người dân phải cắt lúa non về sấy, rang cho khô để ăn dần qua cơn đói mất mùa… nhưng quả nhiên người dân lại không thể ngờ được những hạt thóc non vừa ngậm sữa khi rang lên, bỏ vỏ lại thấy thơm ngon, quyện dẻo và hấp dẫn kỳ lạ và sau này nhờ có những sáng tạo, cải tiến nên người Việt Nam ta mới có món cốm làng Vòng (Hà Nội), cốm làng Thạch (Hải Dương).

Để có được những mẻ cốm màu xanh, thơm, ngọt đượm và dẻo theo phương pháp truyền thống cũng khá kỳ công, những người già làng Chùa Thượng còn nhớ rất rõ cách làm cốm này. Cốm làng Chùa Thượng đã trở thành thương hiệu và nhanh chóng bay xa. Ngày xưa, cốm chỉ được làm vào mùa thu, mùa lúa non, nhưng hiện nay người làng Chùa Thượng làm cốm quanh năm. Theo truyền thống thì để có những hạt cốm ngon nhất, người dân phải gặt lúa nếp từ lúc “tám rưỡi” tức là từ lúc lúa còn non, hạt vừa chớm mẩy và căng sữa là thời điểm thích hợp nhất để gặt lúa về làm cốm, lúc đó cốm mới có vị thơm, dẻo và ngọt. Người nông dân tuốt lúa đem phơi qua nắng rồi cho vào rang.

Có hai loại cốm, nếu muốn có những hạt cốm rang bỏng thì để trên bếp rang kỹ hơn, sao cho hạt gạo nếp nở bung lớp trấu bên ngoài và giòn tan là được, tuy nhiên làm cốm dẻo cầu kỳ và công phu, đòi hỏi sự khéo léo hơn nhiều. Để có những mẻ cốm dẻo thì lúc rang thóc sao cho vừa đủ chín để lấy độ dẻo, rang xong thì đưa thóc vào cối giã cho bật lớp vỏ trấu bên ngoài. Người thợ làm cốm phải sàng sảy, nhặt nhạnh hết lớp vỏ bên ngoài chỉ để lại những hạt gạo nếp màu xanh non. Vậy là, mọi đồ dùng như thúng, mủng, nong, nia, giần, sàng được bày ra khắp nhà để phục vụ làm cốm.

Chị Vũ Thị Thêm ở làng Chùa Thượng chuyên làm cốm và mang đi bán tại khu du lịch Côn Sơn, Chí Linh, Hải Dương cho biết, nhà chị có truyền thống làm cốm từ lâu đời nhưng bây giờ không còn duy trì phương pháp làm cốm truyền thống nữa, thay vì dùng cối để giã thì nay dùng máy. Công đoạn sàng sảy cũng không còn vất vả, không chỉ làm cốm từ lúa nếp non, như vậy chỉ chính vụ mới có cốm. Ngày nay, người làng Chùa Thượng dùng cả thóc nếp già để làm cốm, chính vì vậy mà màu sắc của cốm không có màu xanh bắt mắt nữa mà thay vào đó là màu trắng và vị thơm ngon cũng kém hơn như vốn có. Người làng Chùa Thượng đã có sáng kiến làm cốm vào những mùa không chính vụ bằng cách lấy lá gừng hoặc lá cây mây nghiền nhỏ lấy nước cốt đồ lên cùng với cốm, một chút nước đường, bánh đậu xanh, cùi dừa… tạo nên sắc thái mới cho hương cốm và cũng không kém ngon so với cốm chính vụ”.

Cũng từ những hạt cốm đó, người dân lại chế biến ra các món bánh độc đáo mà nay trở thành đặc sản như bánh cốm, chả cốm, kem cốm, chè cốm… Thưởng thức món cốm giờ đây không phải chờ mùa thu mà mùa nào thực khách cũng có thể được nếm hương cốm quyến rũ. Đưa những hạt cốm nhỏ vào miệng ta cảm nhận vị ngọt đậm đà, dẻo quện và vô cùng gần gũi, thanh đạm với người làng quê.

11- Bún Cá Rô đồng - Hải Dương

Cá rô đồng thì nơi nào cũng có nhưng nếu muốn thưởng bát bún cá rô vừa thơm vừa đậm đà hương vị thì bạn phải về đất Hải Dương. Có lẽ do thổ nhưỡng vùng đất này đã sản sinh ra loại cá rô béo ngậy, ngọt đậm đà và cả cái không khí khiến người thưởng thức cảm thấy ấm áp và không thể nào quên.

BunCaRoDong.jpg

Bát Bún rô đồng - Đậm đà hương vị Hải Dương

Vào tháng tư âm lịch sau những đợt mưa rào là cá rô ngon nhất, các chị, các mẹ Hải Dương lại xăng xái vào bếp làm một bữa bún cá rô đãi cả nhà. Cá rô béo mua về sau khi đánh vảy, moi mang ruột sẽ được chia làm hai phần, một phần dành nấu nước dùng, một phần dành để bày ra tô. Nước dùng chỉ thuần túy cá rô, không thêm xương heo, cứ một phần cá tươi thì hai phần rưỡi nước nấu cho đến khi nào thịt và xương cá rã ra, nồi nước trong leo lẻo và đậm đà vị ngọt của cá thì đạt yêu cầu. Người ta cũng bỏ vào nước dùng sau khi nấu một ít gừng tươi đập dập cho mùi thơm thêm phần quyến rũ cũng như là át bớt mùi tanh của cá.

Những con cá được dành phần lại được luộc chín, bóc thịt ra riêng. Sau đó xào cùng chút hành tím, nước mỡ cho thơm. Đấy là hoàn tất công đoạn chuẩn bị. Các bà các mẹ sẽ bóc bún ra tô, sắp lên ít thịt cá đã xào thơm, thêm ít hành tiêu, chan vào nước dùng nóng. Sau đó dọn ra bàn cùng với nước mắm nguyên chất có vài khoanh ớt cùng đĩa rau thơm, bông chuối, rau muống là đã có một bữa ăn ra trò.

Được đến vùng đất Hải Dương bạn đừng quên thưởng thức món ăn tuy dân dã nhưng cũng không kém phần công phu này nhé.


................Vẫn còn nhiều đang chờ cập nhật mới.................
 
Chỉnh sửa lần cuối:

mauyeu

New Member
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

Cảm ơn Trưởng Bản đã sưu tầm cho AE biết thêm về lịch sử của Tỉnh mình
 

vutronghuyen

Active Member
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

Hải Dương nhiều đặc sản quá ,đọc bài của bác Cao Sơn ứa cả nước miếng !
 

ndnhd77

Member
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

Không phải cứ là người HD mà biết nhiều về HD , qua chủ đề này của Trưởng bản khiến anh em được biết nhiều hơn về nơi chôn rau cắt rốn của mình, hay thật đấy.=D>
 

pnd4189

Member
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

Còn món bún,bánh đa cá rô đồng nữa,bánh cuốn và chả rươi vừa mới chén xong,hehe:D,em thì khoái nhất món bánh cuốn,trên HN ăn ko = ở quê mình:)
 

caosonhd

BĐH HD Hải Dương
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

Còn món bún,bánh đa cá rô đồng nữa,bánh cuốn và chả rươi vừa mới chén xong,hehe:D,em thì khoái nhất món bánh cuốn,trên HN ăn ko = ở quê mình:)

OK, đúng là vậy, nhưng còn phải sưu tầm, đánh giá rồi mới có thể đưa lên trang nhất được, anyway cũng cám ơn bạn đã quan tâm về quê nhà...
 

caosonhd

BĐH HD Hải Dương
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

DANH NHÂN - HIỀN TÀI XỨ ĐÔNG

Hải Dương là vùng đất đã sinh dưỡng và hội tụ nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng. Ðó là những nhà quân sự, chính trị, ngoại giao, những nhà văn hoá, nhà khoa học, những vị tổ nghề được nhân dân cả nước ca tụng, tôn thờ. Dưới đây sẽ giới thiệu một số danh nhân tiêu biểu có cuộc đời và sự nghiệp gắn liền với mảnh đất Hải Dương.

Trần Quốc Tuấn (1226 - 1300)

Là con An Sinh Vương Trần Liễu, quê ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc - Nam Ðịnh.

Trần Quốc Tuấn là chủ soái của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thời Trần. Năm 1258, ông chặn đánh giặc Nguyên ở biên giới, góp phần quan trọng trong chiến thắng quân Nguyên lần thứ nhất. Tháng 6-1285, ông cầm quân giao chiến tại Vạn Kiếp (hương Vạn Kiếp, lộ Lạng Giang thời Trần; nay thuộc xã Hưng Ðạo, huyện Chí Linh, Hải Dương), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai. Tháng 8-1288, dưới sự lãnh đạo thiên tài của Trần Quốc Tuấn, quân dân nhà Trần đã làm nên chiến thắng trên sông Bạch Ðằng nổi tiếng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ ba. Ðội quân vô cùng hung hãn, từng tung vó ngựa xâm lược khắp từ châu Âu sang châu á phải cúi đầu bại trận trước khí thế anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam.

Tháng 4-1289, ông được phong là Quốc công tiết chế Hưng Ðạo Ðại Vương và lập đền thờ (gọi là Sinh Từ) ở Vạn Kiếp. Cuối đời, ông về sống ở Vạn Kiếp và mất tại đó vào ngày 3-9-1300. Ông được vua phong là "Thái sư, Thượng phụ, Thượng quốc công, Nhân vũ Hưng Ðạo Ðại Vương", nhân dân tôn xưng ông là Ðức Thánh Trần. Những chiến công oanh liệt của Trần Hưng Ðạo mãi mãi lưu dấu trong sử sách, tên tuổi ông gắn liền với những địa danh nổi tiếng: Vạn Kiếp, Bạch Ðằng. Trần Quốc Tuấn đã phát huy cao độ truyền thống giữ nước của dân tộc, cùng với triều đình phát động thành công cuộc chiến tranh toàn dân, đánh bại đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới cùng những tướng lĩnh sừng sỏ lúc đó, đè bẹp ý chí xâm lược của quân thù. Gần nửa thế kỷ chỉ huy quân đội, thiên tài quân sự của ông được khẳng định trên hai lĩnh vực: lý luận và thực tiễn. Ông là người nắm vững tri thức quân sự đương thời, có tầm nhìn chiến lược sâu sắc. Trên cơ sở kế thừa tinh hoa quân sự của các triều đại trước cùng những kinh nghiệm đúc rút từ những năm tháng cầm quân đánh giặc, ông đã chấp bút lưu lại cho đời sau những thiên sách quý báu như Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ,...

Ðền Kiếp Bạc thuộc xã Hưng Ðạo (Chí Linh) là khu tưởng niệm lớn của cả nước, di tích lịch sử được xếp hạng đặc biệt quan trọng, hàng năm, nhân dân khắp nơi trong nước về dự hội đền từ ngày 15 đến 20 tháng 8 âm lịch.

Mạc Ðĩnh Chi (1272 - 1346)

Tự là Tiết Phu, người làng Lũng Ðộng, huyện Chí Linh (nay là xã Nam Tân, Nam Sách). Ông thông minh hơn người song vóc dáng nhỏ bé, tướng mạo xấu xí. Khi mới đỗ Trạng nguyên năm 1304, Trần Nhân Tông chê ông xấu, ông làm bài phú "Ngọc tỉnh liên", tự ví mình với bông hoa sen. Vua khen hay và cất nhắc làm Thái học sinh dũng thư, sung chức Nội gia thư. Năm 1308, ông được cử đi sứ nhà Nguyên. Nhiều giai thoại còn truyền lại về tài ứng đối và biện luận của ông trong dịp đi sứ này.

Mạc Ðĩnh Chi ra mắt vua Nguyên cùng với sứ Cao Ly. Nhân có sứ thần ngoại quốc dâng chiếc quạt, vua Nguyên yêu cầu Mạc Ðĩnh Chi và sứ Cao Ly làm thơ đề quạt. Mạc Ðĩnh Chi xong trước, vua Nguyên xem xong gật gù khen và phê vào 4 chữ "Lưỡng quốc trạng nguyên".

Mạc Ðĩnh Chi là một trong những kỳ tài trong nền văn học nước ta. Cuộc đời, sự nghiệp cùng với những câu chuyện giàu chất truyền thuyết về ông được nhân dân ta truyền tụng, giữ gìn. Ông làm quan trải 3 triều vua, được thăng tới chức Tả bộc xạ Nhập nội hành khiển.

Tính ông ngay thẳng liêm khiết, được người đương thời trọng vọng, khâm phục. Sau khi trở về quê, ông mở trường dạy học. Nơi ông dạy học được nhân dân trong vùng gọi là "Trạng nguyên cổ đường" (Ngôi nhà xưa của quan trạng). Ông là đại biểu cho sự thanh cao của nho sĩ đương thời.

Chu Văn An (1292 - 1370)

Hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì - Hà Nội. Ông thi đậu Thái Học sinh (Tiến sĩ), từng làm Tư nghiệp Quốc tử giám. Ðời Trần Dụ Tông, ông dâng sớ xin vua chém 7 tên nịnh thần (người đời gọi là Thất trảm sớ) song không được chấp thuận nên ông đã từ quan. Noi gương thầy, các học trò của ông nhiều người đỗ đạt cao song vẫn giữ đức thanh liêm mẫu mực.

Sau khi rời bỏ chốn quan trường, Chu Văn An đến núi Phượng Hoàng, xã Kiệt Ðặc (nay là xã Văn An, huyện Chí Linh) dựng nhà dạy học, làm thuốc chữa bệnh, làm thơ, viết sách và tự đặt tên là Tiều ẩn. Tuy vậy, mỗi khi triều đình có đại sự đều mời ông tham dự. Sau khi mất, ông được truy tặng tước Văn Trình Công và được thờ tại Văn Miếu - Quốc tử giám. Ông còn để lại nhiều thi tập có giá trị như: Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước,...

Nguyễn Bá Tĩnh (1330-1400)

Nguyễn Bá Tĩnh, pháp hiệu là Tuệ Tĩnh Thiền Sư, biệt hiệu: Hồng Nghĩa, người làng Nghĩa Phú - tổng Văn Thai - Cẩm Giàng, nay là xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng.

Năm Tân Mão (năm 1351), ở tuổi 22, ông đỗ Hoàng giáp, được phong chức Bình Tây tướng quân. Nửa cuối thế kỷ XIV, nhà Trần suy yếu, chính sự rối ren, ông từ quan, đi chu du thiên hạ làm nghề thuốc cứu giúp dân lành. Quan điểm của ông là "Thuốc Nam Việt trị bệnh người Nam Việt". Ông sử dụng cây cỏ nước Nam để chữa bệnh, dùng các bài thuốc và phương pháp điều trị được lưu truyền trong dân gian như: chườm, châm cứu, xoa bóp,...

ông được cử đi sứ nhà Minh năm Giáp Tý (năm 1384). ở Trung Quốc, ông chữa khỏi bệnh cho vợ vua và được phong là "Ðại y Thiền sư". Thấy ông giỏi y thuật, vua Minh giữ lại không cho về. Tại đây, ông vẫn làm thuốc và viết sách. Ngày 15-2-1400, ông mất tại Giang Nam, Trung Quốc. Tương truyền, trên mộ chí, mặt sau bia đá có khắc lời nhắn: "Về sau có ai bên nước nhà sang, nhớ cho hài cốt tôi về với".

Thiền sư Tuệ Tĩnh được giới y học và nhân dân tôn là Y Thánh, lập miếu thờ tại Hà Nội. Suốt đời cống hiến cho sự nghiệp y học, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Bộ sách "Nam Dược thần hiệu" của ông giới thiệu 580 vị thuốc Nam và 3.873 phương thuốc điều trị 184 loại bệnh. Tuệ Tĩnh là người có công đặt nền móng xây dựng y học dân tộc thưở sơ khai.

Tại Cẩm Giàng ngày nay còn một số di tích về Tuệ Tĩnh như đền Xưa, đền Bia, chùa Giám. Năm 1973 chùa Giám, nơi Tuệ Tĩnh ở lúc sinh thời, được chuyển vào trong đê để tránh lũ lụt, cách di tích cũ 8 km. Năm 1989, chùa Giám được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật quốc gia. Hàng năm, vào ngày 15 tháng 2 âm lịch, nhân dân vẫn mở hội tưởng niệm ông.

Nguyễn Trãi (1380 - 1442)

Hiệu là ức Trai. Tổ tiên ông vốn ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Nhỡn, nay là xã Cộng Hoà, Chí Linh. Cha ông là Nguyễn Ứng Long thiên cư về làng Nhị Khê (tên cũ là làng Ngọc Ổi) huyện Thường Tín - Hà Tây. Mẹ là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Ðán, Tể tướng nhà Trần.

Lúc trẻ, tài văn chương của Nguyễn Trãi đã nức tiếng gần xa, kinh, sử, bách gia, bình thư thao lược đều am hiểu cả. Năm 20 tuổi, ông đỗ Thái Học sinh. Hai cha con cùng làm quan, ông giữ chức Chính trưởng đài ngự sử.

Năm 1407, nhà Minh sang xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh - thân phụ của ông bị bắt giải về Kim Lăng, Trung Quốc. Nguyễn Trãi theo cha đến ải Nam Quan. Theo lời dạy của cha: "Hãy trở về tìm kế cứu nước, trả thù cho cha", Nguyễn Trãi đã gạt nước mắt quay về. Trên đường trở về, không may ông sa vào tay giặc và bị giam lỏng ở Ðông Quan (Hà Nội).

Ðời vua Lê Thái Tông, nịnh thần đầy rẫy, ông từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn. Năm 1442, vua lại vời về triều, ông làm chính giám thị kỳ thi tiến sĩ. Ðúng lúc đó, nhân vụ án Lệ Chi Viên, bọn gian thần kiếm cớ buộc tội ông chủ mưu giết vua và kết án chu di tam tộc. Ông mất ngày 19-9-1442. Ðời Lê Thánh Tông, năm 1464, ông được vua minh oan và truy phong tước cũ.

Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, là thiên tài trên nhiều lĩnh vực: tư tưởng, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn học,... Ông để lại nhiều tác phẩm như ức Trai Dư địa chí, ức Trai Thi tập, Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn Thực lục,... Ghi nhận những đóng góp xuất sắc của Nguyễn Trãi đối với sự phát triển của dân tộc Việt Nam và sự phát triển những giá trị nhân văn nhân loại, năm 1980, tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) đã phong ông là danh nhân văn hoá thế giới.

Nguyễn Thị Duệ (1574- ?)

Nguyễn Thị Duệ còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Toàn, Nguyễn Thị Du; hiệu là Diệu Huyền, tự là Tinh Phi. Nguyễn Thị Duệ người làng Kiệt Ðặc (nay là xã Văn An, huyện Chí Linh). Bà là người tuyệt sắc, lại thông minh. Cụ thân sinh ra bà tiếc tài con gái, đồng ý cho bà cải trang nam giới đi học và ứng thi.

Lịch sử ghi lại rằng: Nhà Mạc mở khoa thi Hội, bà đỗ đầu. Khi mở tiệc đãi các tân khoa, vua Mạc phát hiện sự giả mạo trên, song không phạt mà còn nạp cung, phong làm Tinh Phi, ngụ ý khen bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như vì sao. Thời chúa Trịnh, bà giữ chức Lễ Sư dạy dỗ trong Vương phủ. Nguyễn Thị Duệ nổi tiếng là người có tri thức uyên thâm, văn chương xuất chúng, sống vị tha và đặc biệt quan tâm đến giáo dục. Những kỳ thi hội, thi đình bà đều được xem lại văn bài của những người đỗ đạt. Bà có công lớn trong việc giúp đỡ lớp sĩ tử tại Chí Linh.

Bên cạnh mộ bà (thuộc núi Từ Ngư, làng Kiệt Ðặc), nhà Nguyễn đã cho xây dựng Tinh Phi cổ tháp, được liệt vào hạng "Chí Linh bát cổ".

Nguyễn Lương Bằng (1904 - 1979)

Nguyễn Lương Bằng sinh ra trong một gia đình nghèo tại xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, lớn lên làm công nhân tàu biển, gia nhập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội do Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châu - Trung Quốc. Cuối năm 1926, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được phái về nước hoạt động. Năm 1929, Nguyễn Lương Bằng sang Trung Quốc nhận nhiệm vụ giao thông liên lạc giữa Quảng Châu với Hồng Kông; tuyên truyền vận động binh lính Pháp, Việt kiều và một số công nhân nhà máy Dieden đấu tranh.

Ngày 31-5-1931, mật thám Anh theo dõi và bắt đồng chí ở Quảng Châu - Trung Quốc. Ðầu năm 1932, chúng đưa đồng chí về Sở Mật thám Hải Dương. Khoảng tháng 8-1932, chúng đưa đồng chí về nhà giam Hoả Lò, Hà Nội.

Ðêm 24-12-1934, đồng chí Nguyễn Lương Bằng vượt ngục trở về Hải Dương. Tại ấp Dọn (xã Thái Dương, huyện Bình Giang), đồng chí viết báo và ra tờ báo lấy tên là "Công Nông". ở Hải Dương được ít ngày, đồng chí bị địch bắt trong chuyến đi liên lạc với cấp trên.

Năm 1944, sau khi vượt ngục Sơn La, Nguyễn Lương Bằng được chỉ định là Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, phụ trách tài chính và binh vận, là Bộ trưởng Bộ Tài chính của Tổng bộ Việt Minh. Nguyễn Lương Bằng đã đảm nhiệm các chức vụ Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, Ðại sứ đặc mệnh toàn quyền ở Liên Xô, Tổng thanh tra của Chính phủ, Phó Chủ tịch nước. ở bất kỳ cương vị công tác nào, đồng chí Nguyễn Lương Bằng cũng luôn là tấm gương sáng về đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và tác phong cần cù, giản dị.

Lê Thanh Nghị (1911 - 1989)

Tên thật là Nguyễn Khắc Xứng, thuộc dòng dõi nho học tại làng Thượng Cốc, xã Gia Khánh, huyện Gia Lộc. Từ năm 16 tuổi, Lê Thanh Nghị đã làm công nhân tại Hải Phòng, Quảng Ninh. Tham gia phong trào công nhân vùng mỏ, đồng chí được kết nạp Ðảng năm 1929. Bị địch bắt, Lê Thanh Nghị bị kết án tù chung thân và bị đầy ra Côn Ðảo. Năm 1936, chính phủ của Mặt trận bình dân Pháp lên cầm quyền tại Pháp, Lê Thanh Nghị ở trong số tù chính trị được ân xá. Cuối năm 1937, cấp trên cử đồng chí về Hải Dương và trực tiếp vào làm việc ở Nhà máy Nước Ninh Giang. Giữa năm 1938, tại nhà đồng chí Hiểu, số 14 phố Chợ Tây, thị xã Hải Dương, đồng chí Lê Thanh Nghị đã triệu tập cuộc họp gồm đại biểu các huyện, thị xã để bầu ra Ban lãnh đạo Ðoàn Thanh niên Dân chủ. Tháng 8-1938, được sự đồng ý của đồng chí Hoàng Văn Thụ, đồng chí Lê Thanh Nghị đã thành lập chi bộ Ðảng Cộng sản Nhà máy Nước Ninh Giang gồm 4 người, do đồng chí trực tiếp làm bí thư.

Sau năm 1954, đồng chí Lê Thanh Nghị giữ chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp. Nhiều năm đồng chí là Phó Thủ tướng Chính phủ, kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước. Từ năm 1982 đến năm 1987, đồng chí Lê Thanh Nghị giữ cương vị Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Nhà nước.

Ðây chỉ là 8 trong số hàng trăm người con ưu tú của dân tộc đã ghi dấu sự nghiệp của mình trên đất Hải Dương. Người dân Hải Dương còn tự hào là hậu duệ của những danh nhân như Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Dữ, Nguyễn Hữu Cầu,... "Người là hoa của đất", tên tuổi của những người đức rộng, tài cao, những người có công với dân với nước vẫn lưu danh muôn thuở, luôn là niềm tự hào, là tấm gương cho con cháu noi theo.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

caosonhd

BĐH HD Hải Dương
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

Trần Công Hiến – người chỉ huy xây dựng Thành Đông

14 năm làm Trấn thủ Hải Dương, Trần Công Hiến rất quan tâm đến bảo tồn di sản văn hóa dân tộc nên đã cho xây dựng nhà in Hải Học đường. Ông cũng người chỉ huy xây dựng Thành Đông xưa.

Trấn Công Hiến, nguyên quán ở huyện Gia Phúc, theo chúa Nguyễn vào Nam, trú quán ở làng Trương Nghĩa (Quảng Ngãi). Ông xuất thân trong một gia đình nho học, thuở nhỏ theo đòi bút nghiên, nhưng khi trưởng thành lại theo nghề võ. Trần Công Hiến làm võ tướng thời Nguyễn Phúc Ánh, lập nhiều công trạng, được phong làm Trung quân chính thống hậu đồn, kiêm lý Ngũ đồn rồi Khâm sai chưởng cơ, Trấn thủ ở Hải Dương; tước Ân Quang hầu. Ông là một nhân vật quan trọng trong bộ tham mưu quân sự của Nguyễn Ánh.
Trong 14 năm làm Trấn thủ Hải Dương, Trần Công Hiến không những quan tâm đến đời sống dân chúng mà còn rất chú ý đến giáo dục, thi cử, biên thuật và trước tác. Ông tập hợp được một số người cùng quan tâm đến di sản văn hóa dân tộc như Đốc học Trung Chính Bá, Trợ giáo Thời Đức Nam… xây dựng nhà in “Hải Học đường” qui mô bề thế với nhiều ấn phẩm có chất lượng học thuật cao. Có thể nói, họ là những người góp phần đặt nền tảng cần thiết cho công việc phát triển giáo dục Nho vương triều Nguyễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước.

Nhắc đến các ấn phẩm của Hải Học đường không thể không nhắc đến “Hải Dương phong vật chí” của Trần Công Hiến. Sách ghi chép tỉ mỉ về vùng đất văn hiến Hải Dương, từ núi sông, đường sá, nhân vật, phong tục, thổ nghi đến bách công kỹ nghệ đều được khảo cứu cẩn thận, mô tả kỹ càng. Nội dung này còn được diễn ca thành “Hải Dương phong vật khúc”.

Những ấn phẩm của Hải Học đường đều thể hiện tấm lòng yêu tha thiết văn học, văn hóa dân tộc, qua đó khẳng định vai trò của Hải Học đường trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX.
Trần Công Hiến cũng là người chỉ huy xây dựng Thành Đông theo kiệu Vô Băng của Pháp.

Ngày 12-9 năm Bính Tý (1816) ông mất tại nhiệm sở. Sau khi mất, dân làng Đôn Thư, huyện Gia Lộc tôn ông làm Thành hoàng.

Chuyện về Trần Công Hiến

Vì sử cũ của triều Nguyễn ghi chép không đầy đủ hoặc bị thất lạc nên cho đến ngày nay, không ai biết chính xác Trần Công Hiến sinh vào năm nào mà chỉ biết rằng ông mất năm Đinh Sửu (1827). Trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện phần sơ tập có đoạn viết về ông như sau:

Trần Công Hiến là người Quảng Ngãi, lúc trẻ thường theo phò chúa Nguyễn Phúc Ánh, đến khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua tức Hoàng đế Gia Long, ông được bổ làm quan và về sau được thăng đến chức trấn thủ trấn Hải Dương. Khi trấn nhậm ở Hải Dương, ông là người đưa ra chủ trương đắp đê ngăn nước mặn, tạo ra được hơn 800 mẫu đất cho nhân dân trong vùng làm ruộng, khiến cho nhân dân được cậy nhờ.

Cũng từ đó, người dân Hải Dương tưởng nhớ công lao của ông bằng cách gọi con đê ngăn nước mặn ấy là đê Trần Công (con đê do ông quan họ Trần chủ trương đắp nên). Đồng thời, trong thời gian trấn nhậm ở Hải Dương, Trần Công Hiến cũng là người tổ chức biên soạn nhiều bộ sách khá lớn. Ông đã tự mình nghiên cứu và viết cuốn Hải Dương phong vật kí rất có giá trị.

Ngoài ra, ông còn đứng ra tổ chức việc khắc in những sách quý của các triều đại trước. Công việc này của ông đã đóng góp rất lớn vào việc bảo vệ kho tàng cổ thư của nước nhà. Trần Công Hiến mất tại Hải Dương năm Đinh Sửu (1827). Do chưa rõ năm sinh nên không biết ông thọ bao nhiêu tuổi.

Sinh thời, Trần Công Hiến nổi tiếng là người công minh và thanh liêm. Tuy nhiên, việc khiến cho người đời nhớ tới ông nhiều nhất lại là chuyện ông xét án. Cũng trong sách trên đã chép rằng:

Trần Công Hiến là người công bằng và thanh liêm, xét xử được nhiều vụ kiện còn ứ đọng, trừ được mối hại cho dân. Có một vụ án mạng để đã khá lâu mà chưa tra xét được, triều đình đốc thúc rất nghiêm ngặt. Trần Công Hiến rất lấy làm lo. Một hôm đang ở giữa công đường, ông mệt quá đành tựa lưng vào ghế mà ngủ tạm. Trong cơn mơ màng, chợt ông nghe tiếng nói văng vẳng bên tai: - Con rết đánh bạc!

Tỉnh dậy, ông nghĩ rằng, kẻ tội phạm có lẽ họ Ngô tên Công chăng (âm Hán Việt, ngô công là con rết. Và ông cho rằng kẻ gây án chỉ vì hơn thua cờ bạc mà đã giết người. Vì vậy, ông chỉ tra khảo một lần là hắn nhận ngay. Mọi người đều cho là ông xét án tài như thần.

Lại có chuyện kể rằng: ở phía Tây thành của trấn Hải Dương có một cây cổ thụ loài chuột đến đó làm hang rồi lâu ngày hóa thành yêu tinh, ai cũng thấy làm lo. Trần Công Hiến vừa mới tới nhậm chức đã sai chặt ngay cây ấy. Một đêm, ông đang nằm trong màn và chợt thấy một vật gì sáng như bó đuốc bay quanh, bèn đưa tay bắt lấy nhưng khi đó vật sáng cũng biến mất. Trần Công Hiến liền thắp đèn lên xem thì thấy một con chuột chết ở trong tay. Yêu quái từ đó không còn nữa.

Lời bàn:

Làm quan không những hoàn thành xuất sắc trọng trách được nhà vua giao phó, mà còn biết lo cho trăm họ có ruộng để cấy cày, có việc để làm, có cơm để ăn thì làm sao người dân không kính trọng cho được. Và từ thượng cổ cho tới nay, những người làm quan như vậy bao giờ cũng được người dân tôn vinh và không bao giờ quên ơn. Vì thế, con đê ở vùng Hải Dương ngày ấy tuy mang tên Trần Công Hiến, nhưng thực ra nó mang nặng tấm lòng không gì so được của người dân trăm họ trong vùng đối với ông. Và không những biết lo cho dân, Trần Công Hiến còn canh cánh nỗi lòng bảo tồn vốn cổ của tổ tiên, ông cho khắc chữ để in sách quý của các bậc tiền bối để truyền bá cho đương thời và hậu thế. Cũng nhờ vào công lao ấy của ông mà ngày nay hậu thế biết và hiểu về một vùng đất địa linh nhân kiệt này.

Từ xưa cho tới nay, người làm quan trong thiên hạ nhiều không thể kể xiết, nhưng những người có tài lo việc nước, lại có tâm, có đức và sống nhân nghĩa với dân như Trần Công Hiến thì chẳng có mấy ai. Ngược lại, những kẻ chỉ biết đến mình và chẳng bao giờ giúp ai điều gì song lúc nào cũng cứ muốn người khác phải vì mình thì lại không hiếm. Song, lẽ đời đâu phải như vậy, vì ai tốt, ai xấu, ai biết vì mọi người thì thiên hạ đều biết cả và họ chỉ nói ra đúng lúc, đúng chỗ cần phải nói.
 

caosonhd

BĐH HD Hải Dương
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

CHÙM ẢNH CỦA HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY:


Đã sưu tầm được rất nhiều ảnh cổ của Hải Dương nhưng nay tìm mãi không biết để ở cái HDD nào nữa....các Bác cứ chờ nhé......


................Vẫn còn nhiều đang chờ cập nhật mới.................
 
Chỉnh sửa lần cuối:

vutronghuyen

Active Member
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

Đọc những bài này xong càng thấy gắn bó với Hải Dương hơn!=D>
 

mtv08

Well-Known Member
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

Tôi lại buồn vì đọc những bài này vì ngày mai tôi phải xa HD đi về miền quê xa lắc lơ...........
 

huanpl

New Member
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

Tại Nam Sách còn là nơi mai táng Vũ Hồn, thủy tổ của một dòng họ Vũ/Võ của Việt Nam và Thành hoàng của làng Mộ Trạch giàu truyền thống khoa bảng.
Nằm ở thị trấn Sao Đỏ, huyện Chí Linh, Hải Dương, 48km từ Hà Nội, trên đường tới vịnh Hạ Long
Hai cái này không chính xác bác ơi
 
Chỉnh sửa lần cuối:

caosonhd

BĐH HD Hải Dương
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

Hai cái này không chính xác bác ơi

Cảm ơn Bác đã góp ý, nhưng bác cũng xem lại xem nhé:

A- Tại Nam Sách còn là nơi mai táng Vũ Hồn, thủy tổ của một dòng họ Vũ/Võ của Việt Nam và Thành hoàng của làng Mộ Trạch giàu truyền thống khoa bảng.

Cái này là chính xác, Bác hỏi lại những người mang gia phả họ Vũ/Võ tại Hải Dương sẽ rõ. Dưới đây là bài viết của 2 hậu duệ nhà họ VŨ, Bác xem qua nhé:

Vài nét về Dòng họ Vũ (Võ) ở Việt Nam

Tác giả: Vũ Thị Thành – Vũ Sáng

Ở Việt Nam, dòng họ Vũ (Võ) là một trong số rất ít dòng họ xác định được nguồn gốc chung vừa rõ ràng, vừa lâu đời.

Theo cổ sử, khoảng năm 300 trước công nguyên, các dân tộc Việt thuộc dòng Bách Việt bị người phương Bắc chèn ép, phải lùi xuống phía nam, hình thành 4 quốc gia riêng biệt là Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt và Lạc Việt. Trong hơn 1.200 năm sau đó, 4 quốc gia này liên tục bị người phương Bắc tìm cách thôn tính, người Bách Việt liên tục bị người Hán tìm cách đồng hoá. Tới năm 960, khi nhà Tống áp đặt được ách thống trị lên toàn cõi Trung Hoa thì trên bản đồ chỉ còn lại vùng đất châu Giao còn những người Việt chưa bị Hán hoá, nhưng cũng đã bị người Hán áp đặt sự cai trị từ khá lâu rồi.

Bấy giờ, ở thôn Mã Kỳ – xã Long Khê – phủ Thường Châu – tỉnh Phúc Kiến có dòng họ Vũ gốc Mân Việt nổi tiếng là nhân đức, thời nào cũng có nhiều người làm thày giáo giỏi, làm quan thanh liêm. Một trong số các vị đó là Vũ Công Huy làm quan nhà Đường, có chính thất là Lưu Thị Phương. Khi tuổi đã ngoại 60 mà vẫn chưa có con trai, Vũ Công Huy thường than phiền: “Tiền rừng bạc bể dễ như cỏ cây, con hiếu cháu hiền quý hơn vàng ngọc” rồi sau đó cáo quan, về quê. Vốn trên thông thiên văn, dưới tường địa lí, nay lại không còn vướng bận việc công, Vũ Công Huy liền đi thăm thú các nơi. Tới đất Châu Giao, thấy ở vùng đồng bằng thuộc huyện Nam Sách – tỉnh Hải Dương ngày nay có 100 gò đất hình tròn chầu xung quanh một gò cao nhất, tạo thành thế “bách nhạn hội sào” (một trăm con chim nhạn quây quần về tổ) rất quý, Vũ Công Huy bèn về quê, đem hài cốt cha là Vũ Công Oanh (tức Vũ Tiên Oanh) sang táng ở gò đất cao nhất, tục gọi là Đống Dờm. Tới đầu triều Lê có quan tham chính Trần Xuân Án người xã An Lạc – huyện Thanh Lâm được thày địa lí là Nguyễn Trọng Diệu chỉ cho Đống Dờm để táng mộ tổ. Khi đào lên, thấy một bia đá đề “Đường An, Khả Mộ, Vũ thị tổ mộ”, Trần Xuân Án bèn bỏ đi tìm nơi khác, đồng thời báo cho người họ Vũ ở làng Mộ Trạch biết để bái tảo. Ngày nay, tấm bia ấy vẫn còn nguyên ở chỗ cũ.

Ngoài xây cất mộ cha ở Đống Dờm, Vũ Công Huy còn tạo lập cơ ngơi gần đó để an hưởng tuổi già. Ít lâu sau, thấy ở làng Mạn Nhuế có người con gái tên là Nguyễn Thị Đức gốc nhà gia giáo, tính tình đôn hậu, nói năng dịu dàng, Vũ Công Huy rất lấy làm cảm mến nên cậy nhờ người đứng ra tác thành hôn sự. Hơn một năm sau, Nguyễn Thị Đức có thai. Gần tới kì sinh nở, vợ chồng cùng trở về cố hương. Tới đêm mùng 8 tháng giêng năm Giáp Thân (804), khi trên trời bỗng có một áng mây vàng hình tròn bay lơ lửng che xuống sân nhà, làm sáng rực cả một khu đất rộng thì Nguyễn Thị Đức hạ sinh một người con trai diện mạo “mày vua Nghiêu, mắt vua Thuấn, vai vua Thang, lưng vua Vũ”. Cả nhà vô cùng mừng rỡ. Vũ Công Huy đặt tên con là Vũ Hồn (chữ Hồn có nghĩa là hồn nhiên, ôn hoà, thông minh).

Bản ngọc phả họ Vũ hiện còn lưu ở đình làng Mộ Trạch do Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính sao từ chính bản năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) có đoạn viết về Vũ Hồn như sau: “Năm 7 tuổi bắt đầu đi học, sách vở xem qua một lượt đã nhớ hết. 12 tuổi học đã tinh thông văn chương, qua cửa Trình, cửa Chu, học lực vượt họ Âu, họ Tô, thi tài cùng ông Lý, ông Đỗ”. Năm Canh Tí (820), Vũ Hồn 16 tuổi, thi đình đỗ đại khoa, được vua Đường khen là người tài thứ nhất trong thiên hạ, phong làm Lễ bộ tả thị lang; năm Canh Thân (840) được thăng Đô đài ngự sử, coi sóc việc quan quyền trong triều; năm Tân Dậu (841) được thăng An Nam đô hộ sứ. Các bộ chính sử đều đề cập việc này. Ví dụ: An Nam chí lược (do Lê Tắc soạn năm 1355) ghi: “Vũ Hồn làm An Nam kinh lược, năm Hội Xương thứ ba” (tức năm 843); Việt sử lược (được soạn khoảng năm 1377) có ghi tên Vũ Hồn trong danh sách các quan cai trị An Nam thời Đường; Đại Việt sử kí toàn thư (do Lê Quý Đôn soạn năm 1479) ghi: “Tân Dậu (tức năm 841) Đường Vũ Tôn Viêm, Hội Xương năm thứ nhất, nhà vua xuống chiếu lấy Vũ Hồn làm kinh lược sứ thay Hàn Ước”.

Quay trở lại làm quan đứng đầu quê mẹ, Vũ Hồn thường về làng Mạn Nhuế viếng mộ ông nội và đi kinh lí các vùng. Tới vùng Lạp Trạch, thấy thế đất đúng như 4 câu tương truyền “Muốn cho con cháu làm quan – Thì tìm thiên mã phương Nam đứng chầu – Muốn cho kế thế công hầu – Thì tìm chiêng trống bày chầu hai bên”, Vũ Hồn bèn hoạ đồ, cắm đất, mộ dân, lập ấp, đặt tên Khả Mộ (đáng mến), sau đổi là Mộ Trạch (nay là thôn Mộ Trạch – xã Tân Hồng – huyện Bình Giang – tỉnh Hải Dương).

Vũ Hồn thường tâm sự với người thân: “Người xưa lấy việc được phụng dưỡng cha mẹ già một ngày còn hơn làm đến tam công (ba ông quan to nhất trong triều). Nay ta còn mẹ tuổi đã già, chẳng lẽ ham quyền cao chức trọng mà sao nhãng việc đó ư?”. Lại nhân triều Đường chia rẽ, bè phái, Vũ Hồn bèn cáo quan, về quê cha đón mẹ sang đất Khả Mộ để ngày đêm phụng dưỡng. Ấy là năm Giáp Tý (844). Vài năm sau mẹ mất, Vũ Hồn đem linh cữu mẹ chôn cất ở tổng Kiệt Đặc (nay là thôn Kiệt Thượng thuộc xã Văn An – huyện Chí Linh – tỉnh Hải Dương) là nơi thế đất đẹp đầu hướng về dãy núi Phượng hoàng chân hướng phía Lục Đầu Giang “Đầu gối sơn, chân đạp thuỷ”. Về ngôi mộ của vị tổ mẫu này, báo An ninh thế giới số 603 ngày 08/11/2006 đã có bài đăng rất chi tiết.

Ở Khả Mộ, Vũ Hồn vừa dạy học, vừa bốc thuốc chữa bệnh cho dân, sống rất nhân hậu nên được dân trong vùng ví như mặt trăng, mặt trời, kính yêu như cha mẹ, suy tôn là “hương thuỷ tổ” (ông tổ của quê hương). Ngày mùng 3 tháng chạp năm Quý Dậu (853), Vũ Hồn đang ngồi dạy học thì thấy trong người không yên rồi tự nhiên mà mất, thọ 49 tuổi. Dân làng an táng Vũ Hồn tại một gò cao ở cánh đồng phía bắc làng (gọi là Mả Thần). Vừa hạ huyệt bỗng mây đen kéo tới, trời đất tối sầm, mưa như trút. Lát sau mưa tạnh, mây tan, nắng lại chiếu sáng rực. Mọi người bừng tỉnh thì thấy kiến, mối đã đội đất đắp cho ngôi mộ thành ra rất to. Dân làng lấy làm lạ, vội đi báo quan. Quan bảo: “Đó là điều kì lạ, chứng tỏ người rất thiêng, dân hãy lập miếu thờ”. Dân làm theo ngay. Quan cũng dâng sớ lên, nhà vua nhận được liền ban sắc phong Vũ Hồn là “Thượng đẳng phúc thần”. Vũ Hồn được coi là thần tổ của dòng họ Vũ (Võ) Việt Nam, là thành hoàng của làng Mộ Trạch từ đó.

Trải qua các triều đại xưa, đức thần tổ Vũ Hồn, thành hoàng làng Mộ Trạch đã được các vị vua ban tặng rất nhiều sắc phong nhưng nay chỉ còn lưu giữ được 12 đạo. Triều Trần phong “Thông minh, tuệ trú, hùng kiệt, trác vĩ, thượng đẳng thần”, nghĩa là “Vị thần bậc trên thông minh, trí tuệ, mạnh mẽ, rộng rãi”. Triều Lê sơ phong “Tế thế, an dân, kinh phù, ngưng hiệu, thượng đẳng thần”, nghĩa là “Vị thần bậc trên giúp đời, yên dân, thiêng giúp, ứng lớn”. Triều Lê mạt, phong 6 lần: năm Long Đức thứ hai (1732), phong “Phù cảm, huy quốc, tuy dân”, nghĩa là “Linh ứng, giúp nước, yên dân”; năm Vĩnh Hiệu thứ ba (1737) phong “Châu linh, hiển uý, thịnh liệt”, nghĩa là “Thật thiêng, ứng thấy ngay, rất thịnh”; năm Cảnh Hưng thứ nhất (1740) phong “Hoành hiệu, diên phúc, dụ hậu”, nghĩa là “Vui lớn, phúc lâu, giàu bền”; năm Cảnh Hưng thứ mười tám (1767) phong “Khải văn, thiệu vũ, đốc khánh”, nghĩa là “Mở nền văn, gây nghiệp vũ, dốc lòng về phúc”; năm Cảnh Hưng thứ bốn mươi (1779) phong “Diểu quang, khuông lộ, xương dấu”, nghĩa là “Mở rộng vinh, mở rộng phúc, thịnh vượng lâu dài”; năm Chiêu Thống thứ nhất (1787) phong “Thuần hổ, hồng hi, phu mĩ”, nghĩa là “Thọ, phúc lớn, tốt đẹp”. Triều Tây Sơn, năm Quang Trung thứ nhất phong (1788) “Di trạch, nghiên cổ, hoằng dụ, phổ khánh”, nghĩa là “Ơn lớn, tốt đẹp, giàu có, phúc to”. Triều Nguyễn, phong ba lần: năm Tự Đức thứ mười hai (1859) phong “Tuấn lương, tối linh, phù vân đại vương”, nghĩa là “Đại vương sáng lành, rất thiêng, phù trợ”; năm Tự Đức thứ ba mươi (1878) phong “Dục bão trung hưng”, nghĩa là “Mạnh giúp nên trung hưng”; vua Khải Định phong “Quang ý”, nghĩa là “Sáng suốt”.

Trên 1.200 năm qua, vật đổi sao dời, nước có lúc thịnh lúc suy, nhà có lúc tan lúc hợp nhưng lớp lớp cháu con dòng họ Vũ (Võ) Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu, dù mang họ Vũ hay đã cải thành họ Võ (*), Đặng Vũ, Nguyễn Vũ… thì vẫn một lòng hướng về quê tổ ở Mộ Trạch, về đức thần tổ Vũ Hồn. Đặc biệt, ở thời nào, người dòng họ Vũ cũng nêu cao truyền thống yêu nước, thương nòi, rèn đức, luyện tài, lập nghiệp, giúp đời. Dưới thời phong kiến có tới 166 người họ Vũ đỗ tiến sĩ, trong đó có 30 người họ Vũ làng Mộ Trạch. Chính vì thế mà Mộ Trạch được gọi là “tiến sĩ sào” (ổ tiến sĩ). Khoa thi năm 1656, cả nước có hơn 3.000 người dự thi chỉ có 6 người đỗ tiến sĩ, trong đó có 3 người họ Vũ làng Mộ Trạch, khiến vua Tự Đức phải phê rằng “nhất gia bán thiên hạ” (một nhà bằng nửa nước).

Dòng họ Vũ (Võ) Việt Nam với bề dầy lịch sử hơn 1.200 năm đã luôn không ngừng sát cánh cùng với trăm họ trong cả nước nêu cao truyền thống bất khuất “con lạc, cháu hồng”, đoàn kết xây dựng một đất nước Việt Nam giầu mạnh sánh vai với các cường quốc 5 châu. Nhà thơ Vũ Quần Phương của chúng ta đã viết:

Trăm họ làm nên một nước nhà
Góp phần có họ Vũ nhà ta
Đọc thơ – hái quả càng ơn gốc
Nghĩ việc – thương gần lại nhớ xa
Hỡi ai bút mực lòng thăm thẳm
Máu đỏ tình thâm chẳng nhạt nhoà
Cháu con một họ yêu trăm họ
Trăm họ làm nên một quốc gia.

(*) Chi, nhánh họ Vũ ở miền Bắc di chuyển vào miền Trung và miền Nam, đã chuyển sang họ Võ, do phải kiêng tên hiệu của chúa Nguyễn (phạm húy) là Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), cũng như họ Hoàng phải chuyển sang họ Huỳnh do kiêng tên chúa Nguyễn (Nguyễn Hoàng). Đối với chữ Hán, Nôm chữ Vũ hay Võ đều chỉ là 1 chữ. hovuvovietnam.com/index.php

Chú Thích:

Những địa danh lưu giữ di tích liên quan đến thủy tổ dòng họ Vũ (Võ) Việt Nam được nhiều cháu con thăm viếng là:

1. Miếu thờ và Lăng mộ Đức Thần tổ Vũ Hồn tại làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Đi từ Hà Nội theo đường số 5 đến Km 38 gặp ngã tư Quán Gỏi rẽ tay phải qua cầu Kẻ Sặt có đường nhựa thẳng về đến tận làng Mộ Trạch. Hàng năm cứ đến ngày Lễ Tổ mùng 8 tháng Giêng âm lịch con cháu họ Vũ (Võ) khắp nơi trong nước và cả một số hậu duệ ở nước ngoài cùng về dự lễ hội truyền thống. Số người về hàng vạn người, có cả những người ngoài họ Vũ (Võ) và các phóng viên, các nhà nghiên cứu sử học…. cũng tham gia.

2. Ngôi mộ cổ ông nội đức Thần tổ Vũ Hồn ở Đống Dờm Nam Sách đã được chôn cất hơn 1.200 năm nay vẫn còn những bia đá rất nhiều ý nghĩa trên đó. Đó là vùng đất đắc địa với những câu như: “Bách nhạn hội sào” hay ” Cửu thập bát tú tiều dương”. Mộ Tổ Đống Dờm ở ngay cạnh đường nhựa của thị Trấn Nam Sách. (Đường Trần Phú nơi có nhà máy gạch tuy-nen có biển xi măng to ghi chữ “Mộ Tổ họ Vũ (Võ) VN). Từ TP Hải Dương đi về Nam Sách 12 Km là đến nơi. Xe có thể vào tận gò mộ.

3. Ngôi mộ cổ của Mẹ Đức Thần tổ Vũ Hồn là cụ Nguyễn Thị Đức được an táng ở tổng Kiệt Đặc nay là thôn Kiệt Thượng xã Văn An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Cách Phả lại 5,5 Km và cách thị trấn Sao Đỏ 4,5 Km sẽ có lối rẽ vào cùng phía và gần UBND xã Văn An. Xe con và xe nhỡ vào được tận lăng mộ.



B- Nằm ở thị trấn Sao Đỏ, huyện Chí Linh, Hải Dương, 48km từ Hà Nội, trên đường tới vịnh Hạ Long
Đi từ Hà Nội theo Hướng - Bắc Ninh - Phả Lại - Sao Đỏ chỉ vậy thôi Bác ạ, Bác xem lại một chút
 
Chỉnh sửa lần cuối:

vutronghuyen

Active Member
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

Bác nói đúng đấy vì đó chính là thuỷ tổ của dòng họ nhà em mà .
 

huanpl

New Member
Ðề: HẢI DƯƠNG XƯA VÀ NAY - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN

Em sorry bác cái trên nhé. Em cứ tưởng ở Văn An. Nên em nhầm nhưng cái dưới em đảm bảo là số km sai. Em ở Phả Lại bác ợ, đi từ sân golf đến nhà em là 9km. Tử nhà em lên đúng đến Hồ Gươm là 54km mà
 
Bên trên