Lưu Công Kỳ Án

hoahongden12

Active Member
Lưu Công Kỳ Án
Chương 100: Vội chạy họa nửa đêm cướp cổng thành

Lại nói chuyện vợ của Đoạn Văn Kinh là Uông thị, sau khi thấy con gái là Đoạn Thụy Bình lao vào mũi đao tự tử cô ta cũng húc đầu vào tường chết theo. Nha dịch Đoạn Văn Kinh thấy vợ và con gái đã chết, lúc này mới nổi lửa đốt nhà chợt thấy bên ngoài có tiếng hò hét huyên náo, ông ta nghĩ rằng có người tới báo quan, quan phủ dẫn quân tới tróc nã họ.

Kính thưa quý vị độc giả, tới lúc ấy rồi, chẳng nhẽ quan binh lại không biết hay sao? Quý vị thử nghĩ xem, nếu vụ này xảy ra vào ban ngày, đừng nói là ba người bọn họ, cho dù là ba trăm người, họ cũng khó lòng giết hết cả nhà Hùng đạo đài. Bởi họ xuất kỳ bất ý, hành động vào lúc nửa đêm, nên mới dễ dàng thành công như vậy. Tuy có báo quan, nhưng quan phủ cũng phải mất nửa ngày chuẩn bị, võ quan trong phủ Đại Danh, người đứng đầu là chức phó tướng, vị quan hiệp đài này vốn là người từ kinh thành phái tới, dòng giống kỳ quan, họ Phú, thường được gọi là Phú đại lão gia. Tới khi tin này được báo tới nha môn hiệp đài, Phú lão gia cuống cả lên, vội sai người đi triệu tập binh sĩ. Bên này vừa biết tin, bên kia, Đoạn Văn Kinh đã ra khỏi ngục rồi. Bởi vậy, họ chỉ còn biết sai quân đuổi theo bắt lại, không cần điều quân chặn tại nha môn nữa. lại nói chuyện Đoạn Văn Kinh thấy vợ và con gái đã chết, đang định nổi lửa đốt phòng, chợt thấy bên ngoài có tiếng hò hét vang trời. Văn Kinh cũng chẳng kịp phóng hỏa, tay xách cương đao chạy vội ra, tới trước cửa, định thần quan sát.

Đoạn Văn Kinh chạy ra trước cửa, dõi mắt nhìn. Thì ra không phải là quan tướng quan binh mà là lũ tội phạm trong nhà ngục đang xô nhau cướp vàng bạc của các hộ bên đường, lại có cả những kẻ khác tự tìm binh khí cho mình, chuẩn bị cho việc phá cửa thành xông ra. Văn Kinh thấy vậy, miệng nói:

- Không ổn! Mau nhân dịp này sớm ra khỏi Đại Danh!

Lũ giặc thấy vậy vội dừng tay, nhất tề theo sau Đoạn Văn Kinh tiến lên, vượt đường ngang, ngõ tắt, không ai dám ngăn cản. Ngửa mặt trông lên, đã thấy cửa Nam thành Đại Danh hiện ra trước mắt. Chúng vội xô tới ra tay, phá khóa, cậy then, muốn mở cửa thành, làm kinh động mấy tên quân canh cổng và một viên thiên tổng tên gọi Trương Tân. Họ nhất tề xô ra, quát tháo. "Kẻ nào nửa đêm dám phá cổng thành? Mau bắt lấy, giải về nha môn, xem hắn thoát khỏi họa đao kề cổ hay không?"

Thiên tổng Trương Tân còn chưa dứt lời, trong đám tội phạm có một đứa xách đao xông ra, nhằm thiên tổng chém xuống một nhát. Không kịp đề phòng, nhát đao ấy trúng ngay Trương Tân, "huỵch" một tiếng, ngã nhào ra đất khiến thủ hạ canh cổng sợ hãi rụng rời, bỏ chạy tứ tán, không tên nào dám canh cổng nữa. Đám tội đồ chỉ trong phút chốc đã phá được khóa, mở toang cổng thành. Văn Kinh dẫn đầu chạy ra ngoài, lũ tội đồ không biết sống chết là gì, chạy theo sau. Vừa ra khỏi thành Đại Danh, chợt nghe thấy ầm ầm như sóng triều dâng. Thì ra hiệp đài thống lĩnh quân lục kỳ trong doanh trại kéo đến. Lại có cả tri huyện và tri phủ, cùng một đám nha dịch, bổ đầu, mã khoái, tay cầm đèn đuốc sáng trưng như ban ngày từ đằng sau đuổi tới. Nếu họ tới sớm hơn chỉ nửa khắc thôi, chắc hẳn Đoạn Văn Kinh không thể chạy thoát. Xem ra số trời định vậy, không thể khác được. Hôm nay, nếu không bắt được Từ Khắc Triển, Trần nhị phủ tuyệt đối không thể được thăng chức tri châu, sẽ chẳng có ai tới cướp phủ Đại Danh, và cũng không có trận lén điều binh ngày mười sáu tháng tám. Chuyện sau này ta tạm thời gác lại, giờ hãy nói tới lũ giặc cướp trước.

Quân sĩ của hiệp đài Đại Danh - Phú đại nhân tới chậm một bước để bọn Đoạn Văn Kinh chạy ra khỏi thành. Nếu binh mã tới sớm chỉ nửa khắc thôi, sẽ đỡ được bao nhiêu chuyện, âu cũng là số trời định vậy, mới khiến cho bao nhiêu quan binh lỡ mất một chuyến.

Lại nói chuyện binh đinh, nha dịch, văn võ, quan viên của phủ Đại Danh đuổi tới cửa Nam, bọn Đoạn Văn Kinh đã ra khỏi cửa thành rồi, Phú đại nhân thấy vậy, đưa mắt nhìn đám quan văn võ trong thành, nói:

- Lũ giặc tuy đã ra khỏi thành, thiết nghĩ chưa thể chạy được xa. Ta cần đuổi theo bắt chúng lại. Xem ra, trách nhiệm của chúng ta mới giữ được đôi phần.

Đám quan viên văn võ nghe Phú đại lão gia nói vậy cũng đồng thanh nói:

- Nhất thiết phải làm như thế!

Nói xong, nhất tề đuổi ra khỏi thành Đại Danh. Quan binh, nha dịch chia làm hai đường truy đuổi, vây bọn Đoạn Văn Kinh vào một thôn làng. Quan binh từ phía sau đuổi thật gấp, không lâu sau đã đuổi kịp trọng phạm Đoạn Văn Kinh, chẳng nói chẳng rằng, vây kín lũ nghịch tặc vào một làng thôn. Lũ tội đồ lẽ nào dễ dàng chịu ngồi chờ chết? Chỉ còn một chút hy vọng chúng cũng phải níu lấy. Tù phạm cùng binh sĩ ra tay đánh lẫn máu, lại thêm mấy vị công sai cũng nhảy vào cuộc. Lũ tội đồ, thứ nhất bởi không có binh khí tốt, thứ hai bởi lòng khiếp sợ quan binh, chẳng bao lâu, năm mươi ba tên đã bị bắt lại cả, chỉ còn trơ lại bọn nha dịch bốn tên. Đoạn Văn Kinh, tuy đã bốa mươi hai tuổi, nhưng một mình hắn vẫn có thể địch được mười quan binh. Lại thêm mã khoái Từ Khắc Triển, năm ấy hai mươi bảy tuổi, đang độ thanh xuân, hai tay có thể nhấc được tám trăm cân, bắt cướp, tóm trộm dễ như trở bàn tay, Đại Danh phủ gần xa đều biết tiếng. Sau này, Càn Long lão phật gia đích thân hỏi cung hắn, hỏi mười câu, tới chín câu hắn không thèm trả lời. Thái thượng hoàng vô cùng nổi giận, thưởng cho hắn một trăm vả mồm bằng gậy, sau đó lại liên tục dùng hiệp côn ba lần, Từ Khắc Triển cũng không thèm ư hử. Hình bộ vả miệng hắn một trăm cái, hai bên má hắn không sưng, cũng chẳng hề tím. Chân bị kẹp ba trận hiệp côn, mà hiệp côn của triều đình khác hẳn với hiệp côn mà những châu huyện khác thường dùng. Hình cụ của bộ hình trong cung toàn được làm bằng gỗ đàn mộc, thực kinh người! Vậy mà sau ba trận hiệp côn liên tiếp, da thịt hắn vẫn không hề có chút thương tích. Ở đây, tại hạ không hề nói sai trá, mà người thời ấy, ai ai cũng biết vụ này. Chuyện sau này, ta tạm không nhắc tới nữa. Giờ ta lại nói tới chuyện của Khắc Triển, Văn Kinh.

Lại nói chuyện Đoạn Văn Kinh, Từ Khắc Triển, Trương Quân Đức, Lưu Phụng, bốn người bị quan binh phủ Đại Danh vây kín. Bốn tên ấy vô cùng dũng mãnh, nhất tề ra tay, đánh ra khỏi trùng vây, còn làm bị thương một viên bả tổng. Hơn chục quan binh, rồi lọt lưới chạy thoát.

Như trong hồi trước quyển sách này đã nói, đó là đêm mười sáu tháng bảy, trăng bị mây che lấp, bốn bề tối như hũ nút. Lúc này, trời lại đổ mưa lâm thâm. Đêm càng tối, mưa càng nặng hạt, khó lòng truy tìm. Quan viên văn võ phủ Đại Danh chẳng còn cách nào khác, đành phải thống lĩnh binh đinh, nha dịch, áp giải năm mươi ba tên tù phạm trở về Đại Danh.

Lại nói chuyện Đoạn, Từ, Lưu, Trương, bốn tên sau khi thoát khỏi vòng vây của quan binh, nhân lúc đêm tối không trăng đội mưa, cuống cuồng chạy về hướng Tây Nam.

Lại nói chuyện quan viên phủ Đại Danh thống lĩnh đám binh đinh, nha dịch, áp giải năm mươi ba tên tù phạm nhất tề trở về phủ Đại Danh, tới thẳng nha môn đạo đài xử tội chúng. Hai dặm đường thoáng chốc đã đi qua, đoàn ngươi kéo nhau tiến vào thành Đại Danh theo lối cửa Nam. Tri phủ Đại Danh đưa mắt nhìn hiệp đài, nói:

- Giờ xin giao lại lũ tội phạm này cho tôi để tôi tống chúng vào ngục. Sau khi khám nghiệm tử thi nhà đạo đài xong, tôi sẽ viết văn thư trình lên.

Phó tướng nghe vậy, nói:

- Có lý lắm! Niên huynh cứ vậy mà làm!

Trong lúc nói chuyện với nhau, họ đã đi tới chỗ ngã tư. Tân tri phủ, thống lĩnh nha dịch và tù phạm về nha môn, tống hết lũ tội đồ vào nhà ngục. Hiệp đài, tri huyện, thiên, bả tổng cùng viên quan nhất phẩm đô ti, cùng nhau trở về nha môn. Hiệp đài đại danh đưa mắt nhìn tri huyện, nói.

Hiệp đài Phú lão gia của phủ Đại Danh đưa mắt nhìn tri huyện và đám thuộc hạ như đô ti, thủ bị, thiên bả... nói:

- Chúng ta vào trong cần phải kiểm tra hết sức cẩn thận.

Hiệp đài Phú lão gia còn chưa dứt lời đã thấy tri phủ lão gia cũng tới nơi, vội vàng xuống khỏi lưng ngựa. Tri phủ đưa mắt nhìn hiệp đài, nói:

- Tôi đã cho đóng gông năm mươi ba tên tù phạm vừa bắt được khi nãy, tống cả xuống nhà ngục rồi. Ngoài ra, còn cắt cử rất nhiều người canh giữ. Đợi sau khi bẩm rõ lên phủ Bảo Định, chế đài Lưu đại nhân gửi văn thư xuống, chúng ta tuân lệnh thi hành là xong.

Phú hiệp đài nghe tri huyện lão gia nói vậy, liền nói:

- Tốt! Lời của Niên huynh đúng lắm!

Nói rồi, bọn họ nhất tề kéo nhau tiến vào nha môn của Hùng đạo đài.

Nha dịch, binh đinh xách đèn đi trước dẫn đường, tiến thẳng vào qua cổng lớn, vượt qua đại đường, nhị đường, mới tới được nơi Hùng Ân Hoãn ở. Hiệp đài, tri phủ, tri huyện, đô ti, thủ bị, thiên tổng, bả tổng, cùng đám quan viên văn võ khác chỉ huy nha dịch, binh đinh, tay xách đèn lồng, đi khắp các phòng kiểm tra.

Đám quan van võ cùng lũ thủ hạ, tay xách đèn lồng, đi khắp nơi coi xét, chẳng mất bao công đã tìm được tử thi của Hùng đạo đài. Thì ra hắn bị giết ngay giữa sân, bên cạnh còn có đèn nến vứt chỏng trơ. Ngoài ra còn có một người phụ nữ khác cũng bị hại. Coi như trong sân bị giết hai người. Trong dãy phòng phía Đông có một người bị giết ngay trên giường. Hắn chính là Ngô Liên Thăng, kẻ thân với nhà quan. Hùng công tử bị giết tại căn phòng phía Tây. Lai Tường cũng bị chém chết tại đó. Phòng trên còn có xác một thiếu phụ. Thì ra cô ta là vợ của Hùng đạo đài Ngô Thúy Hồng. Cả thảy có sáu mạng bị giết, thi thể còn nằm ngổn ngang trong nhà. Đám quan viên văn võ tra xét khắp trong ngoài thấy kho tàng không hề bị trộm cướp. Bận rộn suốt nửa đêm trường, lúc này phương Đông đã ửng hồng, tri phủ dặn dò đám đông sai canh giữ tử thi, rồi quay sang đưa mắt nhìn hiệp đài nói:

- Huynh đệ lập tức phải lên phủ Bảo Định báo rõ lên nha môn tổng đốc vụ này. Lão đại gia nên sai nhiều quan binh và tướng lĩnh chú ý đề phòng cẩn thận các nơi.

Hiệp đài nghe vậy, nói:

- Phải lắm! Phủ đài cứ việc lên tỉnh đi!

Nói xong các quan văn võ chia tay, phó tướng về nha môn điều binh, tri phủ cưỡi ngựa lên tỉnh. Giờ ta lại nói tới bọn Đoạn Văn Kinh, hắn cùng mã khoái Từ Khắc Triển và hai tên Trương, Lưu sau khi tháo chạy khỏi vòng vây của quan binh, nhân lúc đêm tối, chạy thẳng lên đường lớn phía Tây Nam. Chúng chạy suốt đêm được chín mươi dặm thì trời đã sáng. Đoạn Văn Kinh đưa mắt nhìn ba người kia, nói:

- Các vị lão đệ nghe ta nói đây: Chúng ta đã giết quan còn cướp ngục, nhất định các quan văn võ tại Đại Danh sẽ viết văn thư báo lên trên. Ban ngày chúng ta khó đi lại, máu me trên mình để lộ hình tích.

Đoạn Văn Kinh nói tới đây, ngửa mặt lên nhìn, thấy trước mặt có một khu rừng liễu. Bốn người vô cùng mừng rỡ, nghĩ thầm:

- Sao ta không vào đó tạm ẩn thân?

Thực đúng là ý trời muốn lũ chúng gặp được cướp tại đó. Bọn chúng kéo nhau vào khu rừng, gặp ngay đám cướp trong ấy cùng nhau kết bè kết đảng, tới ngày mười sáu tháng tám trở lại đánh phá thành Đại Danh.
 

hoahongden12

Active Member

Từ Khắc Triển, Đoạn Văn Kinh, Trương Quân Đức, Lưu Phụng bốn người đánh tan đám quan binh phủ Đại Danh, nhân lúc nửa đêm tối trời đã chạy lọt lưới, nhằm hướng Tây Nam đào tẩu. Chạy cách thành Đại Danh chừng chín mươi dặm, thấy lúc này trời đã hừng sáng. Bốn người đang lo chưa có chỗ náu thân, chợt thấy phía trước có một khu rừng liễu, trong lòng vô cùng mừng rỡ. Đoạn Văn Kinh thấy vậy, bèn quay sang phía ba tên Từ, Lưu, trương nói:

- Ba vị lão đệ, nay chúng ta mình bê bết máu, trời cũng sắp sáng, khó lòng đi được nữa. Chúng ta hãy tạm lánh vào khu rừng phía trước náu thân, đợi đêm xuống, chúng ta tiếp tục lên đường.

Ba tên Từ, Lưu, Trương nghe nha dịch Đoạn Văn Kinh nói vậy đồng thanh trả lời:

- Đại ca nói phải lắm!

Bốn người nói xong, nhằm hướng khu rừng liễu kéo tới. Vừa vào trong, thấy rừng cây rất rậm rạp. Nhìn sang phía Tây Nam thấy thấp thoáng có bóng một ngôi chùa. Nhìn kỹ lại, thấy ngôi chùa khá lớn, nhưng mục nát vô cùng. Bọn họ hèn nhằm hướng ngôi chùa đổ chạy tới. Không lâu sau đã tới trước chùa, dừng chân lại. Thì ra đó là ngôi miếu Ngọc Hoàng, chắc hẳn lâu lắm rồi không có ai hương khói, tu sửa. Tượng thần hai bên đổ lỏng chỏng, gãy chân, gãy tay mất hẳn vẻ trang nghiêm. Xem ra, trong đó chắc không có sư sãi tu hành. Lũ cướp thấy vậy, vô cùng vui vẻ. Bọn chúng cùng tiến lên thềm, vượt qua đại điện, tiến thẳng vào trong. Thì ra gian miếu này chia làm hai lớp, hai bên Đông, Tây đều đã mục nát cả. Gian chính giữa thờ Ngọc Hoàng đại đế, mưa gió đã làm hỏng hết dung nhan tượng thánh. Khắp nơi bụi bặm không người quét, đúng là thần tiên cũng có lúc gặp vận chẳng ra gì, huống hồ phận thảo dã của Văn Kinh. Thấy vậy, Văn Kinh thầm khấn rằng:

- Đệ tử họ Đoạn, tên gọi Văn Kinh, có nhà cửa, vợ con tại phủ Đại Danh, vào nha môn làm công sai hai mươi năm, nay chẳng may gặp họa tham quan. Cẩu quan tên gọi Hùng Ân Hoãn, dung túng cho con làm điều trái lương tâm. Ỷ thế nhà quan cưỡng đoạt gái đã có chồng, mua chuộc giặc cướp hãm hại đệ tử. Chẳng cho thanh minh, thưởng ngay cho ba trận hiệp côn rồi tống xuống nhà lao. Cũng may có ba vị huynh đệ Lưu Phụng, Quân Đức, Từ Khắc Triển đây có lòng bất bình, giết chết cẩu quan, sau đó cướp ngục cứu đệ tử ra, sau đó bỏ chạy theo lối cửa Nam thành Đại Danh, nhân lúc đêm tối chạy tới nơi này. Đệ tử thấy thánh tượng mà lòng chua xót. Đệ tử thực sự không muốn làm như vậy, tất cả chỉ vì cẩu quan ép buộc chẳng thể dừng. Cầu xin thánh thần phù hộ cho đệ tử thoát khỏi nạn này, đệ tử xin được làm lại tượng, trùng tu lại miếu.

Đoạn Văn Kinh chưa dứt lời khấn, chợt thấy từ phía sau tượng thần có bảy đại hán lực lưỡng bước ra, nói:

- Đoạn Văn Kinh! Các ngươi giết quan, cướp ngục tại Đại Danh rồi chạy tới đây khấn khứa. Bọn ta phải bắt các ngươi mang báo quan để xin công!

Đoạn Văn Kinh thấy vậy, giật mình luống cuống, vội vàng đứng lên, đưa tay rút soạt thanh đao đeo bên hông ra, chăm chú nhìn lại. Thấy mấy người ấy trong tay không có binh khí gì Từ Khắc Triển, Lưu Phụng, Trương Quân Bảo nghe họ nói vậy cũng định ra tay. Đoạn Văn Kinh vội ngăn họ lại, nói:

- Ba vị lão đệ mau dừng tay, ngu huynh có lời muốn nói với họ. Sau đó ra tay cũng chưa muộn.

Ba người nghe Đoạn Văn Kinh nói vậy mới dừng lại, cầm đao thủ thế, đề phòng bất trắc. Đoạn Văn Kinh đưa mắt nhìn bảy người kia, nói:

- Các vị xin hãy nghe tôi nói: Theo tôi thấy, cách ăn vận của các vị không giống với người trong chốn công môn, cũng không phải là quân sĩ hay quan tướng, tại sao lại muốn bắt Đoạn Văn Kinh ta? Ngày thường, Đoạn mỗ luôn giữ lễ nghĩa, không có việc gì để cảm thấy ô danh.

Nha dịch còn chưa nói hết câu, đã thấy một kẻ trong đám bảy người kia mỉm cười, nói:

- Đoạn gia ngài giỏi thật, không nhận ra Liễu Long ta sao?

Nhà ta cũng ở phủ Đại Danh, tại hạ cũng lấy nghề trộm cắp để kiếm sống. Cũng bởi tôi, ăn trộm ngân lượng của một hiệu cầm đồ, lấy đi mười nén bạc cùng một nén vàng. Bảo anh em của tôi mang đi đổi, gặp ngay nha dịch chốn công môn, bắt về nha môn đạo đài tra xét. Liễu mỗ hay tin vội tới nha môn đạo đài nhận tội, nói Liễu Long tôi chính là người đi lấy. Khi ấy, đạo đài không phải là Hùng Ân Hoãn, mà là Triệu Tông người Hà Nam. May nhờ có Đoạn gia, ngài lo lót trong ngoài nên được giảm nhẹ tội. Từ sau năm ấy chia tay nhau, tôi tiến tới miếu vàng náu thân, lại có cả mấy anh em đây, cũng là người cùng cảnh cả. Không ngờ ân công cũng tới chốn này, ta mới được gặp nhau, thực là vui vẻ quá.

Đoạn Văn Kinh nghe Liễu Long nói xong, lập tức nhớ lại chuyện năm xưa, nói:

- Người chính là Liễu hiền đệ, ngươi năm xưa bị phạm tội quan thời Triệu đạo đài đó ư?

Liễu Long nói:

- Chẳng phải tôi thì là ai?

Đoạn Văn Kinh nói:

- Nếu đã là vậy, đây là ba người anh em sinh tử, hoạn nạn của tôi. Nào, lại cả đây chúng ta cùng làm quen.

Liễu Long nói:

- Đây không phải là nơi chúng ta ngồi nói chuyện. Nếu có người nhìn thấy, vậy thực không hay. Tạm mời các vị vào trong ngồi, tới lúc ấy chúng ta nói chuyện cũng không muộn.

Nói xong, Liễu Long đi trước dẫn đường. Cả bọn cùng vòng qua phía sau tượng Phật. Tại đó có một cái hang, miệng hang có một chiếc thang gỗ. Liễu Long nói:

- Lối này để tôi đi trước

Nói xong, đi xuống phía dưới, chân lần theo từng bậc thang gỗ tùng bước, từng bước chui xuống dưới. Những người khác cũng theo cách ấy mà xuống. Bốn người này cũng xuống theo cả, chân dẫm bậc thang gỗ, từ từ chui xuống. Bên dưới là một vạt đất bằng phẳng, rộng chừng hơn ba gian. Bốn phía đều có lỗ thông khí, tuy có ánh sáng lọt vào nhưng vẫn phải thắp đèn. Bốn người bọn Đoạn Văn Kinh đưa mắt nhìn quanh, thì ra dưới đó có tới mười mấy người, không hề có giường, bàn, họ đều ngồi cả trên nền đất.

Liễu Long cao giọng nói:

- Các vị huynh đệ, mau lại đây, gặp mặt huynh trưởng Đoạn Văn Kinh. Thực đúng là hạn gặp mưa rào. Vị này chính là Đoạn Văn Kinh, ngươi Liễu mổ thường nhắc tới đó.

Bọn kia thấy vậy, nhất tề đúng dậy, lần lượt báo danh tính, thi lễ. Sau lại bắt tay làm quen với bọn Quân Đức, Lưu Phụng, Từ Khắc Triển. Thi lễ xong xuôi, ngồi cả xuống. Liễu Long vội bày rượu, thịt lên, mọi người cùng ngồi cả dưới hang ăn uống. Bọn này cả thảy có mười chín tên, giờ lại có thêm bốn đứa Đoạn, Từ, Trương, Lưu cùng nhau làm cướp, trở thành họa tinh cùng ở cả miếu này. Số trời là vậy nên mới có chuyện vẽ hình truy nã sau này.

Kính thưa quý vị độc giả. Đúng là số trời khó tránh. Bọn Đoạn Văn Kinh giết quan, cướp ngục, đánh tan quan binh phủ Đại Danh, nửa đêm đội mưa chạy tới chốn này, gặp ngay lũ cướp dẫn chúng xuống hang sâu lẩn trốn. Nếu không được vậy, hẳn chúng đã bị bắt từ lâu. Hơn nữa, tòa miếu Ngọc Hoàng này đã bị bỏ hoang từ lâu. Mưa gió nhiều năm nên đã hư hại cả. Trong đó lại không có ai tu hành, cách xa thôn làng ở mãi trong rừng. Cho dù người trong công môn tài giỏi tới đâu cũng không thể ngờ được nơi đây lại là hang ổ của lũ cướp.

Tạm gác vụ này qua một bên. Lại nói chuyện năm Càn Long thứ ba mươi tư, tại Tùy Châu thuộc quyền quản lý của phủ Đức An tỉnh Hồ Bắc - Châu này cách phủ Đức An một trăm tám mươi dặm. Chu vi rất lớn, thành trì nằm dưới sườn núi. Trên núi hùng điệp, trập trùng, đường xá quanh co, hiếm trở. Núi ấy có hình thế như một con rồng, sau núi có thể ở được, tiếp giáp với địa phận người Miêu ở Tứ Xuyên. Vùng này rừng núi hiểm trở, cây cỏ rậm rạp, dân cư hung dữ, chuyên đánh lại quan quân không chịu sống an phận. Bởi hai năm liền bị nạn hạn hán, không có lương ăn, lấy gì ra thóc gạo nộp thuế. Châu quan sai nha dịch đi đốc thúc, nhưng thúc thế nào chúng cũng không nộp. Quan châu chẳng còn cách nào khác, mới hạ lệnh bắt những người dân không chịu nộp thuế lên công đường đánh đập. Cách Tùy Châu hai mươi lăm dặm có một thôn tên gọi Diêm gia bảo. Thôn ấy có một võ tú tài họ Diêm tên gọi Kim Long. Bởi khi mẹ hắn mang thai, đêm sinh ra hắn nằm mộng thấy một con rồng vàng nên mới đặt tên cho hắn là Kim Long. Diêm Kim Long gia cảnh phú giả, có tới hơn hai mươi mẫu đất ruộng, lại có cả bốn miếng đất sườn núi. Nha dịch của Tùy Châu tới nhà hắn thúc nộp thuế, hắn cũng rầy rà không nộp như những người dân nghèo khác. Không những thế, hắn còn vểnh râu, trợn mắt, mang danh võ tú tài ra dọa lại công sai. Diêm Kim Long không thèm chửi mắng - lập tức ra tay đánh công sai, đám công sai cũng ra tay đánh trả, sau được người chung quanh can ra. Sai nha trở về bẩm lại với tri châu, thêm mắm thêm muối, nói:

- Diêm Kim Long cậy là võ tú tài, không chịu tuân theo phép nước, coi thường quan châu, không chịu nộp thuế còn hành hung công sai.

Tri châu nghe vậy, nổi giận đùng đùng, lập tức phát trát truyền gọi võ tú tài Diêm Kim Long, truyền tới công đường, trách mắng:

- Cuồng sinh quốc pháp bất tuân, thuế đất không nộp, lại đánh cả công sai, thực là lớn mật.

Lập tức sai thư lại viết công văn gửi tới châu học, cách tuột tước hiệu cử nhân của anh ta. Diêm Kim Long thấy vậy, vội quỳ xuống dưới công đường, khẩn cầu, nói:

- Lão gia xin chớ viết công văn, học sinh biết tội, sau này không dám tái phạm nữa.

Tri châu thấy vậy, lập tức quát lên:

- Đẩy hắn xuống! Chớ để hắn lên đây quấy nhiễu. Thư lại, mau viết công văn!

Võ tú tài cuống lên, dập đầu không ngớt, tay nắm chân công án, không ngừ đã kéo xô công án. Tri châu nổi cơn lôi đình, nói:

- Cuồng sinh, người làm náo loạn chốn công đường, tội thực đáng chết!

Rồi dặn dò thuộc hạ một mặt viết công văn, một mặt lột bỏ áo mũ trên mình võ tú tài, đánh cho một trận vì tội làm náo loạn chốn công đường rồi tống giam. Tin này truyền về nhà họ Diễm, người trong nhà không ai không kinh hãi. Còn đang không biết phải làm sao, chợt thấy một nhà sư tiến thẳng vào nhà, nói với họ:

- Diễm tướng công nhà các vị phải chịu tội trong bảy ngày, sau đó sẽ tai qua nạn khỏi.

Rồi lại quay sang nói với mẹ Diễm Kim Long rằng:

- Bà còn nhớ khi sinh ra cậu ấy đã nằm mộng thấy rồng vàng không. Đó chính là điềm báo trước. Nay bần tăng ngang qua chốn này. Sau mười hôm nữa sẽ lại đến giúp cậu ta. Nay các vị phải mau chóng sai người, lén tới Tùy Châu, đợi đêm xuống, vào nhà lao cứu Diễm tướng công ra khỏi nghe. Như vậy mới được bình an, vô sự. Nếu không, sau này có biến, hối cũng không kịp.

Nói xong, để lại một tấm danh thiếp bảo đưa cho Diễm Kim Long xem rồi bỏ đi. Sau vụ ấy, tại Tùy Châu mới xảy ra vụ giết quan cướp ngục, Diêm Kim Long trở thành nghịch tặc, kéo dài tới hơn hai năm mới được dẹp yên. Vụ này chẳng khác gì nay Đoạn Văn Kinh gặp Liễu Long vậy. Nếu không, đâu cần bỏ ra bao công sức? Xem ra, đó cũng là số trời sắp đặt.

Lại nói chuyện Đoạn Văn Kinh cùng đám kia ngồi uống rượu dưới hầm miếu Ngọc Hoàng. Hắn liền đưa mắt nhìn bọn cướp nói:

- Các vị hảo hán, xin hãy nghe tôi nói: Tuy các vị ẩn thân tại chốn này, chẳng qua chỉ là đợi đêm xuống mới kéo nhau ra làm ăn, muốn nên nghiệp lớn, thực không thể. Các vị thử nghĩ xem, vậy chẳng phải đã mai một kiếp anh hùng hay sao? Các vị còn nhớ chuyện của Vương Luân không? Ông ta nhà ở Thọ Trương tỉnh sơn Đông, vốn chỉ là một chân mã khoái trong nha môn. Chỉ vì đưa văn thư muộn mà phải chịu tội, bị đánh một trận rồi tống vào trong ngục. Thực chẳng khác gì Đoạn mỗ ngày nay. Được người khác bất bình cứu ra, giết chết tri huyện Thọ đường rồi trốn khỏi thành. Sau được hòa thượng cho phép ở lại cho cạo đầu làm sư. Sau này Vương Luân xưng đế, dẫn quân đánh tới tận Thanh Châu, cách kinh thành chỉ còn vài dặm. Cũng bởi Vương Luân ham tửu sắc, hạ lệnh cắm trại, bày tiệc rượu ăn uống, hát ca, lỡ mất cơ hội đánh vào Lâm Thanh. Thư đại nhân nhận mật chỉ dẫn quân kinh thành tới sát thành Lâm Thanh. Quân bát kỳ vốn có tiếng dũng mãnh, hơn hẳn quân lục kỳ. Còn chưa ra trận, Thư đại nhân đã hạ lệnh cho đám pháo thủ, không nhồi đạn vào súng mà chỉ nạp thuốc súng với dây mồi, gọi đó là Không Thương Kế. Vương Luân không hề hay biết, chỉ thấy súng phía đối phương không nổ nên vô cùng vui mừng, nói: "Ý trời muốn ta làm nên nghiệp lớn!" Rồi mới bạo gan quyết ra tranh trận hơn thua với quân triều đình. Tới lúc ấy quân triều đình mới nhồi đạn vào súng, chỉ đánh một trận đã dẹp yên Vương Luân. Ta nay sao không học theo cách ấy, cướp lấy tòa thành Đại Danh trước!

Lũ giặc cướp nghe xong đều nói:

- Có lý!

Rồi đứng cả dậy, nói:

- Chúng tôi cũng muốn vậy từ lâu rồi.

Chỉ vì câu nói này của Văn Kinh mà chỉ trong chớp mắt, dân chúng phủ Đại Danh đã phải đổ máu đào!
 

hoahongden12

Active Member

Bọn Liễu Long nghe Đoạn Văn Kinh nói xong, nhất tề đứng dậy, nói:

- Từ lâu rồi bọn tôi đã có ý ấy, chỉ e một nỗi thế mỏng lực cô, e không làm nên chuyện. Ngày thường vốn nghe tiếng Đoạn gia trưởng nghĩa khinh tài, kết giao rộng rãi, lại am hiểu kỳ thuật phủ Đại Danh xa gần nức tiếng, âu cũng là vận may của chúng tôi. Nếu Đoạn gia không chê, chúng tôi nguyện cùng ngài kết làm anh em, hoạn nạn tương trợ lẫn nhau, cùng mưu đồ nghiệp lớn.

Đoạn Văn Kinh nghe bọn Liễu Long nói vậy, liền nói:

- Các vị đã nể mặt, Đoạn mỗ sao dám chối từ?

Liễu Long nghe xong, nói:

- Đoạn ca, xin hãy nghe tôi nói. Nếu thấy hợp lý, ta nên làm ngay thôi.

Liễu Long nói:

- Xin Đoạn ca hãy nghe tôi nói: việc không nên trì hoãn, chúng ta hãy mau chóng kết giao. Mọi người cùng tỏ rõ lòng mình. Chỉ có điều, ở đây thiếu vàng mã, hoa quả, hương đèn. Thôi thì ta hãy đắp đất thay hương, bày tỏ tấm lòng mình là xong.

Mọi người đều khen:

- Nói phải lắm!

Rồi đứng cả dậy. Đoạn Văn Kinh lại thêm mã khoái Từ Khắc Triển và hai tên Trương, Lưu lần lượt khai rõ ngày, tháng, năm sinh. Văn Kinh lớn tuổi nhất, Liễu Long đứng thứ hai. Thứ ba là Từ Khắc Triển. Bọn còn lại quỳ cả xuống theo thứ tự lớn nhỏ. Hành lễ xong xuôi, đứng cả dậy. Cả bọn lại quỳ lạy Đoạn Văn Kinh, sau đó mới chia ngôi thứ mà ngồi xuống, tiếp tục bàn việc đánh cướp phủ Đại Danh. Đoạn Văn Kinh đưa mắt nhìn những kẻ kia, nói:

- Các vị huynh đệ, ngu huynh có kế này. Nay chúng ta hãy viết bố cáo, dán khắp nơi nhưng không đề rõ tên. Trên bố cáo viết: "Ngày mươi ba tháng tám dấy binh, muốn đánh phá tòa thành Đại Danh?". Sau đó đem dán khắp nơi, nhất định từ quân tới dân trong thành sẽ sợ hãi, chắc chắn sẽ điều quan binh canh phòng Đại Danh. Mặc cho chúng phòng bị, ta sẽ không làm gì hết. Tung tin đồn trước, động binh sau. Bọn chúng thấy ta không có hành động gì sẽ giải tán quân sĩ cho về. Nhân cơ hội ấy, ngày mười sáu tháng tám ta sẽ vào phủ, mang theo vũ khí vào thành. Ta hãy ngầm hẹn nhau tại miếu Thành Hoàng, tới canh ba nhất tề ra tay, bảo đảm thành công.

Đoạn Văn Kinh nói:

- Tới ngày mười sáu tháng tám chúng ta hãy trà trộn vào thành hẹn nhau canh hai sẽ tụ hội tại miếu Thành Hoàng, canh ba ra tay, đại sự tất thành.

Liễu Long nói:

- Đại ca nói có lý lắm. Anh hãy viết ngay mấy trang bố cáo "ngày mười ba đánh phá Đại Danh" để đệ sai người vào phủ Đại Danh đem dán, cho bọn chúng kinh sợ một mẻ.

Đoạn Văn Kinh không chút chậm trễ, bảo bọn chúng đi kiếm bút với nghiên, lập tức viết mười mấy tờ bố cáo, sau đó sai bốn người lén vào phủ Đại Danh dán. Còn bọn Đoạn Văn Kinh từ đó náu thân trong miếu.

Lại nói chuyện tri phủ Đại Danh là Tân Vinh Phiên, từ phủ Đại Danh đi suất ngày đêm lên phủ Bảo Định, xin được vào gặp Lưu đại nhân. Chế đái đại nhân nghe báo đạo đài phủ Đại Danh là Hùng Ân Hoãn bị nha dịch giết hại, giật mình kinh hãi, lập tức hỏi rõ ngọn ngành, một mặt viết công văn gửi về kinh, một mặt sai vẽ hình truy nã. Tri phủ Tân Vinh Phiên vội vàng về phủ.

Lại nói chuyện hiệp đài phủ Đại Danh là Phú đại lão gia cũng phải viết công văn gửi lên đề đốc Diêm đại nhân tại Cổ Bắc Khẩu. Nhận được tin báo, cả đề đốc, tổng đốc đều vội tới Đại Danh. Giờ ta lại nói tới chuyện của bọn Đoạn Văn Kinh trong hầm miếu Ngọc Hoàng cùng nhau bàn tính chuyện đánh phá phủ Đại Danh.

Đoạn Văn Kinh náu thân trong địa đạo miếu Ngọc Hoàng bàn việc muốn đánh phá thành Đại Danh, lén sai bốn tên đồng đảng vào phủ, dán bố cáo "ngày mười ba tháng tám cướp thành". Lũ cướp bàn bạc suốt đêm. Tới sáng rõ ngày hôm sau, chợt thấy bốn tên kia trở về, cùng nhau chui xuống hầm. Văn Kinh và những kẻ khác đúng cả dậy, nói:

- Các vị vất vả quá! Đã về rồi hả?

Bốn tên kia nghe vậy, nói:

- Đâu dám. Việc đã được giao, chúng tôi sao dám chối từ.

Lại đồng thanh nói:

- Trong phủ Đại Danh náo loạn cả lên, binh sĩ được phái đi trấn giữ khắp trong, ngoài thành.

Bốn tên nói xong, nhất tề ngồi xuống. Cả bọn lại vui vẻ uống rượu. Chỉ còn đợi tới ngày mười sáu tháng tám là ra tay xông vào đánh phá phủ thành. Tạm gác chuyện bọn Văn Kinh trong miếu lại. Giờ ta lại nói tới chuyện của đề đốc, tổng đốc. Họ đi suốt đêm tới phủ Đại Danh, ở lại cả trong dịch quán. Ngày hôm sau, tổng đốc họ Lưu còn chưa dậy, đã có đường quan vào báo cáo tình hình, nói:

- Bên ngoài cửa công quán có dán một tờ cáo thị, nội dung thực khiến người ta phải lạnh mình. Bên dưới không ghi tên của ai. Chỉ thấy trên đó viết: "Ngày mười ba tháng tám cướp thành Đại Danh"

Tổng đốc họ Lưu nghe vậy cũng giật mình, vội mặc quần áo đích thân ra xem, thấy trên tường quả có dán một tờ thông cáo. Vội trở vào báo lại với Kích Bắc đề đài Diêm đại nhân.

Tổng đốc phủ Bảo Định Lưu đại nhân còn đang trầm ngâm chưa biết phải quyết ra sao, chợt thấy quan nội đường vào bẩm báo, nói:

- Cổ Bắc Khẩu đề đài Diêm đại nhân tới!

Tổng đốc họ Lưu nghe vậy, vội dặn:

- Mời vào.

- Dạ!

Quan nội đường ứng tiếng, đi ra. Tới bên ngoài gặp Đề đài họ Diêm, vội quỳ một gối, nói:

- Đại nhân chúng tôi có lời mời!

Diêm đại nhân nghe vậy mới sải bước tiến vào công quán. Tới đại sảnh, tổng đốc đại nhân ra tận hiên nhà đón tiếp, thi lễ xong xuôi, phân ngôi ngồi xuống. Ngươi hầu dâng trà lên. Trà nước xong xuôi, đề đài Diêm đại nhân đưa mắt nhìn tổng đốc Lưu đại nhân, nói:

- Trên tường, trước cửa dịch quán của tôi có dán một tờ cáo thị, trên đó viết có kẻ muốn đánh cướp phủ Đại Danh vào ngày mười ba tháng tám nhưng không để lại tên tuổi, cũng chẳng biết ai đã dán lên. Bởi vậy tôi mới tới đây gặp đại nhân cùng thương lượng.

Tổng đốc Lưu đại nhân nghe vậy, cũng vội kể lại cho đề đốc nghe chuyện xảy ra khi nãy. Hai vị đại nhân còn chưa kịp kể hết với nhau, đã thấy toàn bộ quan viên văn võ của phủ Đại Danh kéo tới cũng chỉ vì chuyện này.

Lưu tổng đốc đưa mắt nhìn để đài, miệng gọi "lão đệ", nói:

- Chắc hẳn trong vụ này có uẩn khúc chi đây. Xem ra, tên giặc này hẳn phải là kẻ bất thiện. Cần phải bắt lấy hắn, trình lên thánh chúa phán xét rõ ràng. Chớ nên báo ngay lên kẻo Hoàng thượng buồn phiền, ta phải cân nhắc cho kỹ rồi mới được hành động. Nhất thiết phải sai quân phòng bị nghiêm ngặt, nếu không sẽ làm quân và dân kinh hãi.

Đề đốc nghe xong, nói:

- Chính phải. Đại nhân nói đúng lắm.

Tiếp đó, Diêm đề đốc quay sang căn dặn Hiệp đài:

- Mau chóng chia quân trấn giữ thành. Bốn cổng đều phải sai các thiên tổng, bả tổng tới đó canh giữ, tra xét cẩn thận những kẻ ra, vào. Cần khám xát, quan sát diện mạo họ. Tuyệt đối không được cho giặc vào ra. Hiệp đài ứng tiếng, nói:

- Tuân lệnh!

Rồi quay mình, lui bước, trở ra ngoài, chia quân giữ thành.

Diêm dại nhân cũng trở về dịch quán. Lại nói chuyện bọn Văn Kinh, Từ Khắc Triển cùng mười mấy tên cướp kia. Từ sau khi dán bố cáo nặc danh, chúng chỉ còn đợi tới ngày mười sáu là ra tay đánh phá phủ thành. Ngày tháng thoi đưa, hai vầng nhật, nguyệt thi nhau chạy từ Đông sang Tây. Tới ngày mười ba tháng tám, quân sĩ được chia ra canh phòng khắp trong, ngoài phủ Đại Danh. Phó tướng, tham quân, du kích, thủ bị, thiên tổng, bả tổng người nào cũng cung tên ngang vai, ngựa không đừng vó đi khắp nơi canh phòng, chỉ lo tặc nhân vào đánh phá phủ thành. Suốt một ngày một đêm ầm ĩ, tới sáng sớm ngày mười bốn vẫn không hể thấy tăm dạng của cướp đâu. Tới lúc này mới biết kẻ xấu đã tung tin láo trong thành, lập tức trở về bẩm lại với tổng đốc họ Lưu, lại báo cho đề đài Diêm đại nhân cùng biết. Hai người ấy lúc này mới yên tâm, mới biết tung tin sai thực là đáng sợ, truyền lệnh giải tán binh sĩ quay về phủ của mình, một lòng dò xét. Giờ lại kể tới chuyện của lũ ác đồ.

Lại nói chuyện bọn Đoạn Văn Kinh đang trong hầm sâu, chỉ đợi tới đêm mười sáu tháng tám là đánh phá phủ Đại Danh. Đêm ngày mười lăm tới sáng ngày mười sáu, cả bọn đã chuẩn bị, cải trang xong xuôi, rời khỏi hang, nhằm hướng phủ Đại Danh kéo tới. Ban ngày, chúng lẩn lút tại những nơi ít người để ý, tới đêm xuống, chúng trà trộn vào đoàn người lẻn vào thành Đại Danh, tới tề tựu tại miếu Thành Hoàng đợi thời cơ ra tay.

Lại nói chuyện quan binh canh giữ phủ thành Đại Danh, tới tối ngày mười lăm, người nào người nấy đều bận rộn chuẩn bị đón rằm, từ quan tới quân đều uống rượu, vui chơi.

Lại nói chuyện hai mươi ba tên bọn Đoạn Văn Kinh rạng sáng ngày mười sáu tháng tám đều cải trang, giấu binh khí vào mình, nhằm phủ Đại Danh thẳng tiến.

Bọn Đoạn Văn Kinh nhằm hướng miếu Thành Hoàng kéo tới. Đứa nào cũng giấu binh khí trong mình. Tới cách thành Đại Danh chừng hơn chục dặm, tìm nơi kín đáo ẩn mình. Đợi tới khi vầng hồng khuất núi chúng mới kéo nhau vào phủ thành Đại Danh. Lại nói chuyện Từ Khắc Triển và Đoạn Văn Kinh cải trang theo lối quân lục kỳ. Hai đứa bọn chúng đầu đội mũ lính cắm lông chim, chân đi giày xanh, mình mặc áo xanh viền đỏ lưng thắt đai vải màu lam, cài đao bên hông nhằm hướng cổng thành phía Nam tiến vào. Vừa tới cửa thành, chợt nghe tiếng quát vang:

- Mau đứng lại, không được vào thành.
 

hoahongden12

Active Member

Lại nói chuyện Đoạn Văn Kinh tới trước cửa Nam phủ Đại Danh, hai đứa vừa định tiến vào, chợt thấy bên cạnh vang lên tiếng quát:

- Này, chớ vào trong vội! Nói rõ xem người của lộ nào rồi bọn ta mới cho vào.

Hai người thấy vậy, Từ Khắc Triển liền tranh trả lời, nói:

- Bọn ta là tính truyền tin của tả doanh, phụng mệnh lão gia rời thành đi công tác, giờ mới trở về. Hay thực, Ngay cả bọn ta các vị cũng không nhận ra! Thôi thôi, các ngươi vừa được sai ra canh cổng thành, ngay cả bạn bè cũ cũng quên hết cả.

Tên lính vừa hỏi khi nãy tưởng thật. Với lại, hắn cũng tham uống vài ly rượu. Hơn nữa, số trời xếp đặt vậy. Nghe Từ Khắc Triển nói thế, cũng chẳng thèm kiểm tra nữa, nói:

- Thì ra các vị đã trở về đấy à? Mau mau vào đi! Chúng tôi đây sao nhớ ra nổi các vị. Thực khổ quá. Hơn nữa, tôi cũng đâu muốn kiểm tra các vị làm gì. Chúng ta đều làm việc nhà quan, không thể không cẩn thận. Đã vậy, mời hai ông mau đi vào cho!

Từ Khắc Triển nói:

- Chẳng phải sao? Thế, nếu bọn ta là gian tế?

Tên lính kia nghe vậy, nói:

- Mời vào cho mau, bố già! Càng nói càng chẳng ra gì cả. Tại sao lại nói vậy chứ?

Đoạn, Từ hai người nghe vậy, lúc này mới sải bước tiến vào trong.

Từ Khắc Triển đi trước tiến vào thành. Theo sau là nha dịch Đoạn Văn Kinh. Hai người lẩn vào phủ Đại Danh chuẩn bị gây rối. Lại nói chuyện đám kia cũng đã trà trộn vào được trong thành. Chúng kéo thẳng tới miếu Thành Hoàng, tụ tập nhau lại chuẩn bị giết quan, chiếm thành Đại Danh. Xem ra, thánh chúa lão phật gia hồng phúc thục lớn, khí số của đám nghịch đồ cũng đã đến lúc tận tuyệt. Tuy bọn chúng đã trà trộn được vào phủ Đại Danh nhưng chẳng khác nào một đàn chim đâm đầu vào lưới bẫy. Do không cẩn thận nên Lưu Phụng bị bắt vào nha môn, tri phủ Đại Danh Tân Vinh Phiên thẩm vấn, đánh cho một trận. Lưu Phụng cũng là kẻ non gan, chỉ sau một trận hiệp côn đã khai ra tất cả. Hắn nói:

- Đoạn Văn Kinh và Từ Khắc Triển, lại thêm gã Quân Đức, họ Trương đang tụ tập lũ giặc cướp tại miếu Thành Hoàng, chỉ đợi tới canh ba đêm nay là ra tay giết quan, chiếm thành Đại Danh.

Lưu Phụng còn chưa nói hết câu, Tân Vinh Phiên đã giật thót mình, nghĩ thầm: "May mà ta bắt được Lưu Phụng. Hắn khai ra đồng đảng đã vào cả trong thành. Nếu không mau sai quân đi dẹp loạn, chỉ e rằng đất thành Đại Danh sẽ biến cả thành màu hồng! Việc này cần mau chóng báo lên đại nhân biết, rồi mau chóng bắt lấy đám Đoạn Văn Kinh". Tri phủ nghĩ xong vội đứng dậy, đưa mắt nhìn xuống, nói.

Tri phủ phủ Đại Danh Tân Vinh Phiên đúng dậy, đưa mắt nhìn đám thủ hạ dặn dò, nói:

- Mau đóng gông vào tên nghịch tặc Lưu Phụng. Các người phải canh giữ cẩn thận. Ta phải tới dịch quán Kim Đình gặp tổng đốc đại nhân bẩm lại chuyện này, xin chỉ thị của ngài, rồi sẽ đi tróc nã bọn tặc đồ.

Nói xong, sải bước chạy ra ngoài, tới thẳng dịch quán. Một lúc sau từ trong dịch quán, có người chạy ra, nói:

- Đại nhân cho gọi Tân tri phủ vào hỏi chuyện.

Tân Vinh Phiên ứng tiếng.

Quan tuần bổ từ bên trong nói vọng ra, còn chưa dứt lời, tri phủ đã ứng tiếng, vội chạy lên, cùng viên tuần bổ hướng vào trong gặp Lưu đại nhân tại đại sảnh. Tri phủ hành lễ, tham kiến, khom lưng, cúi mình đứng sang bên đông. Lưu đại nhân ngồi trên án đường, miệng nói:

- Phủ đài, hãy mau kể lại cho ta nghe chuyện bắt giặc như thế nào? Bản bộ còn phải tấu lên thánh chúa. Chỉ vì chuyện này, thánh chúa lão phật gia đang nổi trận lôi đình kia kìa.

Tri phủ nghe đại nhân nói vậy vội chắp tay, khom mình thuật lại một lượt những lời Lưu Phụng vào khai, nói:

- Còn có Khắc Triển, Đoạn Văn Kinh, lại thêm một đám mấy chục tên cướp, tối nay đã vào cả trong thành Đại Danh. Bọn chúng một lòng muốn cướp phủ khố, ngu muội vọng tưởng muốn chiếm Đại Danh.

Tri phủ còn chưa dứt lời, tổng đốc Lưu đại nhân đã giật mình kinh. hãi, nói:

- Nghe báo lũ cướp đã vào cả trong phủ, dám đánh chiếm cướp thành Đại Danh. Nếu ta không nhanh chóng điều binh khiển tướng, chỉ e quân dân khó lòng được yên.

Rồi quay đầu xuống, đưa mắt nhìn mọi người, nói:

- Các ngươi mau chóng mời đề đài bàn chuyện phái quân đi bắt Đoạn Văn Kinh.

Đám thủ hạ nghe lệnh, nhất tề ứng tiếng, vội vã chạy cả ra ngoài. Lưu công lại truyền lệnh, nói:

- Lập tức đi đóng hết các cổng thành lại. Tại mỗi cổng thành sai thật nhiều binh sĩ canh gác. Cẩn thận đề phòng, không được để lũ giặc xông vào.

Tri phủ nghe vậy vội ứng tiếng, lập tức xoay mình chạy ra ngoài.

Lại nói chuyện tổng đốc Lưu đại nhân sau khi căn dặn Tân tri phủ xong tiếp tục hạ lệnh:

- Đóng gông lớn lên cổ Lưu Phụng, canh giữ cho cẩn thận?

Đám nha dịch nhất tề dạ ran. Chợt thấy từ bên ngoài, một viên quan tuần bổ chạy vào, tới trước bàn của Lưu đại nhân, quỳ một gối, nói:

- Bẩm đại nhân! Cổ Bắc Khẩu đề đốc Diêm đại nhân xin được vào gặp.

Tổng đốc Lưu đại nhân nói:

- Mời vào.

Quan tuần bổ ứng tiếng, chạy ra ngoài. Không lâu sau, đã cùng đề đốc Diêm đại nhân bước vào. Lưu đại nhân rời khỏi bàn, bước ra ngoài đón vào đại sảnh, phân ngôi chủ khách cùng ngồi xuống. Ngươi hầu dâng trà lên. Trà nước xong xuôi, Lưu đại nhân đưa mắt nhìn Diêm đại nhân, nói:

- Đại nhân! Khi nãy có tri phủ Tân Vinh Phiên tới báo tin, nói ông ta bắt được một người họ Lưu, tên Phụng. Người này trước kia vốn làm nha dịch trong nha môn của Hùng đạo đài. Do không chịu nổi đòn roi đã phải khai ra toàn bộ sự việc, nói bọn chúng có hơn hai mươi người, đêm nay trà trộn vào phủ Đại Danh, canh hai tụ tập, canh ba kéo vào giết quan, cướp kho.

Nghe Lưu lão gia nói vậy, đề đốc Diêm đại nhân cũng sợ hãi rụng rời, nói:

- Lũ tội đồ to gan thực đáng ghét, dám ráp tâm chiếm đoạt Đại Danh! Cũng là khí số của lũ chúng đã tận, tội ác quá nhiều, lần này khó thoát khỏi kiếp nạn.

Đề đốc nói xong, quay đầu, đưa mắt nhìn tên tùy tùng, nói:

- Truyền lệnh của ta: lệnh cho quan binh truy lùng khắp thành, tróc nã Đoạn Văn Kinh, thêm một kẻ nữa là Từ Khắc Triển. Bọn chúng đã vào cả trong thành. Nếu ai bắt được Đoạn Văn Kinh sẽ được thưởng ba ngàn lạng bạc, bắt được Từ Khắc Triển sẽ được thưởng một ngàn hai trăm lạng. Nếu thả cho chúng chạy thoát sẽ bị nghiêm trị, quyết không tha.

Lại nói chuyện tri phủ Tân Vinh Phiên vội vàng lệnh cho thư lại viết cáo thị dán khắp các đường ngang, ngõ tắt, hiểu dụ quân dân tróc nã tặc đồ.

Lại nói chuyện nghịch đồ Từ Khắc Triển, Đoạn Văn Kinh, Trương Quân Đức ba đứa cùng đám cướp bị đuổi đánh chạy táo tát. Giờ ta không nói tới hai tên Trương, Đoạn. Chỉ nói tới một mình Khắc Triển. Hắn dựa vào một thân võ nghệ, cùng tà thuật, chạy ra khỏi phủ Đại Danh, nhằm phía Đông bỏ trốn. Chạy tới thành Đức Châu, đói ăn, khát uống, ngày nghỉ đêm đi. Hôm ấy, hắn đã tới thành Đức Châu. Thực đúng là "lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt". Tên giặc này đã đâm đầu vào Uông Tử thành. Vào tới trong thành, đưa mắt nhìn lên, gặp ngay một quán trà, Khắc Triển tiến vào, chẳng ngờ gặp ngay oan gia tại đó. Người ấy ngồi trong xe, đưa mắt nhìn, nghĩ thầm: "Người này chẳng phải là nghịch tặc giết quan ở phủ Đại Danh đó sao?"

_________________
 

hoahongden12

Active Member

Tặc nhân vào Đức châu, gặp ngay nhị nha Trần Công của Đức Châu. Vị Trần nhị nha này từng tới Đại Danh dự sinh nhật của đạo đài, được Từ Khắc Triển tiễn về, do đó biết mặt mã khoái Từ Khắc Triển của phủ Đại Danh.

Lại nói chuyện nhị nha Trần Công của Đức Châu, ngồi trong xe, nhìn qua rèm cửa, thấy trước cửa quán trà có một người đang đứng. Người ấy mặt đen, mình cao năm thước, tuổi độ hai bảy, hai tám. Nhìn kỹ lại, thấy chẳng phải ai xa lạ, chính là mã khoái Từ Khắc Triển trong nha môn đạo đài phủ Đại Danh. Trần nhị nha thấy vậy, giật mình, bụng nghĩ thầm:

- Hắn cùng nha dịch Đoạn Văn Kinh giết hết một nhà bảy mạng người nhà Hùng đạo đài của phủ Đại Danh rồi nhân lúc đêm tối bỏ chạy. Tổng đốc phủ Bảo Định là Lưu đại nhân đã tấu vụ này lên Hoàng thượng. Lão phật gia vô cùng bực tức, đã hạ chỉ xuống cho Lưu đại nhân: "Phải cùng đề đốc Cổ Bắc Khẩu là Diêm đại nhân bắt cho được lũ nghịch tặc Đoạn Văn Kinh, trẫm sẽ đích thân thẩm vấn". Nay tất cả châu, phủ, huyện đểu có vẽ hình tróc nã bọn chúng. Hơn nữa, Lưu đại nhân của phủ Bảo Định đã có cáo thị viết rõ ràng: "Ai bắt được Đoạn Văn Kinh sẽ được thưởng ba ngàn lạng. Bắt được Từ Khắc Triển, Trương Quân Đức, Lưu Phụng sẽ được thưởng một ngàn lạng bạc. Ai báo tin sẽ được thưởng năm mươi lạng". Chẳng ngờ, nay hắn lại xuất hiện trong thành Đức Châu này. Nay ta sai người bắt lấy hắn, chẳng phải đã lập được một công lớn đó hay sao?

Trần Công ngồi trong xe thầm tính tới chuyện bắt Từ Khắc Triển lập công, nghĩ thầm: người này giữ chức mã khoái trong phủ Đại Danh, vốn nổi tiếng về những chuyện đuổi cướp, bắt giặc. Bản lĩnh của hắn, ta cũng đã biết tiếng. Một mình hắn có thể cự lại rất nhiều binh sĩ. Thành Đức Châu tuy có nhiều binh đinh và nha dịch, nhưng chỉ toàn là bọn tầm thường. Nếu chỉ dựa vào chúng mong bắt được tên nghịch tặc này, theo ta nghĩ, đó là điều không thể. Chi bằng chớ nên khinh suất, manh động để hắn sợ hãi bỏ đi mất, thì công của ta cũng thành không công.

Trần nhị nha vừa đi vừa nghĩ, chẳng mấy chốc, nha môn của ông ta đã hiện ra trước mắt. Tới trước mái hiên, xuống xe, sải bước đi thẳng vào trong, tiến thẳng vào thư phòng, ngồi xuống ghế thái sư. Tên người hầu vội bưng trà lên. Nhị nha đón lấy, Trần nhị nha cúi đầu suy nghĩ một hồi, chợt nảy ra một kế, nói:

- Nhất thiết phải làm như vậy, bảo đảm Từ Khắc Triển sẽ trúng kế của ta.

Nhị nha nghĩ xong, lập tức đưa mắt nhìn tên người hầu, nói:

- Ngươi mau đi truyền gọi khoái đầu Vương Văn Tả, nói ta đang đợi tại thư phòng.

Tên người hầu ứng tiếng, xoay mình, bước ra ngoài. Không lâu sau đã dắt khoái đầu vào gặp huyện thừa. Trần nhị nha nói:

- Ngươi ghé tai lại đây, ta có việc này muốn nói.

Vương Văn Tả nghe vậy, vội bước tới, ghé tai sát miệng Trần nhị nha. Chỉ thấy ông ta thì thầm vài câu, khoái đầu miệng liên tục vâng dạ. Một hồi sau, lại thấy nhị nha nói:

- Chuyện không nên để lâu, hãy mau đi thi hành. Văn Tả xoay mình, bước ra ngoài. Trần Công ngồi đợi trong nha môn.

Lại nói chuyện mã khoái trong nha môn đạo đài phủ Đại Danh là Từ Khắc Triển. Từ sau khi cùng anh vợ là nha dịch Đoạn Văn Kinh và hai tên thủ hạ Trương Quân Đức, Lưu Phụng, do mang lòng bất bình nên đã ra tay giết hết bảy mạng người nhà Hùng đạo đài, bị quan binh lùng bắt, đồng bọn tan tác, Từ Khắc Triển chạy về vùng Sơn Đông, tới thành Đức Châu, vào một quán trà xin làm người bổ củi, gánh nước kiếm sống. Hắn cải trang thành người nghèo khổ, nhẫn nại chờ thời.

Hôm ấy, hắn như mọi khi đi gánh nước, từ phía Nam có về phía Bắc. Thấy từ phía trước có một người tuổi độ ngoài ba mươi từ phía Nam tiến lại, chỉ trong chớp mắt đã ngang qua trước mặt Khắc Triển. Từ Khắc Triển vai gánh hai thùng nước vội né sang phía Tây, người ấy cũng tránh sang phía Tây. Từ Khắc Triển lại tránh sang phía Đông, người ấy cũng tránh sang phía Đông, bất đồ va ngay vào thùng nước phía trước của họ Từ khiến nước văng đổ tung tóe! Từ Khắc Triển không nói năng gì, người kia lại trợn mắt, nói:

- Ngươi mù hả? Sao dám gánh nước đi ngang người ông đây làm nước té ướt hết người ông rồi! Nếu ngươi không mau thổi cho khô, ông đây sẽ móc con mắt chó của ngươi ra!

Quý vị độc giả thử nghĩ xem, có phải kẻ ấy muốn gây chuyện hay không? Chẳng ngờ, Từ Khắc Triển vẫn không nổi giận, chỉ mở miệng nói.

Từ Khắc Triển lại nở nụ cười, nói:

- Đại gia. Thực sự tại hạ không muốn va vào ngài. Chỉ vì tránh không kịp nên mới ra như vậy.

Từ Khắc Triển còn chưa nói hết câu, người kia đã lớn tiếng:

- Đúng là tên khốn nạn mắt mù nhà ngươi. Rõ ràng ngươi có ý húc thùng nước vào người ông tổ đây mà. Đùng nói là tên nghèo kiết xác gánh nước cho quán trà như ngươi. Ngay cả tri châu cũng không thể khinh nhờn ta được.

Miệng chửi mắng, định ra tay đánh người. Hắn đưa tay ra, nhằm mặt Khắc Triển đánh tại. Khắc Triển vẫn không dám nổi giận, bởi anh ta biết mình đang bị truy nã. Thấy cái tát sắp tới, vội nghiêng người, tránh qua một bên. Cái tát của người kia lạc vào khoảng không khiến hắn loạng choạng mất mấy bước "bịch" một cái, ngã lăn vào luống hành, mặt mũi xây sát cả, lồm cồm bò dậy, trợn mắt, thuận tay vớ lấy cây đòn gánh, nhằm Triển Khắc bổ xuống chẳng chút nương tay. Mã khoái thấy vậy vội đưa tay lên đỡ đòn gánh. Chỉ thấy "chát" một tiếng, cây đòn gánh bắn tung lên trời. Hai tay người kia cũng bị chấn động, tê rần. Hắn lại hả họng, lớn tiếng chửi bới. Hai người đánh nhau loạn cả lên, chợt thấy, từ phía Bắc có bốn tên công sai chạy tới.

Từ Khắc Triển và kẻ kia đang đánh nhau, chợt thấy từ phía Bắc có bốn, năm tên công sai chạy tới. Từ mã khoái đưa mắt nhìn, thấy chúng ăn mặc theo lối công sai, không lâu sau đã tới trước hai người, dừng lại. Một người trong đám họ hỏi:

- Hai vị tại sao lại đánh nhau?

Người kia chưa kịp nói gì, Từ Khắc Triển đã nói trước:

- Các vị không biết. Khi nãy tại hạ gánh một gánh nước từ hướng Nam đi về hướng Bắc. Hai người bọn tôi đi ngang qua nhau, hắn va vào thùng nước của tại hạ, làm đổ hết cả. Vậy mà còn già mồm, lại ra tay đánh người trước. Quý vị thử nghĩ xem, ai đúng, ai sai?

Từ Khắc Triển chưa nói hết câu, đã thấy đám sai nha có một người mặt rỗ tiến ra, đưa mắt nhìn người kia, nói:

- Anh bạn, vậy chẳng phải anh ăn hiếp người ta sao? Anh đã húc đổ hết nước của người ta, người ta không nói gì, vậy mà còn chửi mắng, ra tay đánh người. Định bắt nạt dân nơi khác tới hả? Anh dựa vào đâu? Tên họ của anh lớn tới cỡ nào mà dáng ngang ngạnh làm vậy?

Người kia nghe công sai nói vậy, trợn cả hai mắt lên, nói:

- Ta hỏi người tại sao lại hỏi vậy. Người định bênh vục hắn sao? Nói cho người biết, hôm nay ông đây nhất định không chịu bỏ qua! Nếu không từng hơi, từng hơi thổi tới khi nào quần áo của ông đây khô đi, ông dây quyết định kiện lên quan mới thôi.

Nghe hắn nói vậy, những người đứng xem ai cũng tức.

Chỉ thấy viên công sai tức bực, nói:

- Người kia nghe đây: Người đã muốn kiện lên quan, các anh em, mau bắt hắn lại!

Ba gã công sai kia nhất tề ứng tiếng, lấy còng ra, cầm trên tay bước lại "Xoảng" một tiếng, tròng ngay vào cổ tên kia. Vung tay ra, tóm lấy hai tay hắn, tròng nốt vào đôi còng tay bằng thép, chẳng nói chẳng rằng, xập khóa lại. Chợt thấy người kia lại hét lên:

- Các người làm vậy là không công bằng. Chẳng phải các ngươi muốn ức hiếp ngươi yếu đuối hay sao? Tại sao không còng nốt hắn lại? Chẳng lẽ hắn là ông tổ của các ngươi sao?

Công sai nghe vậy, nói:

- Không phải hét lên như vậy. Các ông đây làm việc hết sức công bằng.

Nói rồi đưa mắt nhìn Từ Khắc Triển, nói:

- Anh làm thuê nghe ta nói đây: Nay tên này một lòng đòi lên quan, anh cũng phải đi theo một chuyến. Không có gì đáng lo cả. Hãy nghe theo lời anh em tôi đây. Hãy yên tâm đi theo bọn ta một chuyến.

Từ Khắc Triển chẳng còn cách nào khác, đành phải gật đầu nghe theo, nói:

- Cảm ơn thịnh tình của các vị.

Công sai nghe vậy, nói:

- Cứ theo bọn ta, không có chi đáng lo sợ cả.

Rồi cũng còng nốt Khắc Triển lại. Lúc này, cả đám mới nhằm hướng nha môn tri châu thẳng tiến. Vượt đường ngang, ngõ tắt nhanh như tên bắn. Không lâu sau nha môn huyện thừa đã hiện ra trước mắt. Khắc Triển tới trước cổng nha môn, bất giác trong lòng chợt hối hận, nghĩ: Nếu ta vào trong này, ngộ nhỡ có người nhận ra ta, chẳng phải ta đã chui đầu vào bẫy sao? Tự chui đầu vào lưới, muốn chạy thoát thục khó hơn lên trời.
 

hoahongden12

Active Member

Lại nói chuyện đám công sai giải cả Khắc Triển lẫn người kia vào nha môn của huyện Viễn Trần Công, vào trong bẩm báo. Trần Công nghe báo, trong lòng vô cùng mừng rỡ, lập tức thăng đường. Đám nha dịch hét thăng đường xong, chia ra đứng hai bên. Trần Công ngồi trên cao, nói:

- Giải hai tên đánh nhau, gây huyên náo lên công đường!

Đám nha dịch ứng tiếng dạ ran, giải hai người vào. Chợt thấy Trần nhị nha ngồi trên công đường quát vọng xuống:

- Tên tặc đồ Từ Khắc Triển của phủ Đại Danh kia. Ngươi chớ nằm mộng nữa. Nay đã trúng kế của ta rồi. Đúng là: lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng khó lọt.

Từ Khắc Triển ở bên dưới nghe vậy, giật mình kinh hãi, ngẩng đầu, nhìn lên trên. Thấy người ngồi trên công đường chẳng phải ai xa lạ, chính là Trần Công, người trước đây từng tới phủ Đại Danh dự sinh nhật. Từ Khắc Triển hiểu ngay mình đã trúng phải kế do hắn bày ra, nói:

- Thôi thôi, ngươi cứ việc lập công là xong.

Trần nhị nha ngồi trên cao, dặn xuống:

- Đóng thêm gông lớn lên mình nghịch đồ Từ Khắc Triển, tạm giam vào ngục, canh phòng cẩn mật. Ngày mai sẽ tống vào tù xa giải về Bắc Kinh đợi định đoạt.

Đám thủ hạ ứng tiếng dạ ran. Có hai tên, bước tới trước mặt Từ Khắc Triển. Còn chưa kịp đứng vững, Từ Khắc Triển đã dùng hai bên cùi chỏ, đánh ngã lăn ra đất. Lại thuận thế, đứng bật dậy, hai tay vung mạnh sang hai bên. Chỉ thấy "xoảng" một tiếng, đã bứt đứt còng tay. Lùi một bước, nhằm hướng Trần nhị nha trên công đường "soạt" một tiếng, đánh tới. Trần Công thấy vậy, vội chui tọt xuống nấp dưới gậm công án. Lại nghe "vù" sợi xích sắt quạt sạt qua đầu, đập xuống mặt công án nghe "chát" một tiếng.

Chắc hẳn quý vị độc giả sẽ nói cuốn sách này viết thực hoang đường. Đánh sạt qua đầu, không trúng, tại sao lại vang lên "chát" một tiếng? Thì ra, cây gậy trong tay hắn đã đập trúng tấm bình phong phía sau Trần Công nên mới vang lên thanh âm ấy.

Lại nói chuyện Từ Khắc Triển vung cây gậy trong tay đánh tới, lại sải bước bỏ chạy ra ngoài.

Chỉ thấy nghịch tặc Từ Khắc Triển sải bước chạy ra ngoài nha môn, Trần nhị nha dưới gậm bàn vội chui ra, hét:

- Các ngươi mau ra tay! Hắn chính là Từ Khắc Triển, kẻ phạm tội giết quan, cướp kho, hiện đang bị các châu, phủ, huyện vẽ hình truy nã. Ai bắt được hắn, sẽ được thưởng một ngàn lạng bạc. Nếu để nghịch tặc chạy thoát, các ngươi sẽ bị xử tội chém cả nhà như hắn. Các ngươi mau ra tay bắt hắn lại, không được để hắn chạy thoát.

Đám nha dịch nghe quan trên nói vậy, lúc này, đứa nào chẳng ham tiền thưởng, ham công? Lập tức ùa lên bắt nghịch tặc vây tròn Từ Khắc Triển vào giữa. Thiết thước, đoản côn vung loạn cả lên, cậy thế đông người muốn lập công. Từ Khắc Triển thấy vậy cười nhạt, nói:

- Các người nghe cho rõ đây: Tại hạ trước kia cũng làm trong nha môn đạo đài. Trong phủ Đạo Đài ai chẳng biết, trong đám mã khoái ta là kẻ đứng đầu. Chỉ vì, giữa đường gặp chuyện bất bình nên ra tay giết Hùng đạo đài. Từ mỗ vì vậy phải mai danh ẩn tích tại đất Sơn Đông này. Nay, nếu các vị chịu giữ lấy chút tình nghĩa, thả Từ mỗ đi, hẳn là mối đại tình. Nếu không thả cho ta đi, cứ việc xông lên đánh nhau. Tới lúc ấy, chớ trách Từ mỗ ra tay độc địa. Cổ nhân nói: "vô độc bất trượng phu". Đừng nói là bắt ta lập công, chỉ cần đánh trúng người ta, coi như các ngươi đã giỏi lắm rồi!" Còn nếu để ta ra tay, các vị muốn, lành lặn làm chó săn cho quan thực là điều không thể.

Từ Khắc Triển còn chưa nói hết câu, chợt lại thấy nhị nha Trần Công nói:

- Chứ chưa chịu ra tay bắt nghịch đồ? Mau xông lên, bắt hắn, trói lại.

Đám nha dịch nhất tề ứng tiếng, lao lên, ra tay. Từ Khắc Triển trong tay không có một tấc sắt nhưng tên nghịch đồ này không chút sợ hãi. Quý vị độc giả hẳn còn chưa rõ về bản lĩnh của hắn. Mong quý vị hãy nghe ngu hạ kể qua đôi điều. Hắn từng lập tà giáo tại phủ Đại Danh, giáo đầu chính là Đoạn Văn Kinh. Giáo ấy tên gọi Bát Quái trận, giáo đồ chăm chỉ rèn luyện võ công. Bởi vậy, hôm nay hắn mới không lo sợ, cũng bởi trong mắt hắn, mấy tên sai nha chẳng có gì đáng kể.

Lại nói chuyện đám nha dịch của Trần Công nghe quan trên nói vậy, chúng cùng ra tay, những mong cậy số đông thủ thắng Một lòng muốn bắt Từ Khắc Triển lập công, lĩnh thưởng. Khoái đầu Vương Văn Tả muốn thể hiện bản lĩnh trước mặt quan trên, tay cầm một cây thước sắt nặng tới ba, bốn mươi cân, tiến lên một bước, tới trước mặt Từ Khắc Triển, tay nâng thước sắt, vận sức đập xuống. Từ Khắc Triển thấy vậy, né qua một bên. Cây thước sắt trong tay khoái đầu Vương Văn Tả đi vào khoảng không. Anh ta mất đà, chúi về phía trước, suýt chút ngã lăn. Mã khoái Từ Khắc Triển thấy vậy vội xoay mình, đá một cước thật mạnh vào lưng khoái đầu Vương Văn Tả. Vương Văn Tả xem ra cũng khá, tuy không hơn được Từ Khắc Triển nhưng cũng thuộc loại giỏi. Thấy thiết thước đánh hụt, vừa định thu tay về, chợt thấy Từ Khắc Triển tung chân đá vào lưng mình, không dám chậm trễ, vội chúi mình về phía trước. Cú đá của Từ Khắc Triển cũng rơi vào khoảng không. Khoái đầu Vương Văn Tả quay mình lại, tay nâng thước sắt đánh tới. Từ Khắc Triển thấy vậy, không thèm né tránh, lại tiến lên một bước, dùng thế cử hỏa thiêu trời, đẩy mạnh một cái về phía cổ tay của Vương Văn Tả. Lại đùng phương pháp phá theo thế hẳn ty thúc uyển, đè xuống. Vương Văn Tả né sang bên. Từ Khắc Triển lại dùng chiêu Hỷ tước đăng chi, "chát" một tiếng, đá trúng ngay mặt khoái đầu họ Vương một cuộc khiến Vương Văn Tả bật ngửa ra phía sau, tay mềm nhũn. Từ Khắc Triển đoạt lấy thước sắt có binh khí trong tay, hắn chẳng còn lo gì nữa.

Chỉ thấy Từ Khắc Triển đoạt được binh khí, tay cầm thước sắt đứng chính giữa. Đám công sai tuy vây kín chung quanh nhưng không kẻ nào dám xông lên động thủ. Trần nhị nha lén sai người đi thông báo với du kích Đức Châu là Lý Thắng Long cùng thủ bị Phùng Hưng Vũ, thiên bả, ngoại ủy v. v.. Họ dẫn theo hơn trăm binh sĩ tới thẳng nha môn của Trần Công. Lại nói chuyện Từ Khắc Triển tay nắm thước sắt, miệng hét vang:

- Các ngươi nghe cho rõ đây: Kẻ nào ngăn cản ta, sẽ không thể sống nổi?

Đúng lúc nghịch tặc đang lớn lối, chợt thấy bên ngoài nha môn vang lên tiếng hò hét.

- Chớ để hắn chạy thoát. Phản đồ Từ Khắc Triển thực lớn gan. Mau bắt tội đồ lập công.

Thì ra binh mã của du kích đã tới, vây kín nha môn lại. Người nào cũng có trường thương, đoản côn cầm trong tay. Lý du kích dẫn theo đám thủ bị, thiên, bả tổng tiến vào nha môn của Trần Công. Đám công sai tuy vây kín Từ Khắc Triển nhưng không ai dám xông lên bắt hắn. Lý Thắng Long lập tức truyền lệnh dặn đám thủ hạ:

- Mau xông lên bắt tội đồ, chớ để hắn chạy thoát.

Phùng thủ bị và viên thiên tổng tên gọi Trương Sĩ Hỷ tay cầm hổn thiết thương, lại thêm bả tổng tên gọi Vương Như Hổ và kinh chế ngoại ủy Trần Anh, bốn viên quan nhất tề xông lên bắt một tên nghịch đồ. Từ Khắc Triển đang lớn lối. Hắn muốn dọa đám công sai để chạy tháo thân, tay cầm thước sắt vung lên. Chợt thấy bốn viên tướng quan sách vũ khí xông tới.
 

hoahongden12

Active Member

Từ Khắc Triển lao lên, chợt thấy có bốn người xông tới, tay cầm binh khí, cả bốn đều đội mũ. Một người đội thủy tinh đỉnh, một người đội mũ chỏm bạc, hai người đội mũ chỏm vàng, vung binh khí trong tay chỉ vào hắn, nói:

- Nghịch tặc Từ Khắc Triển nghe đây: Ngươi bất tuân vương pháp, dám giết hại mệnh quan triều đình, nhân lúc đêm tối bỏ chạy. Nay khắp các châu, phủ, huyện đều cho vẽ hình tróc nã ngươi. Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt - Thiết nghĩ ngươi lúc này thân đã rơi vào thiên la địa võng, mau nhanh chóng chịu trói, xem ra còn được sống thêm vài ngày. Nếu chần chừ, không chịu tỉnh ngộ, bọn ta sẽ khiến người phải phơi thân tại chốn này.

Từ Khắc Triển nghe Phùng thủ bị nói vậy, bất giác cười nhạt.

Chỉ thấy Từ Khắc Triển trả lời, nói:

- Các vị lão gia xin hãy nghe tôi nói: Tuy tôi giết tham quan, nhưng cũng bởi không thể làm khác được. Lão gia thử nghĩ xem, Hùng đạo đài của phủ Đại Danh hoành hành bá đạo, cậy mình làm quan ngang ngược vô cùng. Hắn dung túng con trai chiếm đoạt gái đã có chồng, thực chẳng coi pháp luật, đạo trời ra sao cả! Từ mà gặp chuyện bất bình nên mới ra tay giết Hùng đạo đài, mai danh ẩn tích tới đất Son Đông này.

Khắc Triển còn chưa dứt lời, thủ bị đã nói:

- Hùng đạo đài của phủ Đại Danh tuy không phải, nhưng còn có luật lệ của nước nhà. Nha dịch sao dám giết quan trên? Thực chẳng khác gì con cái giết cha mẹ cả. Chớ nói lôi thôi, mau chịu trói, còn nói thêm nửa lời sẽ phải chết ngay!

Nói xong, quay xuống quát thủ hạ:

- Mau bắt lấy tên phản đồ nghịch tặc!

Thiên, bả, ngoại ủy ứng tiếp, nhất tề xông lên, một lòng muốn bắt mã khoái lập công. Khắc Triển thấy vậy, không chút chậm trễ, tay cầm thước sắt, mắt đỏ ngầu, miệng hét lớn:

- Mau tránh đường! Tên nào cản ta, quyết không sống nổi.

Rồi lao ra ngoài. Thủ bị vội tiến ra chặn lại. Cây thước sắt trong tay Từ Khắc Triển vung lên, chỉ thấy "soảng" một tiếng, cây đao trên tay thủ bị rơi ra đất. Thiên tổng thấy vậy vội xông lên, múa thiết thương nhằm ngực hắn đâm tới. Từ Khắc Triển không thèm né tránh, xông lên một bước, vung thước sắt gạt ra. Tiến thêm nước nữa, tay cầm thước sắt giơ cao, nhằm đầu thiên tổng bổ xuống. Thiên tổng thấy vậy giật mình, né qua một bên nhưng không kịp, bị thước sắt đập trúng cổ. Trương Sĩ Hỷ lập tức cảm thấy tối sầm mặt mũi, đứng không vững, ngã "huỵch" ngay ra nền. Bả tổng, ngoại ủy thấy vậy, trong lòng kinh sợ, không dám xông lên động thủ nữa. Binh đinh, nha dịch cũng vội dạt ra hai bên, sợ hãi, tự bảo vệ lấy thân. Triển Khắc thấy vậy vô cùng mừng rỡ, vội sải bước chạy ra ngoài nha môn.

Du kích vội kêu lên:

- Không ổn. Nghịch đồ chạy thoát, hậu quả khôn lường!

Du kích Đức Châu là Lý Thắng Long thấy nghịch đồ Từ Khắc Triển một thước đánh ngã thủ bị Phùng Hưng Vũ và thiên tổng Trương sĩ Hỷ, đám binh lính không dám ngăn cản, vội dạt ra nhường đường cho nghịch tặc tháo chạy. Du kích thấy vậy vội xuống khỏi lưng ngựa, rút thanh đao bên hông ra, đuổi theo, chặn cửa lại. Từ Khắc Triển không chút chậm trễ, chạy tới trước bức tường, hai chân nhún mạnh "soạt" một tiếng, nhảy lên đầu tường. Nhị nha thấy vậy, kêu lên:

- Lý lão gia, không cần chặn cửa, hắn nhảy lên đầu tường, bỏ chạy rồi.

Du kích nghe Trần Công nói Từ Khắc Triển nhảy lên tường bỏ chạy vội cầm thanh đao trong tay, chạy ra ngoài.

Lại nói chuyện du kích xách đao đuổi theo. Đám binh đinh đứng ngoài nha môn canh phòng bên tường chợt thấy một kẻ nhảy lên đầu tường, đồng loạt hô vang:

- Ra rồi! Mau bắt! Mau bắt lấy!

Binh sĩ Đức Châu luôn miệng hò hét "bắt!" nhưng không tên nào dám ra tay. Tại sao vậy?

Quý vị độc giả hẳn chưa biết. Khi đám binh đinh đứng vây bên ngoài, bên trong nói chuyện, ra tay thế nào, chúng đều đã rõ cả. Thủ bị, thiên tổng đều bại trận. Hơn nữa, trong đó có bao nhiêu binh đinh, nha dịch còn không bắt nổi hắn, còn để hắn nhảy lên tường chạy ra, bản lãnh ấy, chúng tự biết mình không phải là đối thủ. Chỉ cần trông thấy diện mạo, dáng vẻ của Từ Khắc Triển cùng cây thước sắt hắn cầm trong tay thôi là không ai dám xông lên rồi. Do đó, chúng chỉ dám hô "bắt" mà không tên nào dám xông lên.

Từ Khắc Triển nhảy lên đầu tường, lại vội vàng xách thước sắt bỏ chạy, chỉ mong ra khỏi cửa Nam thành Đức Chân. Chẳng ngờ, Tống thái gia của Đức Châu sau khi hay tin đã lập tức sai người đóng kín cả bốn cửa thành.

Lại nói chuyện Từ Khắc Triển tay cầm thước sắt chạy về phía Nam, một lòng muốn ra khỏi cổng thành. Giờ ta hãy nói tới chuyện của Đức Châu du kích Lý Thắng Long. Nghe nhị nha Trần Công kêu vậy, ông ta sao dám chậm trễ. Lập tức xách theo cương đao, đuổi ra ngoài nha môn, đưa mắt nhìn. Thấy Từ Khắc Triển chạy về phía Nam. Lý Du kích lúc này cũng chẳng kịp điều động thủ hạ, tay xách đại đao đuổi theo sau, chỉ sợ tên nghịch tặc chạy thoát mình sẽ mang tội. Lại nói chuyện Từ Khắc Triển đang bỏ chạy, chợt ngẩng đầu nhìn lên, thấy cổng Nam thành đã hiện ra trước mắt. Tặc đồ trong lòng vô cùng mừng rỡ, miệng thầm niệm mấy câu "Di Đà". Chỉ cần thoát ra khỏi thành này, lo gì quan binh đuổi kịp hắn. Từ Khắc Triển vừa chạy vừa nghĩ, ngẩng mặt nhìn lên, trong lòng chợt kinh hoàng. Hai cánh cổng thành đã được đóng kín, trước cổng thành còn có mấy tên lính tay cầm trường thương và cung tên. Nghịch tặc không dám chạy tiếp, vội xoay mình rẽ sang hướng Đông. Phía sau hắn, quan binh đuổi thực gấp, xem ra đã sắp đuổi kịp kẻ giết quan của phủ Đại Danh.
 

hoahongden12

Active Member

Từ Khắc Triển tới cửa Nam thành Đức Châu, thấy cửa thành đã đóng kín, trước cửa thành còn có mấy người vác thương canh phòng. Nghịch đồ thấy vậy, không dám tiến lên, vội vã xoay mình, chạy về phía ngõ nhỏ phía Đông. Phía sau có du kích Lý Thắng Long, thủ bị Phùng Hưng Vũ, thiên tổng Trương Sĩ Hỷ, bả tổng, ngoại ủy và nhị nha Trần Công dẫn theo mấy tên binh đinh, nha dịch đuổi theo.

Lại nói chuyện Từ Khắc Triển chạy vào ngõ nhỏ, ngẩng đầu nhìn lên, thấy không có đường ra tới chân thành! Thì ra đó là một con ngõ cụt.

Nghịch tặc thấy vậy, nghĩ thầm:

- Không ổn. Trước có tường thành cản lối, sau có truy binh đuổi dần. Mệnh ta hỏng rồi.

Chỉ trong chớp mắt, truy binh đã từ phía sau đuổi tới, hét lên:

- Bắt lấy hắn! Bắt lấy hắn! Đây là ngõ cụt, hắn không thể chạy được nữa.

Nói xong, nhất tề xô cả lên. Từ Khắc Triển thấy thế không ổn, cũng không đám đánh nhau với đám đông. Nhìn sang phía Bắc thấy mái nhà thấp hơn hai bên kia một chút, vội nhún mạnh chân "soạt" một tiếng, nhảy vọt lên mái nhà. Mọi người thấy vậy lại kêu lên:

- Hắn nhảy lên mái nhà! lên mái nhà rồi!

Du kích Lý Thắng Long thấy Từ Khắc Triển nhảy lên mái nhà không dám chậm trễ, vội sai thủ bị Phùng Hưng Vũ dẫn theo năm mươi tên lính đứng canh phòng một phía. Còn ông ta dẫn theo thiên, bả cùng ngoại ủy và đám binh đinh, nha dịch chạy sang phía Bắc căn nhà, chia quân ra canh giữ hai bên, xem hắn chạy đi đâu.

Lại nói chuyện Từ Khắc Triển nhảy lên mái nhà, đưa mắt nhìn, thấy hai bên đều có binh sĩ canh giữ, không dám nhảy xuống. Nhìn sang phía khác, bất giác vô cùng mừng rỡ. Như khi nãy đã nói, đây là một con ngõ cụt, phía Đông là tường thành căn nhà này sát ngay chân tường thành. Từ Khắc Triển muốn từ mái nhà nhảy lên tường thành tháo chạy.

Hắn vội chạy như bay về hướng Đông. Âu cũng là số mạng nghịch đồ đã hết, ông trời bắt hắn phải chịu họa lăng trì. Kính thưa quý vị độc giả. Châu huyện xa không thể nào giàu có bằng thành Bắc Kinh. Nơi này rất ít nhà ngói, đa số là nhà lá, chẳng qua chỉ có thể sống tạm trong đó mà thôi. Lại gặp ngay phải ngôi nhà này xây cất đã lâu, gỗ, lá đều đã mục nát cả. Từ Khắc Triển không biết được điều này, một lòng muốn nhảy lên tường thành tháo thân. Vừa chạy tới đầu mái, chợt thấy "soạt" một tiếng, mái nhà sụt xuống một khoảng lớn, đất bùn rơi cả xuống. Từ Khắc Triển cũng rơi tọt xuống theo. "Huỵch" một tiếng, lăn ngay xuống dưới.

Lại nói chuyện Từ Khắc Triển đạp sập nóc nhà, rơi huỵch xuống dưới. Căn nhà ấy của ba mẹ con một quả phụ, một mẹ với hai người con trai. Người con trai lớn ba mười sáu tuổi, tên gọi Vương Văn Tả, hiện đang là mã khoái trong nha môn Trần nhị nha. Người con trai nhỏ mới mười tám tuổi, tên gọi Vương văn Phúc. Hai mẹ con đang ăn cơm trong phòng, chợt nghe "huỵch" một tiếng, từ trên nóc nhà có người lăn xuống, rơi trúng vào bàn cơm. "Ầm" một tiếng, đè nát hết bát đĩa, chén nồi! Hai mẹ con giật mình kinh hãi, quăng vội bát cơm trong tay. Mẹ của Vương Văn Tả là Trần Thị, vội đứng dậy đưa tay chỉ, nói:

- Người này thực chẳng ra gì! Ngươi hết đường, không còn chỗ để đi hay sao mà lại đi trên mái nhà ta? Dẫm sập cả mái nhà? Rơi xuống dưới đè vỡ hết xoang nồi, bát đĩa nhà ta?

Lại nói chuyện nghịch đồ Từ Khắc Triển muốn chạy trên mái nhà, nhảy lên lương thành tháo thân. Không ngờ mới chạy tới nóc nhà của khoái đầu Vương Văn Tả, chỉ thấy "rào" một tiếng, sập một mảng lớn, cả hắn cũng rơi tọt xuống dưới, đè vỡ hết bát đĩa xoang nồi nhà người ta. Vội vàng bò dậy, còn chưa đứng vững, đã thấy có người mắng mình. Từ Khắc Triển vội đưa mắt nhìn lên.

Từ Khắc Triển đưa mắt nhìn lên, chỉ thấy trước mặt mình là hai người, một nam, một nữ, miệng nói liến thoắng không ngớt lời. Nghịch tặc cũng không dám chạy ra ngoài vì sợ đám quan binh. Tuy võ nghệ đầy mình nhưng mãnh hổ nan địch quần hồ. Đúng lúc tặc nhân đang lo sợ, chợt lại nghe thấy bên ngoài có tiếng gọi "mẹ", nói:

- Mau ra mở cửa cho com

Từ Khắc Triển đang lúc kinh hãi, chợt lại thấy bên ngoài có tiếng gọi cửa. Tên nghịch tặc không dám chậm trễ, vội xoay mình bước ra ngoài. Thì ra khoái đầu Vương Văn Tả đã trở về. Mẹ anh ta thấy con trở về, vừa định bước ra ngoài, chợt thấy người vừa rơi trên mái nhà xuống kia cũng đi ra. Trần Thị thấy vậy vội đưa tay ra tóm hắn lại. Tên giặc lách mình một cái, đã luồn ra tới sân, đứng đó nhòm ra ngoài.

Từ Khắc Triển ra sân nhìn ngó, khép hai cánh cửa lại nhìn ra ngõ. Thấy một người đang đứng ngoài đó gọi:

- Mẹ mau ra mở cửa cho con.

Nói rồi đưa tay ra xô cửa, chạy thẳng vào trong. Ngẩng đầu lên, thấy Từ Khắc Triển, bất giác hai mắt đỏ ngầu, xông thẳng tới chỗ hắn, tay cầm thước sắt bổ xuống không chút nương tay, một lòng muốn bắt giặc dâng lên quan trên lập công. Nghịch tặc thấy vậy đang định bỏ chạy, chợt nghe ngoài cửa có tiếng hét lên:

- Chớ chạy, tên giặc lớn gan kia!

Từ Khắc Triển không một tấc sắt trong tay, thấy Vương Văn Tả tay vung thước sắt lao bổ lại phía hắn. Tục ngữ nói: tặc nhân đảm hư, vội lách mình bỏ chạy. Chợt lại nghe thấy bên ngoài cửa, tiếng hò hét vang lên rầm trời. Tặc đồ kinh hồn hoảng vía. Thực đúng là một kẻ liều chết, vạn người khó ngăn. Từ Khắc Triển cuống lên, cậy có võ nghệ và tà thuật hộ thân, vội đưa tay ra, luồn vào Vương Văn Tả. Khoái đầu vừa lao tới, tên giặc cũng lao vào. Hai cổ kình lực va vào nhau, Vương Văn Tả ngã lăn ra. Tặc nhân thắng thế, lập tức đoạt lấy cây thước sắt trong tay khoái đầu, trong lòng vô cùng mừng rỡ. Vừa đoạt được vũ khí trong tay, uy phong lập tức nổi lên, miệng nói:

- Thái gia đã có vũ khí, sợ gì đám cẩu nam nữ các ngươi!

Nói xong, tay vung cao thước sắt, nhằm Vương Văn Tả bổ xuống.

Đang định bỏ chạy, chẳng ngờ gặp ngay Lưu đại nhân đi tuần sông trở về, thuyền của ông ta ngang qua Đức Châu, gặp đúng lúc quan binh Đức Châu đang đuổi bắt nghịch tặc giết quan. Hơn nữa Lưu đại nhân nóng lòng trở về phụng chỉ nên không dùng tới truyền bài. Đại nhân vốn thích vi hành, đi khắp nơi xử trị lũ tham quan ô lại cùng cường hào, ác bá nên chẳng mấy khi ông dùng tới truyền bài. Kiệu của đại nhân vừa tới cửa Nam, chợt thấy có nhiều binh đinh tay cầm ô thương đang vội vàng đóng cổng thành. Đại nhân không rõ ra sao, chợt lại thấy quan binh hè nhau đuổi bắt giặc, bèn quay sang nói với Trần Đại Dũng, Chu Văn, Vương Minh.

- Các vị hảo hán nghe đây: Quan binh thành Đức Châu đang bắt cướp, nghe nói tặc nhân tinh thông võ nghệ. Ta lại ngang qua đây, hãy giúp họ một tay bắt giặc.

Đại Dũng, Chu, Vương ứng tiếng, xách binh khí chạy đi bắt người. Nếu không có Chu, Vương, Đại Dũng ra tay, chắc gì quan binh Đức Châu đã bắt nổi Từ Khắc Triển để giải về kinh đô cho Hoàng thượng xét xử. Đại Dũng, Chu, Vương cũng đâu được thăng quan. Lại nói chuyện ba người xông lên, miệng hô vang:

- Tặc nhân chạy đâu thoát!

Quan binh nghe vậy giật mình, không biết những kẻ này là ai. Chỉ thấy ba người xô chạy lên, cắt đường xô về phía ác nhân. Quan binh chẳng biết phải làm sao, đành mặc kệ họ, chờ xem sự việc biến đổi thế nào. Lại nói chuyện ba vị anh hùng, Đại Dũng dẫn đầu, Chu Văn, Vương Minh theo sau. Ba người chạy thẳng tới chỗ Từ Khắc Triển. Nghịch đồ vội ngẩng đầu lên nhìn, thấy ba người đều ăn mặc theo lối bổ đầu, không biết họ là ai. Một người tay vung thước sắt đánh xuống, một người múa thương vù vù, người còn lại tay vung một thanh cương đao, nhằm phía hắn lao bổ tới. Khắc Triển khẽ nở nụ cười, hắn vốn chẳng coi ba người ấy ra gì, tay vung cây thước sắt lên. Tặc nhân đã lên cơn vong mạng, tự thấy khó thoát khỏi thành này, định liều sống chết với ba người kia. Hắn múa thước lao về phía Trần Đại Dũng. Hảo hán thấy vậy khẽ nhíu mày, Chu Văn, Vương Minh hét lớn:

- Mau xông lên, bắt lấy tên giặc giết quan này! Đã học được một thân võ nghệ, trượng phu cần thể hiện anh danh!

Đại Dũng trả lời, nói:

- Phải lắm. Các anh em, chúng ta hãy cố sức bắt giặc. Nếu để tên giặc giết quan này chạy mất, còn đâu nữa danh tiếng của bọn ta.

Nói xong, cả ba người cùng xông lên, vây lấy tên giặc quyết không cho hắn thoát. Nghịch tặc thấy vậy, bật cười ha hả, nói:

- Lũ chó săn nghe ta nói đây: Trước kia, ông đây cũng là một mã khoái, làm kinh động cả tòa thành Đại Danh. Các ngươi dám tới đây bắt ta ư? Ta phải cho các ngươi khó lòng toàn mạng.

Nói xong tay vung thước sắt, lao vào liều chết với ba người, Đại Dũng, Chu, Vương không dám chậm trễ, vội vung binh khí lao về phía tặc nhân. Lúc này, Triển Khắc đôi mắt đỏ ngầu, hận không thể nuốt sống ba người bọn họ. Hắn nhảy vọt tới, Đại Dũng vội xoay mình. Tặc nhân không chịu nổi ngã xuống đánh "huỵch" một tiếng. Vậy là ba người bọn họ đã bắt được tặc nhân. Càn Long lão Phật gia đích thân thẩm vấn.
 

hoahongden12

Active Member

Tài miên bản thị chân báo

Tự có đáo kim hy hấn

Năng trị gia trạch công môn diện

Hữu quyền thực tại phương tiện

Động thân bất dụng bộ tẩu

Hành lộ xa mã dương tiên

Sử nô hoán tì tương thoại ngôn

Lập tại nhân tiền hảo khán

Ngân tiền bản thị tàng vật

Vô nghĩa tư tài hưu tham

Tác quan vi tài bả tâm thiên

Nhược đắc thứ dân hận oán

Vi nhân mạc đương tài chủ

Thao tâm phí lục bất an

Dịch thơ:

Vàng lụa vốn là của báu

Từ xưa đến nay được yêu dấu

Có tiền điều khiền gia đình nhà cửa

Có quyền tha hồ chọn lựa

Cất mình không cần chân bước

Trên đường xe ngựa đi đầu

Thoải mái sai con ở người hầu

Đứng trước đám đông nhanh nhẩu

Tiền bạc vốn là thứ để cất

Của vô nghĩa thôi đừng hám

Làm quan vì tiền lòng nghiêng ngửa

Gây cho dân lành nỗi hận oán

Làm người xin chớ làm tài chủ

Hao tâm tổn sức lại không yên.

Lại nói chuyện triều đình Đại Thanh truyền tới đời Hoàng đế thứ sáu, Hoàng đế Ung Chính ở ngai vàng mười ba năm thì băng hà. Người con trai thứ tư của Ung Chính là Ái Tân Giác La Hoàng Lịch lên kế vị, đặt niên hiệu là Càn Long. Từ sau khi Hoàng đế Càn Long lên ngôi, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Đám vương thân, đại thần văn võ trong triều đều có lòng yêu dân, yêu nước. Người đứng đầu là Đông đài ngự sử Trại Quang Đỉnh, Tây đài ngự sử Điền Cương Phong, thứ tới là Nhị vương gia, Thu đầu thái tuế Quách Anh, Thủ tướng Kỷ Thiểu Uy Lại bộ thượng thư Lưu Dung, Trấn điện tướng quân Ngô Năng, Hà giang nhiệm khâu Tô ứng Long, Cửa môn đề đốc Hòa Vương Thân, Hộ bộ thị lang Quốc Thịnh. Em của Quốc Thịnh giữ chức Sơn Tây Cam Ninh đạo, con lớn của Quốc Thịnh là Quốc Thái phụng mệnh thiên tử làm Tuần phủ Sơn Đông. Con gái của Quốc Thịnh được Hoàng đế Càn Long lấy làm Tây cung phi tử. Quốc Thịnh được Hoàng đế Càn Long cho phép cưỡi ngựa vào triều.

Lại nói chuyện tỉnh Sơn Đông ba năm liền không có thu hoạch. Năm đầu tiên gặp nạn hạn hán, năm thứ hai gặp nạn mưa đá, đá to như miệng bát ăn cơm. Tháng ba năm thứ ba, mưa liên miên tới tận tháng tư mới dứt. Mưa đến nỗi vùng đất cao cũng phải đi thuyền. Giá lúa mạch một thạch tám xâu năm, sáu trăm tiền. Giá gạo đỏ một thạch sáu xâu bảy, tám trăm tiền. Dân chúng không có cái ăn, phải vặt lá, lột vỏ cây chống đói. Những vùng ngập nước, dân chúng cắt cỏ nước đem bán cho người ta dùng làm thức ăn. Tại phủ Tế Nam mở ra một chợ người, người nghèo khó dắt theo con trai, con gái tới chợ này rao bán như rau cỏ. Trong chợ chỉ nghe thấy tiếng kêu khóc như loa, tiếng rên la đói khát náo động cả một khoảng trời. Lại có kẻ gánh theo bầu đoàn thê tử đi khắp nơi chạy nạn. Có rất nhiều nạn dân chạy tới phủ Thuận Thiên, Bắc Kinh làm ăn mày khắp đầu đường xó chợ.

Hôm ấy, đám nạn dân Sơn Đông đang ăn xin trên đường, gặp đúng lúc Lại bộ thượng thư Lưu Dung bãi triều, thấy nạn dân đứng đầy đường liền dặn dò:

- Hạ kiệu!

Rồi hỏi vọng ra ngoài:

- Đám các ngươi sao dám kết bè kết đảng, kêu réo trên đường của Hoàng thượng? Lưu Dung ta gặp được, lẽ nào lại để các ngươi tiếp tục hỗn xược, đi lại lung tung như vậy?

Đám nạn dân nghe vậy, biết ngay đó là Lưu lại bộ, người cùng quê với mình, nhất tề kéo nhau tới trước kiệu, quỳ xuống, miệng nói:

- Lưu lão đại nhân, bọn tiểu nhân không phải tới đây quấy nhiễu. Đám nạn dân này đều là người vùng Sơn Đông. Quê hương ba năm liền bị mất mùa, hạn hán, lũ lụt, không có chút gì thu hoạch, đói đến nỗi phải ăn thịt lẫn nhau. Bởi vậy mới chạy nạn khắp nơi. Nay tới Bắc Kinh, làm huyên náo trước kiệu của đại nhân, tội thực đáng muôn chết.

Lưu lại bộ nghe đám nạn dân nói vậy, bất giác trong lòng thầm chua xót, khẽ thở dài một hơi, nói:

- Nay ta cũng chẳng biết phải làm sao, chẳng có kế nào. Bản bộ viên chỉ có thể đợi tới sáng ngày mai tấu lên Hoàng thượng, khẩn cầu Người phát ngân lượug cứu tế cho đám các người mà thôi.

Đám nạn dân nghe vậy, dập đầu lạy tạ, tản đi.

Lưu lại bộ về phủ, lập tức viết một bản tấu. Sáng sớm hôm sau lên điện trình. Hoàng đế Càn Long xem qua, chuẩn tấu, phát xuống bốn mươi tám vạn thạch gạo, ba gánh bạc tới Sơn Đông phát chẩn cho lê dân. Vừa ra khỏi Chương Nghi môn, lại thấy bản tấu của Tuần phủ Sơn Đông Quốc Thái tới triều. Quan trực nhật dâng bản tấu lên Hoàng đế Càn Long ngự lãm. Vạn tuế gia giở bản tấu ra xem, trong lòng chợt ngần ngừ nghĩ thầm: "Tại sao tuần phủ Sơn Đông Quốc Thái trong bản tấu lại viết rằng: Tỉnh Sơn Đông mưa thuận gió hòa, dân chúng no đủ vui vẻ. Nhưng trong bản tấu của Lưu Dung lại viết: Tỉnh Sơn Đông ba năm liền mất mùa". Rồi lại nghĩ: "Phải rồi. Lưu Dung chỉ là nghe tin. Còn Quốc Thái mới là thực tế". Rồi hạ liền hai đạo chỉ. Một đạo thu lại gạo tiền phát chẩn. Đạo kia gởi thẳng tới nha môn tuần phủ Sơn Đông. Quốc Thái tiếp chỉ, mở ra xem, thấy trong đó viết: "Sơn Đông liên tục được mùa, tình hình ổn định, sẽ cho mở trường dạy học tại đó". Quốc Thái xem xong, trong lòng vô cùng hoan hỉ.

Kính thưa quý vị đọc giả, gã Quốc Thái này cậy mình là anh trai của Tây cung nên đã giấu nhẹm chuyện tỉnh Sơn Đông mất mùa đi, dâng bản tấu về triều nói vùng này luôn được mùa, dân chúng sung túc. Hắn làm vậy vì muốn được thăng quan tiến chức, và cũng là muốn tác oai tác phúc tại Sơn Đông.

Quốc Thái xem thánh chỉ xong, lập tức viết tờ cáo thị, thúc giục các phủ, châu, huyện nộp lương. Đám lê dân, ngày thường vốn đã chẳng thiết sống, lấy đâu ra lương, tiền nộp thuế. Hễ ai không có tiền lương nộp lên, lập tức có trát gọi lên công đường, phạt đánh bốn mươi gậy lớn, rồi đóng năm người chung một chiếc gông lớn, đem đi rong đường thị chúng. Chín châu, mười phủ, một trăm linh tám huyện vùng Son Đông có vô số người không thể nộp nổi thuế, nên dân chúng bị đóng gông, rong trên đường nhiều vô kể. Việc này đã làm kinh động đến hai viên thư sinh, một người là Cử nhân Trần Trinh Minh, một người là tân khoa cử nhân Quách Đại An, thấy dân chúng cực khổ như vậy, vội mặc áo, đội mũ tới thẳng nha môn tuần phủ, lên trước công đường quỳ xuống, nói:

- Bẩm đại nhân! Vùng Sơn Đông này mấy năm liền mất mùa, dân chẳng thiết sống, khó nộp nổi thuế. Thỉnh cầu phủ hiến đại nhân đặc cách khai ân thương xót, tạm tha cho đám lê dân về nhà, đợi khi mùa màng tốt tươi sẽ bắt dân chúng nộp bù cả thể. Quốc Thái nghe vậy, đập bàn ầm ầm, đưa tay chỉ thẳng vào hai viên thư sinh nói:

- Lẽ nào bản viện không biết Sơn Đông liên tục bị mất mùa, đói kém? Bản viện thúc thuế vốn do Hoàng thượng thúc bản viện phải nộp thuế. Hai người các ngươi thay mặt dân chúng tới cầu xin lẽ nào con dân của ta, ta lại không thương hay sao? À phải rồi? Hai người cậy mình là cử nhân, muốn mua chuộc lòng người Sơn Đông để họ giúp ngươi làm phản. Nay bản viện chăm dắt dân chúng vùng này, quyết không thể để các ngươi làm phản được. Nhân lúc âm mưu còn manh nha, ta phải nhổ cỏ nhổ tận gốc.

Rồi quát bọn nha dịch, nói:

- Trói hai đứa bọn chúng lại!

Đám nha dịch không dám chậm trễ, lập tức trói nghiền hai vị cử nhân họ Trần, Quách lại. Quốc Thái đưa tay với cây Vương mệnh kỳ xuống, rút đao ra cầm trên tay. Quan trung quân cầm cờ, hai vị cử nhân Trần, Quách bị trói gô lại, cắm cờ trên lưng. Trên cờ viết bốn chữ "phản quốc nghịch đồ", bị đám sai nha, đứa lôi, đứa đẩy ra khỏi viên môn, tới cửa Tây, nổ ba phát súng truy hồn, chém luôn đầu hai vị cử nhân. Dân chúng thấy vậy, bàn tán xôn xao, nói tuần phủ đã giết oan hai vị cử nhân Trần, Quách.

Chuyện này đồn tới phủ Tế Nam, bên ngoài cửa Đông có một vị tiến sĩ đỗ hai khoa liền, tên gọi Trương Văn Sĩ, sau khi hay tin, nổi giận đùng đùng, hai mắt đỏ ngầu, vội vàng chạy tới nha môn tuần phủ, xông thẳng lên công đường, hỏi:

- Tuần phủ đại nhân! Hai người Trần, Quách phạm tội gì mà lôi ra chém đầu vậy?

Quốc Thái nói:

- Hai đứa bọn chúng mang lòng phản nghịch nên bị chém đầu

Trương Văn Sĩ nói:

- Ông nói mà không có bằng chứng, dám chém đầu người hiền tài của quốc gia. Ông cậy Tây cung là em gái của mình nên ở ngoài tác oai tác phúc, mặc ý gây chuyện thị phi. Nào... nào... nào, hai ta hãy cùng lên cung diện kiến thánh thượng, nhờ người phân xử rõ vụ này, để ta xem tên cẩu quan như người có phải ngồi tù hay không?

Quốc Thái nghe vậy, nổi trận lôi đình, đập bàn ầm ầm, quát lên rằng:

- Giỏi cho tên Trương văn Sĩ ngươi, cậy mình là tiến sĩ hai kỳ, dám dọa dẫm bản viện. Ngươi dám cuốc đất trên đầu thái tuế ư? Nhất định là ngươi cùng hai tên Trần, Quách có chung một ý tưởng.

Rồi dặn dò đám nha dịch:

- Trói hắn lại cho ta!

Đám nha dịch không dám chậm trễ, vội xông tới, trói Trương tiến sĩ lại. Quốc Thái ném cây Vương mệnh kỳ xuống, đám nha dịch lôi tiến sĩ ra cửa Tây chém đầu. Vụ này làm kinh động tới chín vị nho sinh. Người đứng đầu là Nguy Hoán, người thứ hai là Triệu ứng Long, người thứ ba là Trương Nguyện Thiện, người thứ tư là Lý Văn Thành, người thứ năm là Hà Văn Hữu, người thứ sáu là Hà Văn Hưng, người thứ bảy là Đơn Quý Khoa, người thứ tám là Đơn Quý Đệ, người thứ chín là Tề Văn Minh. Chín người này đều đỗ cử nhân, tiến sĩ, trong lòng đều bất bình tới chuyện này. Họ góp tiền lại, kéo nhau lên kinh. Không lâu sau đã tới Bắc Kinh, vào Đô sát viện, dâng cáo trạng. Người của Đô sát viện là anh họ của Quốc Thái, giữ chức Chính đường quan, đã sai đem chín vị nho sinh ra phạt đánh mỗi người bốn mươi trượng, rồi sai bốn tên nha dịch giải cả chín người về quê. Về tới nha môn tuần phủ Tế Nam, Quốc Thái thăng đường, đọc công văn, nổi trận lôi đình, vội cho phép sai nha trở về kinh.

Quốc Thái quay xuống hạ lệnh:

- Dẫn chín tên nho sinh lên đây!

Hắn ngồi trên công đường, đập bàn ầm ầm, quát lớn:

- Đúng là các ngươi đã tự đâm đầu vào chỗ chết! Đừng nói là lên Đô sát viện tố cáo ta. Cho dù các ngươi có tố cáo ta trước mặt Hoàng thượng cũng chỉ uổng công mà thôi. Đúng là thiên đường có lối các ngươi không đi, địa ngục không cửa, các ngươi lại tự tìm tới.

Rồi dặn dò lũ thuộc hạ:

- Trói chúng lại cho ta!

Với tay lấy cây Vương mệnh kỳ, ném xuống. Lũ nha dịch lôi hết chín vị nho sinh ra chém đầu thị chúng.

Lại nói chuyện phía Tây thành huyện ân, phủ Đông Xương, tỉnh Sơn Đông, cách thành tám dặm, có một thôn gọi là Tả gia trang. ở đó có một vị tài chủ họ Tả, tên gọi Đình Tích, trong nhà vô cùng giàu có, có tới cả hàng ngàn hộc lương; lừa, ngựa thành bầy, có ở trong tay một hai chục cửa hiệu cầm đồ. Lại có năm cửa hàng lương thực, ba cửa hàng vàng bạc, hơn sáu chục cửa hàng tơ lụa, cùng ba cửa hiệu bán nhân sâm, có tám con thuyền đi biển, của cải trong nhà nhiều không kể xiết. Tả Đình Tích thích làm việc thiện, tích góp âm đức. Nhà ông ta ba đời nay đều hành thiện, thương người già, xót kẻ khó, Nam xây tháp, Bắc sửa chùa, tu sửa đường xá, cầu cống, cúng dường Phật đạo; mùa đông cho quần áo ấm, mùa hè cho trà, cho canh. Người ta đều gọi ông ta là Tả thiện nhân. Vị Tả thiện nhân này chỉ có một đứa con trai, tên gọi là Tả Đô Hằng, ở nhà thương gọi là Song Hỷ, lên bảy tuổi, được đưa vào trường học sách. Thầy giáo đặt cho tên gọi là Tả Liên Thành, học hành vô cùng thông minh. Tả Đô Hằng mười bảy tuổi, đi thi; hai mươi tuổi đỗ Hương cử, hai mươi tám tuổi lại đi thi. Năm ấy đã ba mươi sáu tuổi, thực là một nhà ba đời tích lũy âm đức, chỉ lo hành thiện. Tả Đình Tích đã già, Tả Đô Hằng thay cha lo lắng mọi việc trong nhà. Hôm ấy, Tả Đô Hằng tới các hiệu cầm đồ tính toán sổ sách, liền sai gia nhân Tả Hồng chuẩn bị ngựa. Chủ tớ hai người cưỡi ngựa tới Huyện ân, không lâu sau đã vào thành Huyện ân, ngẩng đầu nhìn lên, chợt giật mình kinh hãi, trong lòng buồn bã nghĩ thầm: "Tại sao dân chúng, năm người bị đóng một gông lớn, đi đầy đường thế kia?". Không thể đếm xuể có bao nhiêu người dân bị đóng gông rong đường, kêu khóc ầm ĩ. Ai cũng một mực kêu đói. Người này nói:

- Đã một ngày, một đêm nay, tôi chưa được ăn gì.

Người kia nói:

- Anh mới một ngày chưa được ăn cơm. Còn tôi tới nay đã hai ngày rưỡi rồi, chưa được hột cơm, giọt nước nào dính răng.

Chợt một người nhanh mắt nói:

- Các vị hương thân, chúng ta có hy vọng rồi. Kia chẳng phải Tả đại gia, Tả thiện nhân đang vào thành đó sao?

Đám người nghe vậy vội quay lại nhìn. Quả thấy Tả đại gia đang tiến vào thành. Dân chúng thấy vậy đểu quỳ cả xuống, miệng hô vang:

- Tả đại gia, xin cứu mạng!

Tả Đô Hằng ghìm cương ngựa nói:

- Quý vị hương thân, do không chịu tuân thủ vương pháp, mới phải chịu tội. Tôi cũng chẳng có cách nào cứu được.

Đám người buồn rầu nói:

- Tả đại gia, chúng tôi không hề làm điều phạm pháp. Chỉ vì mấy năm liền bị mất mùa, không thể đóng thuế cho nhà nước, quan huyện lại thúc quá ngặt, nên bắt chúng tôi đóng gông đi rong đường thế này. Đã ba, bốn ngày hôm nay, bọn tôi chưa có hột gạo, giọt nước nào vào miệng. Chỉ cầu Tả đại gia gặp huyện quan nói hộ một tiếng, bảo ông ấy thả chúng tôi ra. Chúng tôi về nhà cầm cố ruộng vườn, xin nộp đủ thuế cho ông ấy.

Tả Đô Hằng nói:

- Nếu đã vậy, tôi sẽ thay mặt các vị hương thân đi cầu xin.

Tôi và quan huyện Nhiệm Tam Phong vốn không có quan hệ với nhau. Không thể dùng tình cảm để nói chuyện được. Chỉ sợ các vị lại thêm phiền.

Đám người nói:

- Chỉ mong người nói giúp một câu. Đối với bọn tôi, ân ấy của Tả đại gia cũng đã nặng như núi rồi.

Nói xong, đứng cả dậy. Tả Đô Hằng giật cương ngựa, nhằm hướng huyện nha tiến tới. Tới cửa huyện nha xuống ngựa, tên gia nhân dắt ngựa, đợi bên ngoài.

Tả Đô Hằng tiến vào nha môn, ngẩng đầu nhìn lên, thấy tri huyện Nhiệm Tam Phong đang ngồi trên công đường, thúc ép dân chúng nộp lương thảo. Tả đại nhân vội lên trước công đường chắp tay vái chào, miệng nói:

- Huyện đại gia vẫn khỏe đấy chứ?

Nhiệm tri huyện ngẩng đầu lên nhìn, nói:

- Thì ra là Tả niên huynh tới, mời Tả niên huynh ngồi qua một bên.

Tả Đô Hằng nói:

- Có đại nhân ở đây học sinh sao dám ngồi!

Nhiệm tri huyện nói:

- Niên huynh đã tới nơi này rồi, lẽ nào lại không chịu ngồi?

Rồi quay xuống dặn dò:

- Mang ghế lại!

Tả Đô Hằng cúi mình thi lễ, rồi mới chịu ngồi xuống. Nhiệm tri huyện hỏi:

- Niên huynh không có chuyện gì, chắc chẳng tới chốn công đường này. Xin hỏi hôm nay sao lại tới đây?

Tả Đô Hằng nghe hỏi vậy, vội đứng dậy, khom mình chắp tay thi lễ, miệng nói:

- Bẩm đại nhân, học sinh có một việc muốn khẩn cầu lão gia rộng rượug. Vùng Sơn Đông này liên tiếp xảy ra thiên tai, nhà nhà, người người đều không thiết sống. Lấy đâu ra tiền bạc, lương thảo để nộp thuế. Nay khẩn cầu lão đại nhân khai ân, tha cho đám dân chúng kia về nhà. Đợi năm được mùa sẽ truy nộp cả.

Nhiệm tri huyện nói:

- Niên huynh, vùng Sơn Đông này mấy năm liền mất mùa. Lẽ nào bản huyện lại không hay? Vốn bởi quan trên thúc tôi gấp quá, tôi cũng chẳng còn cách nào khác.

Tả Đô Hằng nghe vậy nói:

- Huyện lão gia! Các phủ, châu, huyện khác, học sinh không dám nói. Còn dân nghèo trong các thôn thuộc Huyện Ân chưa nộp thuế, hoặc không thể nộp được, học sinh xin đứng ra nộp thay cho họ.

Nhiệm tri huyện nghe vậy, nói:

- Niên huynh, sao nói nghe dễ dàng như vậy! Tuy anh đứng ra đóng thuế giúp dân là một việc tốt, nhưng tuần phủ đại nhân từ trước tới nay vốn là kẻ hồ đồ bạo ngược. Niên huynh nói nộp thuế cho dân, bản huyện thực không dám tự quyết. Hai ta phải tới phủ Tế Nam gặp tuần phủ đại nhân mới được.

Tả Đô Hằng nghe vậy, chợt nổi giận trong lòng, nói:

- Đại nhân đã không dám nhận, đừng nói chuyện đi gặp phủ đài. Cho dù đi gặp Hoàng thượng tôi cũng dám đi.

Nhiệm tri huyện nói:

- Niên huynh đã nói vậy, hai ta sẽ lập tức lên đường.

Nói xong, hai người rời khỏi công đường, đi gặp Quốc Thái. Chuyện của họ không biết sẽ thế nào. Mời xem hồi sau sẽ rõ.
 

hoahongden12

Active Member

Tùng tiểu chí khí yếu cao, trưởng đại tất thi anh hào

Thế phụ báo thư tương hận tiêu, bất phạ đầu hoả toàn đao.

Vị nhân vô hữu ngang khí, uổng tại thế gian lập trác.

Ngật khỏa phiêu đổ đọa lạc đạo, na cố bàng nhân xuy tiếu.

Dịch thơ:

Từ nhỏ chí khí phải nêu cao

Lớn lên ắt thành bậc anh hào

Thay cha báo thù rửa sạch hận

Không sợ lao vào chốn lửa đao

Làm người không có lòng khí khái

Đạp đất đội trời uổng kiếp sao!

Cờ bạc luyến sắc chơi trụy lạc

Chỉ để người ta nhạo tiếng đời

Lại nói chuyện tri huyện huyện Ân là Nhiệm Tam Phong cùng Tả Đô Hằng rời khỏi công đường, mỗi người lên một xe cùng rời khỏi nha huyện nhằm hướng đại lộ dẫn tới phủ Tế Nam thẳng tiến. Huyện Ân cách Tế Nam bốn trạm, ở đây không kể chuyện rườm rà. Hôm ấy, họ đã tới phủ thành Tế Nam, vào thẳng nha môn tuần phủ. Hai người xuống xe, tùy tùng tháo ngựa ra. Hai người tới trước sảnh đường, đã thấy Nội ty đường tiến ra nghênh đón, hỏi:

- Có chuyện gì kéo nhau lên chốn công đường vậy.

Nhiệm Tam Phong nói:

- Ta là tri huyện huyện ân tên gọi Nhiệm Tam Phong, nay tới đây xin được diện kiến đại nhân.

Ty đường nghe vậy, vội vào nhà bẩm rõ với Quốc Thái.

Quốc Thái hay tin, lập tức hạ lệnh thăng đường truyền tri huyện huyện Ân vào gặp. Tri huyện Nhiệm Tam Phong cùng Tả Đô Hằng lên công đường, quỳ xuống. Quốc Thái hỏi:

- Nhiệm tri huyện sao không ở lại nha môn huyện Ân đốc thúc nộp thuế, tới công đường của bản viện có việc gì?

Nhiệm tri huyện nói:

- Tệ chức chính vì chuyện thuế má nên mới tới đây xin gặp đại nhân. Nay tiền thuế của cả huyện ân đều do một người đứng ra gánh vác, tiền thuế đã nộp đủ.

Quốc Thái nghe vậy, hỏi ngay:

- Vị tài chủ ấy năm nay bao nhiêu tuổi? Họ là gì, tên gọi là chi?

Nhiệm tri huyện đưa tay chỉ, nói:

- Chính là người này. Ông ta tên là Tả Đô Hằng, từng đỗ tiến sĩ hai kỳ liền.

Quốc Thái nghe vậy liền đưa mắt nhìn Tả Đô Hằng, nói:

- Ta từng nghe tới danh tiếng của ông. Nhà ông đáng gọi là tay tài chủ số một của huyện Nhiệm. Nếu chỉ nộp thuế cho một huyện thôi thì có đáng là gì. Nếu ông đứng ra nộp cho mười phủ, chín châu, một trăm tinh tám huyện của Sơn Đông này, đó mới thực là tay đại tài chủ. Nay bản viện muốn vay ông tám trăm vạn lạng bạc, dùng vào việc chạy chọt để lên quan. Nếu sau này ta được thăng quan, sẽ trả lại bạc cho ông, quyết không nuốt lời.

Tả Đô Hằng nghe vậy, trong lòng buồn bực, nói:

- Bẩm đại nhân, học sinh cố gắng lắm mới lo đủ tiền lương cho một huyện. Chứ nếu nói lo tiền thuế cho cả tỉnh, đại nhân lại mượn thêm tám trăm vạn lạng bạc nữa, quả thực học sinh không thể lo nổi.

Quốc Thái nghe vậy, lập tức lạnh mặt, ho khan liên tục, lúc sau nổi giận, nói:

- Giỏi cho tên tiến sĩ Tả Đô Hằng ngươi. Cái gì mà là nộp thuế cho cả một huyện. Ngươi làm vậy chẳng qua vì muốn mua chuộc lòng dân, định làm phản lại nước nhà, mê hoặc lòng người, định làm phản tại đất Sơn Đông này sao? Nay ngươi đã rơi vào thiên la địa võng, thử xem ngươi có làm phản nổi tại đất Sơn Đông này hay không?

Rồi quay sang sai tả hữu lôi tên phản tặc Tả Đô Hằng ra chém đầu. Ném cờ lệnh xuống. Đao phủ tay xách đao, hổ đầu lao lên trói phạm nhân lại, giải Tả Đô Hằng tới cửa Tây chém đầu.

Quốc Thái dặn dò, dùng dầu đốt đầu của Tả Đô Hằng thành than lượm lấy tro, cho vào trong một chiếc hộp gỗ, bên ngoài dán một mảnh giấy, ghi rằng: " Năm Càn Long thứ ba mươi bảy, Vương Luân tạo phản. Nay là năm Càn Long thứ bốn mươi ba, Tả ĐÔ Hằng mua chuộc, kích động lòng người, muốn tạo phản tại đất Sơn Đông, nay đã bắt được, chém đầu thị chúng để an lòng người, khuyên dân chúng an tâm làm ăn". Rồi lệnh cho sai nha mang chiếc hộp ấy tới huyện Ân thị chúng. Sai nha tuân lệnh mang đầu người về huyện Ân. Mấy hôm sau đã tới nơi, treo hộp dựng đầu người bên ngoài cả Nam. Dân chúng huyện ân xúm lại xem, thấy chiếc hộp gỗ trong đựng tro đầu người, bên ngoài dán niêm phong, trên đó viết: "Đầu của nghịch tặc Tả Đô Hằng". Mọi người thấy vậy đều sửng sờ, ai nấy đều than rằng:

- Nhà họ Tả làm điều thiện đã ba đời nay, vậy mà khi chết Tả Đô Hằng lại mang tiếng phản nghịch.

Đám người huyên náo cả lên, ai cũng bất bình, phẫn hận. Chợt thấy một thớt ngựa phóng vụt qua. Mọi người đều nhận ra đó là quản gia nhà họ Tả, tên gọi là Tả Hồng đang về nhà báo tin.

Lại nói chuyện Tả Hồng phóng ngựa như bay về nhà, cột ngựa dưới gốc cây hồng, tiến vào đại sảnh, gặp mặt chủ nhân Tả lão gia, quỳ xuống, khóc lóc nói:

- Không tốt rồi! Lão chủ nhân hãy mau quyết định! Chủ nhân của tiểu nhân tới tiệm cầm đồ tính nợ, vào thành gặp một đám dân chúng. Bởi họ không có tiền, gạo nộp thuế nên bị đóng gông chịu tội. Gặp tiểu chủ, họ khóc lóc kể lại sự tình. Người bị tội đứng kín hết đường. Đại gia chấp nhận nộp thuế cho họ. Tri huyện không dám gánh vác, liền bảo tiểu chủ cùng lên huyện gặp tuần phủ. Tuần phủ Quốc Thái lại nói đại gia nhà ta mua chuộc lòng người, muốn làm phản tại đất Sơn Đông nên đã bắt đại gia chém đầu. Nay đã gởi thủ cấp của đại gia về tới huyện Ân treo lên cao để thị chúng.

Tả Đình Bản nghe xong khóc rống lên:

- Con của ta!

Khí tức bùng lên, đờm kéo đầy cổ, ngã lăn ra nhà. Tả Hồng vội tiến lên, đỡ chủ nhân dậy, đưa tay vỗ ngục, vỗ lưng, miệng kêu thất thanh:

- Lão gia, hãy mau tỉnh lại!

Lúc này, bà mẹ già và nàng dâu đang trên lầu Bắc cũng bị kinh động. Họ vội vàng tới trước tiền sảnh, thấy lão gia bất tỉnh hai mẹ con vội tiến tới đỡ ông ta, miệng hô hoán ầm ĩ, lại quay sang hỏi Tả Hồng xem tại sao lão gia lại ra nông nổi ấy. Tả Hồng kể lại một lượt cho họ nghe chuyện của Tả Đô Hằng. Hai mẹ con nghe xong, sợ đến nỗi mặt xanh như chằm đổ, kêu khóc thảm thiết. Chợt thấy Tả Đình Bích dần thở trở lại nhưng cất tiếng gào thét không ngừng.

Lại nói chuyện Tả Liên Thành đang đọc sách trong thư phòng, chợt thấy tên thư đồng chạy vào, đưa mắt nhìn Tả Liên Thành nói:

- Tả thiếu gia, nhà cậu đã xảy ra đại họa rồi, cậu vẫn thưa biết hay sao? Ngoài kia, khắp đường ngang ngõ tắt người ta đang đồn ầm lên kia kìa.

Tả Liên Thành vội hỏi:

- Nhà ta đã xảy ra chuyện lớn gì? Ngươi phải nói rõ ra cho ta mới được, chớ nên nói lập lờ như vậy.

Tên thư đồng nói lại cho cậu ta nghe những lời đồn đại bên ngoài, nói Tả đại gia giúp dân nộp thuế đã khiến tuần phủ Quốc Thái nổi cơn thịnh nộ, đã lôi cha cậu ra chém đầu. Nói nếu cậu không tin cứ ra cửa Nam mà nhìn, ngoài đó vẫn còn treo đầu cha cậu thị chúng. Tả Liên Thành nghe xong, vội rời khỏi thư phòng, chạy một mạch tới ngoài cửa Nam, ngẩng đầu lên nhìn, quả nhiên nhìn thấy một chiếc hộp gỗ trong đựng tro đầu người. Tại một cạnh hộp có dán giấy niêm phong chéo nhau, trên đó viết: "Thủ cấp của phản tặc Tả Đô Hằng, ngươi huyện Ân, phủ Đông Xương, tỉnh Sơn Đông, dán ngày... tháng... năm Càn Long thứ bốn mươi ba". Tả Liên Thành thấy vậy, vội chạy tới, quỳ dưới chiếc hộp gỗ, khóc rống lên. Khóc lóc một hồi, nghĩ thầm: "Ta có khóc thế nào thì cha ta cũng không thể sống nổi được. Ta phải báo thù cho cha. Thù giết cha không đội trời chung".

Nghĩ rồi nín khóc, đưa mắt nhìn hộp gỗ, lạy bốn lạy, khấn thầm: "Cha có linh thiêng, xin hãy phù hộ cho con báo thù cho cha".

Khẩn cầu xong, đứng dậy, chạy một mạch về thư phòng, quỳ xuống trước mặt thầy, nói:

- Thầy ơi! Khi nãy đệ tử chạy ra ngoài cửa Nam, quả nhìn thấy thủ cấp cha đệ tử treo trên cọc cao thị chúng, trên đó viết đây là thủ cấp của phản tặc cùng danh tính. Đệ tử muốn lên Bắc Kinh kiện lên tận Thiên tử, cầu mong thầy viết cho con một lá đơn kiện. Sau khi từ kinh thành trở về, tất sẽ báo đáp ân tình vô tận này của thầy. Ông thầy nghe cậu nói vậy, liền nói:

- Con tuổi còn nhỏ, năm nay mới mười hai tuổi, lại không biết đường lối lên kinh ra sao, cũng chẳng biết phải tới nơi nào để kiện. Ta khuyên con giờ hãy khổ công đèn sách. Sau này đã có tên trên bảng vàng rồi hãy báo thù cho cha. Tới lúc ấy cũng chưa muộn. Nếu nay con lên kinh đi kiện, gã Quốc Thái này vốn là hoàng thân quốc thích, ngũ phủ, lục bộ không ai dám trêu vào hắn. Nếu nay con ngang ngạnh, quyết ý đòi đi, ta chỉ lo họa hổ không thành lại thành chó.

Tả Liên Thành khẩn cầu, nói:

- Thầy ơi! Xin thầy chớ lo con nhỏ tuổi, ngu si. Cho dù phải nhảy vào dầu sôi, lửa bỏng, có chết cũng không oán hận. Cầu xin thầy viết cho con một lá đơn kiện.

Thầy giáo nói:

- Tả Liên Thành, con còn có điều không biết đó. Gã Quốc Thái này nhận chức tuần phủ Sơn Đông thực chẳng khác gì lập kinh thành riêng của hắn vậy! Cha hắn hiện đang giữ chút Sơn Tây đốc ninh đạo đài, người anh em của cha hắn đang làm thị lang bộ hộ, em gái của hắn chính là Tân Đồng trong Tây cung của Càn Long Vạn tuế gia. Trước mặt Hoàng thượng chúng chỉ cần nói một câu thôi, có khác gì đinh đóng cột. Đừng nói là con kiện Quốc Thái, chỉ cần con kiện một tên thủ hạ của hắn thôi, ta e cũng không nổi. Chắc chắn con sẽ gặp lành ít dữ nhiều. Lá đơn kiện này ta không dám viết.

Tả Liên Thành nói:

- Thầy ơi! Xin thầy chớ coi con là loại nhỏ tuổi vô tư. Thầy xem trọng Quốc Thái xem hắn nặng tựa thái sơn, còn con chỉ coi hắn như bùn đất. Thầy sợ hắn nhung con không sợ. Thầy đã sợ hắn như sợ cọp, con đành phải nhờ người khác viết lá đơn này vậy. Quả uổng tiếng thầy trò với nhau bấy lâu nay.

Câu nói này đã khiến cho Chu Học Cứu nổi giận, nói:

- Tả Liên Thành. Con mới là đứa trẻ mười hai, mười ba tuổi mà còn không sợ chết, lẽ nào một kẻ hơn năm mươi tuổi như ta lại sợ chết hay sao? Để ta viết cho con một lá đơn kiện là xong.

Tả Liên Thành nghe vậy, dập đầu bái tạ rồi đứng sang một bên mài mực. Chu Học Cứu nhấc bút viết lên giấy soàn soạt, đơn kiện viết rằng:

- Ngươi kêu oan là Tả Liên Thành, năm nay mười hai tuổi, người Tả gia trang cách huyện Ân tám dặm về phía Tây, thuộc phủ Đông Xuống tỉnh Sơn Đông. Bởi quan lớn trong vùng tác oai tác phúc, hãm hại lê dân, giết người bừa bãi, cầu xin Hoàng thượng khai ân, cho người tới điều tra vụ này. Cha của kẻ hèn xuất thân từ hàng tiến sĩ tên gọi là Tả Đô Hằng. Một hôm, nhân việc phải vào thành thanh toán sổ sách trong hiệu cầm đồ, thấy dân chúng bị còng tay, gông cổ đi la liệt trong thành, tiếng kêu khổ vang lừng trời đất. Thân phụ hèn hỏi han tình hình, mới biết được tri huyện thúc lương quá rát. Thân phụ biết rõ tỉnh Sơn Đông liên tục gặp nạn hạn hán, lũ lụt, ba năm trời mùa màng mất sạch, đành phải đứng ra nộp thuế thay cho dân. Chẳng ngờ tri huyện Nhiệm Tam Phong hùa với tuần phủ Quốc Thái bày kế gian, lừa thân phụ, lên tỉnh thành. Quốc Thái sách nhiễu, đòi thân phụ phải cung đốn hắn tám trăm vạn lạng, lại bắt phải nộp thuế thay cho cả tỉnh. Gia phụ không có được số bạc ấy cho tuần phủ và bạc nộp thuế cho cả tỉnh. Gã tuần phủ nổi cơn thịnh nộ, lôi gia phụ ra, hạ lệnh chém đầu, treo đầu thân phụ lên cột cao bên ngoài cửa Nam huyện Ân thị chúng, nói rằng thân phụ muốn mua chuộc lòng dân huyện ân, mưu đồ phản lại nước nhà. Tên tuần phủ này che mắt Thánh thượng, làm điều càn rỡ. Tỉnh Sơn Đông ba năm trời chịu cảnh thiên tai, ai ai cũng biết, hắn lại tấu về triều Sơn Đông năm nào cũng bội thu, thúc dân nộp thuế. Sai trồng vừng trắng hai bên đường, nhuộm thành màu xanh, khoảng hơn bốn mươi dặm, nhìn chỉ thấy xanh ngắt một màu. Đầu tiên có một cử nhân họ Lam, tới nha môn tuần phủ khẩn cầu giúp dân. Quốc Thái nổi giận, sai chém cả thảy mười hai cử nhân, nếu tính cả thân phụ, tổng cộng là mười ba người. Thần nghĩ: Đã là quan lớn được vua sai canh giữ đất đai, đúng lý ra phải biết thay mặt quốc gia, yêu dân như con, thế mới không phụ với thánh ân, mới họp đạo lý. Nay, tuần phủ Quốc Thái phụ lại ơn vua, lộc nước, lạm sát mười ba người có học của nước nhà, làm hại lê dân, không biết nghĩ tới câu "dĩ dân vi bản". Tên tuần phủ này có lòng đen tối, làm việc xằng bậy, giết chết cha tiểu dân, có mối thù bất cộng đối thiên. Thần nguyện phải vào dầu sôi lửa bỏng, tan xương, nát thịt, chết không oán hận. Cúi đầu xin các bộ, viện ân chuẩn, chuyển tấu lên Thánh thượng, thân này xin gánh chịu hết mọi tội. Tha thiết khẩn cầu, thực mong được vậy.

Chu tiên sinh viết đơn kiện xong, đọc lại một lượt, sai Tả Liên Thành học cho thuộc rồi gấp đơn lại, dặn dò, nói:

- Nếu vào thành Bắc Kinh dâng đơn kiện, nhất thiết phải dâng cho những người ngồi kiệu. Dâng cho những kẻ đi xe, cưỡi ngựa, việc sẽ chẳng tới được đâu. Trước khi đưa đơn kiện, phải hỏi cho rõ xem ông ta là người Hán hay người Mãn. Nếu là người Mãn, chỉ e họ có quan hệ thân thích với Quốc Thái.

Tả Liên Thành trả lời, nói:

- Đệ tử đã ghi nhớ rõ. Giờ xin bái biệt thầy!

Rời khỏi học đường, trở về nhà, lên Tây lầu nói với mẹ:

- Mẹ à, xin mẹ hãy chuẩn bị cho con một gói hành lý nhỏ, con xin đi lên kinh dâng đơn kiện.

Phùng thị nghe con nói vậy, trong lòng kinh hãi, nói:

- Không ổn! Nhà họ Tả chỉ còn lại mỗi một giọt máu này.

Tuy nói rằng nó lên kinh dâng đơn kiện, báo thù cho cha, đó là điều hợp lý, nhung nó còn nhỏ tuổi, biết trời cao, đất dày ra sao đâu. Ngay cả đường đi lối lại còn chưa biết, đi đưa đơn kiện sao nổi. Nếu xảy ra điều chi bất trắc, chẳng phải nhà họ Tả sẽ bị tuyệt đường hương hỏa hay sao? Không hiểu ai đã nói cho nó biết chuyện cha bị chém, nay ta phải ngăn nó lại mới được!

Phùng Thị Tú Anh nghĩ xong, mặt lộ vẻ tức giận, quát mắng, nói:

- Thằng nhãi con, ngươi thì biết gì? Dám lên kinh đưa đơn kiện hay sao? Giờ chúng ta chỉ còn biết nhịn cơn tức giận, con hãy chăm chỉ học hành, một lòng cầu tiến, sau đó báo thù cho cha cũng không muộn. Nếu lúc này lên kinh kiện cáo, đó là điều tuyệt đối không nên!

Tả Liên Thành nghe mẹ nói vậy, trong lòng không vui, vội nói:

- Mẹ à, nếu mẹ không cho con lên kinh dâng đơn kiện, con sẽ xin chết trước mặt mẹ.

Nói xong, lao đầu vào tường. Phùng Thị Tú Anh sợ hãi rụng rời, vội xô tới, đưa tay ra đón lấy đứa con, bất giác, hai hàng lệ nóng tuôn trào, nói:

- Đứa con khốn khổ của ta. Từ nhỏ tới giờ con chưa từng ra khỏi cửa, nay đòi lên kinh đưa đơn kiện, lòng mẹ thực không sao yên nổi. Mẹ thương con lắm. Con đã một lòng đòi lên kinh báo thù cho cha, mẹ cũng không ngăn cản con nữa. Để mẹ đi chuẩn bị hành lý và tiền bạc cho con là xong.

Phùng Thị Tú Anh không sai tỳ nữ, tự tay đi sắp xếp hành lý, tiền bạc cho con, lại lấy ra một mảnh lĩnh trắng, xé ra làm đôi, nói:

- Con trai của ta. Đây là một nửa tấm lĩnh, ta cho con mang theo. Khi nào nhớ mẹ, con hãy lấy ra, coi như đã nhìn thấy mẹ. Lúc nào nhớ con mẹ cũng sẽ làm như vậy. Hơn nữa, sau này nếu lâu ngày mới gặp lại, không nhận ra nhau, ta sẽ dùng nửa mảnh lĩnh này làm ký hiệu. Còn nữa, con phải tới khẩn cầu thầy giáo Chu viết cho một lá đơn kiện mới có thể lên kinh được.

Muốn biết Tả Liên Thành trả lời mẹ thế nào? Mời quý Vị Xem hồi sau sẽ rõ.

_________________
 

hoahongden12

Active Member
Lưu Công Kỳ Án
Chương 110: Mẹ con chia tay, dùng mảnh lĩnh trắng làm ký hiệu Vào kinh đi kiện, nhận nhầm miếu thành điện kim loan

Thế thượng mại thậm đa, duy độc đương phố tiền

Điển trác đại độ đáo tự nhiên, chân trại tri châu, tri huyện.

Ngật đích giai mỹ tửu, khỏa ẩm song mao tiêm.

Đáo liễu niên chung tương trướng toán, nã niên diệc số vạn.

Vạn ban mại mãi hảo tái, duy khai dương phố trực nan triều

Mỗi nhật tại mộc lan, vô tội thường tỏa thiên giam,

Lão bà giao cấp tài đông, bất dụng kết kế nhật xuyên.

Đãi hậu thập niên phân nhi nam, tài toán nhân tài lưỡng

Dịch thơ:

02

Trên đời mua bán rất nhiều

Chỉ riêng mở cửa hàng kiếm tiền

Bụng phệ gây ồn ào tự nhiên

Giữ chức tri châu, tri huyện ăn thì rượu ngon thịt béo

Khát uống song huân mao tiêm 1

Cuối năm đem nợ tính

Cả năm cũng kiếm mấy vạn

Trăm thứ mua bán đều tốt

Chỉ có mở cửa hàng khó sao

Hàng ngày trong chòi gỗ

Không tội thường ngồi nhà giam

Vợ giao cho tài chủ

Không hề tính toán mặc ăn

Hầu hạ mười năm tách con trai

Xem ra lừa được người lẫn của.

Lại nói chuyện Phùng Thị Tú Anh sai con yêu tới khẩn cầu thầy giáo Chu viết cho một lá đơn kiện. Tả Liên Thành nói:

- Đơn đã viết xong rồi.

- Phùng thị đón lấy đơn kiện, dùng mảnh lĩnh trắng gói lại cẩn thận, lại xé vạt áo của con ra, luồn bọc lĩnh trắng vào trong, khâu lại cẩn thận, dặn dò, nói:

- Sau khi vào kinh dâng đơn kiện, tuyệt đối không được trình mảnh lĩnh trắng này lên. Mảnh lĩnh trắng này vốn là kỷ vật của hai mẹ con.

Tả Liên Thành trả lời, nói:

- Con biết rồi!

Phùng thị vội sai người hầu bày hương án. A hoàn Xuân Hồng trải thảm đỏ lên. Hai mẹ con thắp hương khấn cùng trời đất nói:

- Cầu các bậc thần linh, phù hộ cho con lên kinh đi kiện, dọc đường bình an, kiện đổ Quốc Thái, báo mối oan cừu. Được vậy mẹ con tiểu nữ lập đàn cúng tế, tạ ân trời đất.

Cầu khấn xong, hai mẹ con đứng dậy. Tả Liên Thành lập tức khoác hành lý lên vai, định đi ngay. Phùng Thị Tú Anh vội nói:

- Con yêu hãy chậm bước, nghe mẹ dặn dò đôi lời: Nay con lên kinh thành, dọc đường đi phải chăm hỏi đường lối. Trên đường sáng đi, tối tìm quán trọ nghỉ lại, chớ nên dùng nghỉ tại miếu hoang, đồng trống, e đêm đen lắm mối hiểm nguy. Hãy nhớ kỹ, chớ nên nghỉ lại nơi cô miếu. Bởi miếu hoang thường có lũ người xấu cướp đường. Nếu ngồi thuyền vượt sông phải ngồi cho vững, không được đứng. Nếu ai có hỏi con đi đâu, không được nói thật với họ. Nếu có người đi cùng con, con hãy đi cách họ xa một chút. Nếu tới uống nước bên giếng, phải đứng cách xa miệng giếng một chút, đề phòng kẻ xấu ám toán. Những điều này con phải nhớ kỹ lấy.

Tả Liên Thành nói:

- Thưa mẹ, con nhớ cả, không cần mẹ phải dặn lại.

Nói xong, vai khoác bao hành lý, bước thẳng ra ngoài.

Phùng thị tiến lên, đưa tay ra, kéo cậu lại, khóc, nói:

- Con ngoan bảo mẹ sao nỡ xa rời con.

Tả Liên Thành khuyên mẹ, nói:

- Mẹ ơi, xin chớ khóc. Con vào kinh dâng cáo trạng, nếu mẹ khóc lóc, đau buồn như vậy, bảo con trên đường đi yên lòng sao nổi? Hơn nữa, nếu để người khác biết, hắn đi báo với Quốc Thái, Quốc Thái sẽ sai hung nô của hắn mang theo đao ngắn đuổi theo, dọc đường giết chết con. Nếu vậy, thứ nhất không thể rửa sạch mối thù của cha, thứ hai nhà họ Tả sẽ hết đường hương hỏa. Vậy sao được?

Phùng thị hỏi:

- Theo ý con thì phải làm sao?

Liên Thành nói:

- Theo ý con, sau khi con đi rồi, mẹ hãy sai Tả Hồng đi mua một cỗ quan tài, để trong sân. Những lúc nhớ con, mẹ hãy nhìn cỗ quan tài ấy mà khóc. Không ai hỏi thì thôi, còn nếu có người hỏi, mẹ hãy nói: "Chồng thết oan uổng, con trai yêu của tôi nhớ cha nó, hôm nay khóc, ngày mai lại kêu gào. Nhớ tới chồng thiệt chẳng thiết sống nữa."

Phùng thị nghe vậy, mắt lưng tròng, nói:

- Mẹ nhớ rồi. Làm như vậy có thể che tai, lấp mắt của kẻ khác. Con ta hãy lên đường.

Tả Liên Thành dập đầu lạy mẹ bốn lạy, đứng dậy, khoác theo tay nải, đi ra theo lối cửa sau, rời khỏi dinh cơ nhà họ Tả.

Không lâu sau đã tới huyện Ân. Vượt qua thành, lên đường lớn, nhắm hướng Bắc thẳng tiến. Chợt thấy trước mặt có ba con đường lớn, trong lòng chợt ngần ngừ, không biết con đường nào dẫn tới Bắc Kinh. Còn đang chưa biết phải làm sao, chợt thấy từ phía chính Đông có một cụ già đi tới, trong lòng chợt vui, bèn tiến tới gần, cung kính thi lễ, miệng nói:

- Cụ ơi xin cho con hỏi: Con đường nào dẫn tới Bắc Kinh? Xin cụ thương tình chỉ cho cháu biết.

Ông lão nghe hỏi, dừng lại, đưa mắt nhìn, thấy kẻ hỏi đường chỉ là một chú bé chừng mười hai, mười ba tuổi, thiên đình đầy đặn, địa cát tròn, cử chỉ chính trực, nói năng lọt tai, trong lòng nghĩ thầm:

- Đứa bé này không giống với đám trẻ nhà nông, chắc nó được học hành dạy dỗ chu đáo. Có lẽ do học bài không thuộc, sợ bị đòn nên bỏ chạy đây. Chi bằng ta hỏi cho rõ rồi đưa nó trở về nhà, tất nhà nó sẽ có quà hậu tạ.

Chủ ý đã định, bèn hỏi:

- Cháu bé ngoan, nhà ở nơi nào? Tên họ là gì, có việc gì phải lên kinh? Cháu phải nói thực, ta mới chỉ cho cháu biết đường lớn dẫn tới kinh thành.

Tả Liên Thành nghe hỏi vậy, vội giấu đi sự thực, nói dối rằng:

- Cụ ơi nhà cháu ở thôn trang cách thành huyện Ân này tám dặm về phía tây. Bởi cha cháu lâm bệnh qua đời, anh ruột cháu buôn bán trên kinh, mẹ cháu sai cháu lên kinh tìm anh trai gọi về chịu tang, cháu đi tới đây, gặp một lúc ba con đương cầu mong lão gia chỉ lối giúp, công ơn ấy thực lớn vô chừng. Cháu họ thạch.

Ông lão nghe vậy, tin là thực, nói:

- Cháu nhỏ, cháu không biết đó thôi. Con đường lớn phía Tây đây dẫn tới phủ Bảo Định. Còn con đường lớn phía Đông này dẫn tới Thiên Tân. Con đường chính giữa là trường quốc lộ nối liền chín tỉnh, là đường lớn dẫn tới Bắc Kinh.

Tả Liên Thành nghe vậy, vái một vái thực sâu, nói:

- Đa tạ lão nhân gia đã chỉ lối.

Rồi chào ông lão, nhắm con đường lớn chính giữa cất bước.

Đang bước đi, ngửa mắt trông lên, chợt thấy mình ba ngọn gió xoáy cản lối. Tả Liên Thành nghĩ thầm:

- Những ngọn gió xoáy này là thực. Đúng rồi. Mười ba ngọn gió xoáy này chính là mười bộ vị cử, lam sinh bị tên gian tặc Quốc Thái giết hại oan uổng. Trong số đó có cả cha ta, cả thảy là mười ba oan hồn tới đây bảo hộ cho ta lên Bắc Kinh báo thù rửa hận. Hẳn là vậy.

Rồi hướng về phía mười ba ngọn gió xoáy, nói:

- Nếu có cha thác oan, xin hãy tới trước mặt con nhỏ, dừng lại. Nếu vậy con mới tin là thực.

Chưa khấn hết câu, chợt thấy một ngọn gió xoáy ở chính giữa bốc cao ngất trời. Tả Liên Thành thấy vậy vội quỳ sụp xuống lạy, khóc nói:

- Cha chết oan uổng, cùng mười hai vị tiền bối xin hãy phù hộ cho Tả Liên Thành lên kinh dâng đơn kiện được bình an, cũng là rửa sạch nỗi oán hận của mọi người.

Còn đang khấn khứa, bên tai chợt vang lên tiếng nhạc ngựa tiến lại. Quý vị hẳn không thể nào biết được. Kẻ cưỡi trên lưng ngựa chính là gia đinh của tri huyện Ân. Thì ra tên hàng xóm nhà họ Tả tên gọi Triệu Đại Long, ngày thường vốn chẳng ra gì chỉ biết dối trá kiếm sống. Tên vô lại Triệu Đại Long ngày thường hay tới nhà họ Tả vay mượn, không toại nguyện nên sinh lòng oán giận. Nay thấy Tả Đô Hằng va chạm với tuần phủ Quốc Thái, bị xử tội chém đầu, lại thấy Tả Liên Thành mang theo gói hành lý nhỏ vội vàng lén ra khỏi cổng sau, nhắm hướng Bắc thẳng tiến, trong lòng thầm nghĩ: "Xem bộ dạng, chắc nó lên Bắc Kinh dâng đơn kiện. Sao ta không tới huyện báo tin này, bắt nó về. Chắc chắn ta sẽ được ban thưởng. Lại hả được mối hận trong lòng ta bấy lâu nay". Nghĩ xong, vội vàng lên huyện báo tin. Tri huyện Nhiệm Tam Phong nghe báo, nghĩ thầm: "Không ổn! Nếu để hậu nhân nhà họ Tả lên kinh kiện, bản huyện ta cũng bị liên lụy, chắc khó tránh khỏi lôi thôi. Phải ra, cây muốn lặng mà gió chẳng muốn dừng, đã làm phải làm cho đến chốn. Chi bằng ta hãy bắt hậu nhân nhà họ Tả dâng cho tuần phủ. Làm vậy tuần phủ sẽ nể mặt ta, thăng chức cho ta. Thực là nhất cử lưỡng tiện". Rồi ngầm sai hai tên gia đinh, dặn chúng làm như vậy, như vậy. Hai tên gia đinh vội nhảy lên lưng ngựa, phóng như bay. Xem ra sắp đuổi tới nơi, chợt thấy mươi ba ngọn gió xoáy trổ thần oai, dựng lên cao ngất trời, cuốn cát bay, đá chạy ầm ầm, bọc Tả Liên Thành vào giữa. Đá cát ngất trời khiến hai tên gia đinh tối mặt tối mũi, đành phải giật cương, thúc ngựa chạy trở lại. Hai tên nghĩ ngợi một hồi, bàn với nhau, nói:

- Ta với họ Tả vốn không thù, không oán, tội gì phải đuổi theo? Chúng ta hãy trở về nha môn, nói rằng không đuổi được. Thế là xong.

Rồi cùng nhau quay về.

Tả Liên Thành hằng ngày theo luồn gió xoáy tiến lên. Dãi gió dầm sương, trèo đèo vượt suối, đói ăn, khát uống, ngày đi, đêm nghỉ, ròng rã nhiều ngày trời, hôm ấy đã thấy thành Bắc Kinh thấp thoáng nơi xa. Không lâu sau đã tới ngoài thành, chợt thấy luồn gió xoáy tan đi mất. Cậu bèn sải bước, tiến vào phủ Chương Nghi, theo đường lớn đi tới chợ rau. Đi hết đường, thấy một ngã ba, một lối rẽ về phía Đông, một ngã rẽ sang hướng bắc, bất giác trong lòng thoáng ngần ngừ, không biết nên theo lối nào đi kêu oan. Còn đang luống cuống, chợt thấy phía trước có hai mươi tư thớt tuấn mã ào ào tiến lại. Người ngồi trên lưng ngựa đều mang cung, cài tên, lưng giắt đao, bên trên là một chiếc lọng lớn màu hồng, bên dưới che tán màu lục cùng một cỗ kiệu, trong lòng nghĩ thầm: "Ta vẫn nhớ lời thầy dặn. Nếu lên kinh dâng đơn kiện, cần phải dâng cho quan ngồi kiệu, họ mới có thể đứng ra phân giải giúp. Chi bằng giờ ta hãy ra kêu oan". Thấy cỗ kiệu lớn tới gần, cậu liền quỳ xuống, miệng kêu vang:

- Oan uổng!

Ngô đại nhân vội lệnh hạ kiệu, hỏi:

- Chú bé này có oan khiên gì? Hãy kể rõ cho ta nghe.

Tả Liên Thành vội nói:

- Bẩm đại nhân. Xin hỏi quý tính đại danh của ngài. Ngài hiện giữ chức gì? Tiểu nhân nghe rồi mới dám kể ra nỗi oan của mình.

Ngô đại nhân mãn chơi, nói:

- Thằng bé người thật là vô lý. Sao dám hỏi ngược lại bản soái như vậy? Bản soái cũng không trách ngươi. Bản soái vốn người phủ Võ Định tỉnh Sơn Đông, giữ chút quan Trấn điện tướng quân, tên gọi Ngô Năng.

Tả Liên Thành nghe vậy, lúc này mới nở nụ cười, đứng dậy, tay xách túi nhỏ, xoay mình bỏ đi. Ngô đại nhân thấy vậy, tỏ vẻ không vui, nói:

- "Lôi thằng bé kia lại đây!"

Đám kiệu vệ không dám chậm trễ, vội xông lên, tóm lấy tả Liên Thành, lôi trở lại, ném xuống trước kiệu. Ngô đại nhân đưa tay chỉ nó, mắng:

- Giỏi cho tên nhãi ranh vô tri. Người muốn kiện là kiện, không muốn kiện thì thôi sao? Bản soái bắt ngươi phải đưa đơn kiện lên. Mau trình đơn kiện lên đây.

Tả Liên Thành nói:

- Bẩm đại nhân, không phải tiểu nhân không muốn đưa đơn kiện cho ngài, chỉ vì tên húy của đại nhân là Ngô Năng, tiểu nhân nghĩ: Đã là "Ngô Năng" tất là kẻ vô năng 2 do đó mới không trình đơn kiện lên. Nay đại nhân đã cho phép tiểu nhân kiện, tiểu nhân không có đơn kiện, chỉ biết dùng miệng kể lại. Tiểu nhân muốn kiện một viên quan, chỉ e đại nhân không lo nổi.

Ngô đại nhân nghe xong, khẽ nở nụ cười, nói:

- Thằng nhãi ranh người dám khinh thường bản soái. Bản soái giữ chức Trấn điện tướng quân. Cửu khanh tứ tướng, bát đại triều thần, năm phủ sáu bộ, công tử vương tôn, mũ vàng mũ đỏ, mười ba khoa đạo, bối lặc, vương gia ta vẫn gặp mặt hàng ngày huống hồ đám quan ngoại tỉnh. Các loại quan phủ, huyện, châu, tỉnh, đám cử nhân, giám sinh, cường hào, ác bá ngươi cứ việc kiện lên. Bản soái nhất định nhận đơn, xử cho ra nhẽ. Ngươi họ là gì, gọi tên chi? Nhà ở tỉnh nào, phủ nào, huyện nào? Có nỗi oan gì? Kiện cáo ai? Hãy mau lần lượt nói ra.

Tả Liên Thành nói:

- Bẩm đại nhân. Tiểu nhân nhà tại Tả gia trang, cách huyện thành huyện Ân tám dặm về phía Bắc, thuộc huyện ân, phủ Đông Xương tỉnh Sơn Đông. Tiểu nhân tên gọi là Tả Liên Thành. Bởi tiên phụ chết rất oan uổng nên mới lên kinh dâng đơn kiện. Tiểu nhân kiện huyện lệnh huyện Ân, Hoàng tri phủ, Thụy bố chính, tuần phủ Quốc Thái. Kiện họ lừa dối thánh thượng làm điều tệ hại, làm khổ lê dân, ngụy tạo, gán cho tiên phụ tội mua chuộc lòng dân, mưu đồ tạo phản, chém chết cha của tiểu nhân, treo đầu thị chúng. Trước đó đã chém đầu mười hai giám sinh khác, thêm phụ thân tiểu nhân nữa, cả thảy là mười ba người. Chỉ mong đại nhân ban ân, nhận án, chuyển giúp một bản tấu lên Hoàng thượng. Tiểu nhân dù phải chết xuống suối vàng vẫn không dám quên ân đức của đại nhân.

Ngô đại nhân nghe xong, nói:

- Chú bé. Tuổi cháu còn nhỏ, lại dám đi kiện những vị quan lớn như vậy, tội ấy không nhỏ. Bản soái thực không dám nhận đơn. Cháu hãy tới nha môn Đô Sát Viện mà kiện.

Rồi vội giục binh mã, khiêng kiệu đi về hướng Tây.

Tả Liên Thành bất giác sững mình, nghĩ thầm:

- Thế thì khó cho ta rồi, ta biết lên đâu dâng đơn kiện đâyl

Đứng cạnh có một người, nói:

- Chú bé, đừng đứng ngây ra đó nữa. Chú xem, kiệu lớn của Lại bộ thượng thư Lưu lão đại nhân đang tới đó. Chú hãy đuổi theo mà kêu oan, chắc chắn chú sẽ kêu được.

Tả Liên Thành ngẩng đầu nhìn sang, quả nhiên thấy hai hàng quân cưỡi ngựa, phía sau có một chiếc kiệu cũ nát, vội chạy kêu oan. Chợt thấy cỗ kiệu rẽ sang hướng Bắc. Tả Liên Thành đuổi sang hướng Bắc, lại thấy kiệu lại rẽ về hướng Đông, đuổi theo không kịp. Ngẩng đầu nhìn lên, đã thấy tới cửa Thuận Trị, bèn tiến thẳng vào. Theo đường lớn đi ngang qua lầu Đơn Bài, không lâu sau lại vượt qua lầu Tứ Bài, mạnh dạn đi trước, thấy bên Đông con đường có một ngõ nhỏ. Ngươi đi ra, đi vào ngõ ấy đều mặc áo đỏ, áo vàng, trong lòng thầm nghĩ: "Nếu ta tiến vào ngõ này, chắc chắn sẽ tới được nơi ở của Hoàng thượng. Sao ta không tới trước mặt Hoàng thượng mà kêu oan. Vậy chẳng phải gần hơn việc tìm các nha môn khác mà kiện hay sao?". Nghĩ xong, mạnh dạn tiến thẳng vào trong ngõ. Ngẩng đầu nhìn lên, thấy một tòa nhà cực lớn, cực đẹp. Có tượng ngựa đá bên ngoài có cắm hai cây cờ lớn ở hai bên tả, hữu. Qua cổng nhìn vào, thấy giữa sân đặt một chiếc cung lớn lại có ba cây cầu đá trên cầu cũng có hành lang cũng bằng ngọc thạch. Bên trên cổng lớn khắc ngũ cầm lục thú, ngói lưu ly như vàng, cửa đóng đinh hoa, có mười ba bậc thềm lát bằng Hán bạch ngọc. Tả Liên Thành dừng bước, nghĩ thầm: "Đây chính là bát bảo cửu long đình. Nếu ta không dâng đơn kiện ở đây, bỏ qua chốn này, sẽ chẳng còn nơi nào mà dâng đơn kiện nữa". Nghĩ xong, vọng vào trong, hét lớn:

- Tiểu dân bị oan! Tiểu dân bị oan!

Tiếng kêu gào của Tả Liên Thành đã làm kinh động tới đám Lạt Ma tăng đang ở bên trong. Họ vội chạy ra ngoài xem xét Tả Liên Thành thấy từ bên trong có một đám người toàn mặc áo vàng, áo đỏ chạy ra, trong lòng thầm mừng rỡ, nghĩ thầm: "Lần này ta kêu kiện được rồi. Nghe tiếng kêu của ta, cả đám đại hoàng thượng, tiểu hoàng thượng, ngay cả lão hoàng thượng cũng chạy ra nốt". Nó vội quỳ sụp xuống bên ngoài, miệng kêu oan:

- Bẩm Vạn tuế gia, tiểu dân bị oan?

Rồi dập đầu lạy như giả gạo. Đám Lạt Ma thấy vậy biết ngay đứa nhỏ này không phải là người trong kinh thành, thấy ngôi chùa này tưởng nhầm là chốn nha môn, bèn kéo lên định trêu chọc Tả Liên Thành.

Không biết sau này ra sao, mời xem hồi sau sẽ rõ.
 

hoahongden12

Active Member

Lại nói chuyện ngôi chùa lớn này là Hộ Quốc Tự. Trụ trì trong chùa là Đại lạt ma A Di Di, vốn là thế thân của Hoàng đế Ung Chính. Tả Liên Thành lại lầm tưởng Hộ Quốc Tự là bên ngoài Ngọ Môn của điện Kim Loan nên đã quỳ trước cửa chùa, lớn tiếng kêu oan. Đám tăng sĩ trong chùa ra xem, thấy một đứa nhỏ đang quỳ trước cửa, kêu oan không ngừng, miệng nói:

- Mong Vạn tuế gia phân xử giúp.

Trong đám lạt ma có một vị hay cười đùa, đưa tay chỉ Tả Liên Thành, miệng nói:

- Chú bé, ngươi kiện ai? Mau nói rõ, ta sẽ đứng ra phân xử cho.

Tả Liên Thành vội nói:

- Vạn Tuế gia, tiểu dân kiện tuần phủ Sơn Đông Quốc Thái.

Đám lạt ma nghe vậy ai cũng tặc lưỡi, nói:

- Vụ này quá lớn, phải vào bẩm với sư phụ mới được.

Lạt ma quản sự xoay mình đi vào trong, tới thiền phòng, quỳ xuống bẩm, nói:

- Bẩm sư phụ. Bên ngoài có một đứa bé khoảng mười hai, mười ba tuổi từ nơi khác tới, quỳ trước cửa chùa, miệng hô vạn tuế kêu oan không ngừng. Hỏi nó kiện ai, nó nói kiện tuần phủ Sơn Đông là Quốc Thái. Nay xin vào báo cho sư phụ biết.

Đại lạt ma nghe báo, xuống khỏi thiền sàng, đi thẳng ra cửa chùa. Đám lạt ma vội hành lễ nghênh đón. Tả Liên Thành ngẩng đầu nhìn lên, thấy một người đội mũ vàng chói lọi, mình mặc tấm áo vàng óng, lưng thắt giải nhung vàng, chân mang hài quan, tay chống long đầu quản trượng. Thấy vậy, nó nghĩ thầm:

- Đám kia chỉ là những kẻ để Hoàng thượng sai bảo, ông này mới là Hoàng thượng đích thực!

Đại lạt ma nói:

- Chú bé, ta không phải là Hoàng thượng. Ta chỉ là một lạt ma.

Tả Liên Thành hỏi:

- Lạt ma là thứ gì vậy?

Đại lạt ma giận dữ, quát mắng:

- Ta thấy ngươi tuổi trẻ vô tư, không biết gì nên không trách tội. Ta vốn là người xuất gia. Giờ ta hỏi ngươi, nhà cửa ở đâu, tên họ là gì, có nỗi oan gì, kiện ai? Người phải nói cho rõ, ta còn biết đường phân xử giúp ngươi.

Tả Liên Thành nghe vậy, nghĩ thầm: người này hẳn là kẻ hầu hạ Hoàng thượng, rất được người yêu quý. Nay ta kể rõ nỗi oan của mình cho ông ấy nghe, ông ấy tất sẽ thay ta chuyển lên Hoàng thượng. Vậy cũng xong. Nghĩ xong, dập đầu lạy, miệng nói:

- Đại sư phụ, tiểu nhân sống tại tiểu gia trang cách Tây thành huyện Ân tám dặm thuộc huyện Đông Xương, tỉnh Sơn Đông. Tiểu nhân họ Tả, tên gọi Liên Thành. Bởi cha tiểu nhân giúp dân khẩn cầu đã khiến cho tuần phủ Sơn Đông là Quốc Thái nổi giận, chém đầu cha tiểu nhân thị chúng. Bởi vậy, tiểu nhân mới lên kinh, kiện ông ta.

Đại lạt ma nghe xong, sững người nghĩ thầm: "Thằng nhãi này lá gan cũng không nhỏ, dám đi kiện cả hoàng thân, quốc thích. Quốc Thái chính là thí chủ lớn của chùa ta, ta không biết thì thôi. Biết rồi, ta không thể bỏ qua. Nay thằng nhãi này đã tới đây, ta phải giữ nó lại chùa, làm rõ mọi chuyện mới được".

Nghe xong, nói:

- Chú nhỏ, bên ngoài chùa này không phải là nơi nói chuyện. Hãy vào thiền phòng kể rõ cho ta nghe. Như vậy, ta mới có thể kêu oan giúp chú.

Tả Liên Thành nghe vậy, vội vàng đứng dậy, xách theo tay nải đi vào chùa. Đại lạt ma liếc mắt làm hiệu, lại nhếch mép, hướng về phía cổng chùa khẽ gật đầu. Đám lạt ma lập tức hiểu ý vội đóng chặt cửa chùa lại. Tả Liên Thành chẳng khác gì nằm mộng, đâu biết rằng lũ lạt ma này có ý xấu, bèn theo bọn chúng vượt qua ba tầng đại điện, tới trước thiền đường. Chỉ thấy Đại lạt ma tiến vào thiền phòng, ngồi lên tấm bồ đoàn vàng rực, đám lạt ma đứng sang hai bên. Lại có cả mấy tên khác đứng bên ngoài thiền phòng. Tả Liên Thành không dám chậm trễ, vội tiến vào thiền đường, quỳ xuống, dập đầu lạy, miệng nói:

- Tiểu dân oan uổng.

Đại Lạt ma không thích nghe câu này, vội xua tay, miệng hét lớn:

- Giỏi cho tên nghiệp chướng ngươi mới mười hai, mười ba tuổi đầu lại dám lên kinh tố cáo tuần phủ. Đợi lớn thêm vài tuổi nữa, ngươi hãy đi gặp Hoàng thượng mà tố cáo.

Rồi quay sang dặn dò đám đồ đệ:

- Giam thằng nhãi này vào chuồng ngựa.

Đám lạt ma tuân lệnh, vội xông lên, tóm lấy Tả Liên Thành, đứa lôi đứa kéo, dẫn nó tới tầu ngựa, dùng dây thừng trói gô nó lại, treo lên. Chỉ thấy Đại lạt ma tay xách roi da tiến vào chuồng ngựa, vung roi, quật đen đét vào Tả Liên Thành. Đánh đến nỗi khắp mình Tả Liên Thành sưng vù lên. Không nén nổi đau đớn, nó kêu khóc, gào thét không ngừng. Luôn miệng thỉnh cầu:

- Phật tâm từ bi, xin tha cho con trẻ vô tri. Từ nay vĩnh viễn không dám tố cáo tuần phủ Quốc Thái nữa.

Đại lạt ma nghe vậy, cơn tức giận không biết từ đâu kéo tới ầm ầm, cho tay vào mình, rút soạt ra một con dao nhỏ, định giết Tả Liên Thành.

Thổ địa chùa này thấy vậy, cuống lên, vội sai quỷ tốt mang lời của Tả Liên Thành chuyển tới tai Nhị lạt ma đang ở trong dãy thiền đương thứ hai. Vị Nhị lạt ma chợt nghe thấy tiếng trẻ con khóc, trong lòng thầm oán trách, nghĩ: Sư huynh của mình tính tình không tốt. Chắc có đứa đồ đệ nào mắc lỗi nên bị ông ta đánh đập đây. Chợt lại nghe thấy tiếng khóc cất lên vô cùng gấp gáp. ông ta đành phải đứng dậy, lần theo tiếng khóc tới trước tầu ngựa. Thấy một đứa trẻ bị trói treo lủng lẳng trong đó, lại thấy sư huynh tay cầm dao muốn giết nó, trong lòng vô cùng buồn bực, vội kêu lên:

- Sư huynh, xin hãy dừng tay!

Đại lạt ma nghe vậy, vội ngừng tay lại, đưa mắt nhìn qua.

Thấy Nhị lạt ma sắc mặt lộ vẻ không vui. Nhị lạt ma hỏi:

- Cớ sao lại muốn giết đứa bé này?

Đại lạt ma kể lại một lượt câu chuyện. Nhị lạt ma nghe xong, trong lòng cảm thấy không vui, nói:

- Sư huynh, huynh sai rồi. Nghĩ lại trước đây Quốc Thái làm tuần phủ ở Sơn Đông, dối vua, làm toàn điều tệ hại, ức hiếp, làm hại dân chúng. Dân chúng kiện lên tận Hoàng thượng. Vạn tuế gia nổi giận, điều Quốc Thái về kinh trị tội. Phạt đày hắn tới làm tuần binh tại xưởng Lam Định tại Nam Kinh. Lúc ấy Lại bộ thượng thư Lưu thí chủ dâng liền ba bản tấu, xin cho Quốc Thái được phục hồi quan chức, lần thứ hai được bổ nhiệm làm tuần phủ Sơn Đông. Lưu lại bộ tiễn Quốc Thái đi nhậm chức, tới chân cầu treo, kính hắn ba ly rượu, cầu xin hắn chăm lo cho quê hương của ông ta, lại luôn miệng dặn dò. Chẳng ngờ hắn lại phụ lòng tốt của Lưu thí chủ, hãm hại dân chúng Sơn Đông. Vậy mà sư huynh lại đem lòng bảo vệ Quốc Thái. Xin hỏi, chú bé này có thù hận gì với sư huynh?

Đại lạt ma nói:

- Không thù, không oán.

Nhị lạt ma nói:

- Đối với nó, không thù, không oán, tại sao sư huynh lại hãm hại nó? Vậy là lý gì? Hãy mau thả đứa nhỏ xuống.

Đại lạt ma nghe vậy, mặt lộ sắc giận nói:

- Chuyện này không do ngươi quyết được!

Nhị lạt ma túc giận, nói:

- Hay, hay, hay...!

Tiến tới một bước, nắm lấy áo Đại lạt ma, nói:

- Hai chúng ta hãy vào triều diện kiến Hoàng thượng, xem ai đúng ai sai. Tới điện Kim Loan sẽ tranh cãi! Đi... Đi... Đi... Mau đi thôn

Đại lạt ma thấy vậy, nghĩ thầm:

- Không ổn! Sư đệ của ta từ trước tới nay, chưa bao giờ nổi giận như vậy. Nếu hôm nay nó tâu rõ chuyện này với Hoàng thượng, ta đã mắc sai lầm lớn rồi!

Vội thay đổi sắc mặt, nở nụ cười, nói:

- Sư đệ chớ nên làm vậy. Ta giao đứa trẻ này cho đệ, muốn xử trí ra sao mặc kệ. Chớ làm tổn thương hào khí sư huynh, sư đệ chúng ta.

Nói xong, quay trở lại thiền phòng.

Nhị lạt ma dặn dò lũ đồ đệ thả đứa nhỏ xuống. Lũ tiểu lạt ma vội chân năm, tay mười, hạ Tả Liên Thành xuống, đặt nằm trên nền đất nghỉ ngơi. Nhị lạt ma lại sai tiểu lạt ma khiêng Tả Liên Thành tới hậu thiền phòng, đặt nằm lên giường. Nghỉ ngơi một hồi, thấy đã khá hơn. Nhị lạt ma hỏi:

- Tiểu thí chủ, chú nhà ở đâu? Tên họ là gì? Cớ sao lại vào kinh kiện cáo?

Tả Liên Thành liền kể cho ông ta nghe tên họ, nhà cửa và chuyện cha mình bị hại một lượt. Kể xong, nói:

- Sư phụ, xin hãy thương xót lấy tám mươi hai đời tổ phụ, bảy mươi chín đời tổ mẫu của con. Con nhỏ vô tri, cầu xin sư phụ mở lòng từ bi cứu mạng. Nếu không, nhà họ Tả sẽ bị tuyệt hậu, hết người hương khói.

Nói xong, cất tiếng khóc ròng. Nhị lạt ma nghe xong, cảm thương vô cùng, nói:

- Tiếc rằng ta với người không họ hàng thân thích, cũng không quan hệ qua lại. Ta sao thể báo thù rửa hận cho ngươi?

Tả Liên Thành vội bò dậy, quỳ xuống trước mặt Nhị lạt ma, miệng hô:

- Bẩm cha, con nuôi xin được lạy người.

Nói xong lạy luôn bốn lạy. Nhị lạt ma vô cùng vui vẻ, vội đỡ Tả Liên Thành dậy, dặn đám tiểu lạt ma:

- Sai nhà bếp chuẩn bị cơm cho con nuôi ta ăn.

Tiểu lạt ma nhận lệnh, đi ra. Nhị lạt ma lấy thuốc giảm đau ra, sai Tả Liên Thành bôi vào vết thương. Không lâu sau, cơm nước đã nấu xong. Tả Liên Thành ăn một bữa no nê. Lúc này, sắc trời đã tối, đèn được thắp lên. Dùng trà xong, hai cha con mới đi ngủ.

Trống điểm canh năm, Nhị lạt ma xoay mình trở dậy, gọi Tả Liên Thành, nói:

- Con nuôi mau trở dậy, theo nghĩa phụ vào triều dâng đơn kiện.

Rồi dặn dò đám tiểu lạt ma chuẩn bị xe, kiệu. Không lâu sau, cỗ kiệu Thập Nhị Thái Bảo và một cỗ xe đã được chuẩn bị xong. Nhị lạt ma và Tả Liên Thành cùng ra khỏi Hộ Quốc Tự. Tả Liên Thành thấy bên ngoài cửa chùa có một cỗ xe bóng loáng bằng gỗ Tử Đàn quốc sơn đỏ rực, có rèm che bốn phía bằng vải vàng thêu hoa, trong xe được vây bằng lụa điều, có hai cửa sổ bịt bằng kín. Bốn con ngựa kéo xe đều cao to, màu hạt dẻ, cương nhung hàm thiếc vàng. Hai cha con bước lên xe kiệu, một tên tiểu lạt ma đánh xe. Sau một tiếng quát, xe chạy như bay, chỉ trong chớp mắt đã tới Tây Hoa Môn. Tới trước Tây Hoa Môn, xuống xe.

Tả Liên Thành theo Nhị lạt ma đi về hướng Đông. Nó nhìn trộm, thấy hai bên bày đầy giá treo đao, thương. Có rất nhiều hộ vệ tay cầm cung, đao tuốt trần vô cùng oai phong. Không lâu sau đã tới triều phòng. Nhị lạt ma dẫn Tả Liên Thành, không vào triều phòng bên Đông mà vào thẳng triều phòng bên Tây. Vừa ngồi xuống, đã thấy một viên quan lớn từ bên ngoài đi vào đàng trước có một chiếc đèn lồng lớn, trên đó viết: "Thái hậu ngự nhi Càn điện hạ Lại bộ thượng thư Lưu". Tới bên ngoài tiểu phòng phía Đông, dừng kiệu. Qua ánh đèn, thấy ông ta đầu đội mũ quan nhất phẩm, lại mắt sáng lóng lánh, mình mặc triều phục kim giải, ngoài khoác áo bào vàng, trước ngực đeo xâu chuỗi, chân mang triều hài, bước thẳng vào triều phòng phía Đông. Nhị Lạt ma vừa thấy ông ta, vội gọi:

- Con nuôi, con hãy nhìn người vừa vào triều phòng phía Đông kia, ông ta chính là đồng hương của con, Lưu lại bộ đó.

Văn võ khắp triều, ông ta đứng hàng đầu. Con còn không mau tới đó kiện Quốc Thái. Con hãy mạnh dạn chớ sợ. Có cha nuôi đây sẽ đứng ra nói giúp.

Tả Liên Thành nghe xong, vội bước sang gian triều phòng phía Đông, hướng vào bên trong, luôn miệng kêu vang:

- Tiểu nhân bị oan!

Lưu đại nhân lừa ngồi xuống, chợt nghe bên ngoài có tiếng trẻ con kêu oan, bất giác giật mình, dặn dò Lưu Anh, Trương Thành:

- Mau ra gọi người kêu oan vào.

Lưu An, Trương Thành tuân lệnh, dẫn Tả Liên Thành vào triều phòng. Tả Liên Thành quỳ xuống, lạy bốn lạy, miệng kêu:

- Oan quá!

Lưu đại nhân đưa mắt nhìn xuống đứa trẻ đang kêu oan, thấy nó khoảng mười hai, mười ba tuổi, đầu đội chiếc mũ nhung màu xám, có quả gù đỏ. Mình khoác áo màu lam, chân đi giầy vải tất vải màu trắng, tiền đình đầy đặn, địa các tròn, mày sáng, mắt trong, răng trắng, môi hồng, không giống với dáng vẻ của con nhà nông, chắc hẳn phải là con nhà có học, trong lòng nghĩ thầm: "Đứa bé này đã tới triều phòng kêu oan, chắc chắn phải do ai đó dẫn tới đây, bảo nó tới kêu oan với ta". Rồi vờ giận dữ, đưa tay chỉ Tả Liên Thành, miệng quát vang:

- Giỏi cho thằng nhãi ranh, dám tới triều phòng kêu oan. Ngươi được mấy tuổi mà dám tới chốn Bát bảo Cửu Long Đình này kiện cáo. Thực lá gan ngươi chẳng nhỏ. Mau đuổi cổ nó ra khỏi triều phòng.

Còn chưa dứt lời, chợt thấy một người từ bên ngoài triều phòng bước vào. Lưu lại bộ ngẩng đầu trông lên. Thấy ông ta là Nhị lạt tha của Hộ Quốc Tự, lập tức mời ngồi, chào hỏi lẫn nhau. Vừa ngồi xuống yên ổn, Nhị lạt ma đã nói:

- Lưu thí chủ. Vốn vẫn được nghe tiếng Lưu thí chủ là viên quan tận trung với nước, không tham lam, không nhận hối lộ, yêu dân như con. Người ta thường nói: "Làm quan không phán xử cho dân, thực uổng tước lộc vua ban".

Lưu đại nhân nghe vậy, biết ngay đứa trẻ con kia do ông dẫn tới đây. Lưu lại bộ liền nói:

- Nhị lạt ma, nghe ông nói vậy, chắc hẳn thằng nhãi kia là do ông dẫn tới đây kiện cáo? Đâu phải bản đường không chấp nhận đơn kiện của nó. Đuổi nó ra khỏi triều phòng, chỉ vì nó mới mười hai, mười ba tuổi, đã dám xông vào triều phòng kêu oan. Nếu nó lớn tiếng kêu gào, làm kinh động thánh giá, thử hỏi, ai dám đứng ra chịu trình nhiệm? Thứ hai là vì nó là một đứa trẻ ranh đã dám vào triều phòng dâng cáo trạng. Nếu lớn thêm vài tuổi nữa, chắc nó đám xông vào Cửu Long Đình mà kiện mất. Tuổi còn nhỏ nhưng lá gan không hề nhỏ.

Nhị lạt ma nói:

- Xin Lưu thí chủ bớt giận. Thằng bé Tả Liên Thành này được ta nhận làm con nuôi, vốn là đồng hương của Lưu thí chủ. Xin ngài hãy mở lượng hải hà.

Lưu lại bộ nói:

- Nếu đã vậy, hãy cầm đơn kiện của thằng bé lên đây.

Tả Liên Thành nghe hỏi tới đơn kiện vội xé vạt áo ra, lấy lá đơn kiện quỳ xuống, dâng lên. Lưu An nhận lấy, trải lên mặt án thư. Lưu lão đại nhân xem kỹ một lượt từ đầu đến cuối, nói:

- Quốc Thái cậy có ô to, dù lớn, dám làm càn tại đất Sơn Đông ư?

Nhị lạt ma đứng bên cạnh nghe Lưu đại nhân nói Quốc Thái cậy có chỗ dựa vững chắc, làm điều xằng bậy, biết ngay ý Lưu đại nhân có ý không muốn nhận đơn kiện, liền nói:

- Lưu thí chủ. Đọc đơn kiện rồi lẩm bẩm tự nói một mình, thấy kẻ bị kiện là tuần phủ Sơn Đông Quốc Thái, ông bèn trầm ngâm, không nói gì. Xem ra, chắc ông sợ Quốc Thái Có chỗ dựa vũng chắc hẳn? Nay ta dẫn con nuôi ta tới đây tố cáo hành vi của Quốc Thái, tưởng rằng ông đủ khả năng chế ngự hắn. Lưu gia ngài làm Lưu Đại nhân, tận trung báo quốc. Xin hỏi, có phải cha ngài là Lưu Thống Huân, là nguyên lão ba triều xưa hay không?

Không biết Nhị lạt ma còn nói gì nữa? Mời xem hồi sau sẽ rõ.
 

hoahongden12

Active Member

Bần mạc ưu sầu, phú mạc khoa,

Tùy thụy trường bần cửu phú gia

Thảo mộc kinh thu hoàng diệp lạc.

Mỗi ngộ xuân lai hựu phát nha.

Dịch thơ:

Giàu chớ khoe khoang, khó chớ sầu

Ai người giàu mãi hoặc nghèo lâu

Thu sang cây cỏ vàng rơi lá

Xuân đến mầm xanh lại nhú đầu.

Lại nói chuyện Nhị lạt ma nói:

- Lưu thí chủ, Lưu Thống Huân cha ngài vốn là lão thần ba triều, xin từ quan, Hoàng thượng không cho. Lưu lão đại nhân là người trung thần thời nay, không muốn để ba anh em ngài làm quan vì sợ ba anh em ngài sau khi làm quan sẽ tham ô nhận hối lộ, để lại tiếng xấu, làm hỏng thanh danh của cha ngài. Ông ta về nhà, ngồi trong thư phòng, nghĩ ra một kế tuyệt diệu, cho gọi ba anh em ngài tới thư phòng, nói: "Ngày mai hãy mặc quần áo đỏ lên điện, Vạn tuế gia sẽ ban cho tước". Hai người anh của ngài nóng lòng muốn được làm quan, đã mắc phải kế của cha ngài. Canh năm hôm sau, cha ngài lên điện, dâng một bản tấu, viết: "Nay có ba tên phản tặc, phụng mệnh ngoại bang xin được vào yết kiến thánh thượng để bày kế phản gián. Ba tên này đều mặc áo đỏ. Nếu chúng vào triều, xin chớ để chúng kịp nói gì, lập tức sai thị vệ lôi cả ba đứa ra ngoài, chém đi là xong. Thần tất cả chỉ vì chuyện nghĩ kế an bang, khiến quốc thái, dân an nên mới làm vậy. " Hoàng thượng tin là thực, chuẩn y bản tấu của cha ngài. Khi trời còn chưa sáng hẳn, anh cả, anh hai của ngài đã mặc áo đỏ vào triều, xin được diện kiến thánh giá, một lòng mong được thăng quan, ban tước. Chẳng ngờ còn chưa được lên điện, Hoàng thượng đã nổi trận lôi đình lệnh cho thị vệ bắt trói hai kẻ mặc áo đỏ lại, lôi ra ngoài ngọ môn xử chém. Đám thị vệ tuân chỉ, chém đầu hai người ấy. Lưu thí chủ khi ấy cũng mặc áo đỏ, định lên điện phân giải, hỏi xem hai người anh của ngài tại sao lại bị chém đầu? Còn chưa kịp vào gặp Hoàng thượng, đã bị thị vệ bắt lấy, đẩy ra Ngọ môn, trói vào cột, đợi hành hình. Có một vị thái giám hay tin, vội chạy vào cung bẩm rõ với Hoàng thái hậu trong cung Khánh Thọ. Hoàng thái hậu hay tin, vô cùng kinh hãi, vội vã tới ngõ Chợ rau, tháo chuỗi hột ra, đeo vào cổ Lưu thí chủ, lại dặn ngài rằng: "Sẽ không có bất kỳ một thanh đao nào, thanh kiếm nào dám chém vào cổ Lưu Dung". Rồi nhận ngài làm con nuôi. Xem ra, chỗ dựa của ngài còn vững hơn cả Quốc Thái. Nếu ngài không nhận đơn kiện, chắc chắn ngài đã bị Quốc Thái mua chuộc, hoặc ngài có làm điều gì mờ ám. Thực đáng để người đời nghi ngờ, chê cười lắm".

Lưu lại bộ nói:

- Nhị sư phụ, ông không cần dùng lời châm chọc tôi, tôi nhận lá đơn kiện này là xong chứ gì?

Nhị lạt ma nói:

- Lưu đại nhân đã nhận đơn kiện của con nuôi tôi thì tôi xin giao nó cho ngài chăm sóc. Nếu xảy ra chuyện gì, chúng ta sẽ tính sổ với nhau.

Lưu lại bộ nghe vậy, mỉm cười nói:

- Nhị sư phụ, xin ngài yên tâm. Lưu mỗ đâu phải loại người ấy.

Nhị lạt ma nghe vậy, trong lòng vui mừng, tạm biệt Lưu lại bộ, ra ngoài Ngọ Môn, lên xe trở về chùa.

Lại nói Lưu lại bộ dặn dò Lưu An, Trương Thành dẫn Tả Liên Thành lui xuống, dặn dò nói:

- Chăm sóc cho cẩn thận, chớ làm khó dễ nó.

Hai người ứng tiếng:

- Dạ! rồi dẫn Tả Liên Thành đi ra.

Lại nói chuyện Lưu lại bộ ngồi trong triều phòng, trong lòng thầm căm hận Quốc Thái. Chợt thấy từ ngoài Ngọ Môn, một viên đại thần bước vào. Trước ông ta là hai ngọn đèn lồng, trên đó viết: "Chưởng quản bốn mươi tám vạn hộ kinh binh bộ quân thống lĩnh Cửa môn đề đốc Hòa". Thì ra Hòa Thân đã vào triều. Lưu lại bộ chợt thấy cái lưng gù của mình kêu lục cục, lập tức nảy ra một kế.

Quý vị độc giả hẳn còn chưa biết: Cái lưng gù của Lưu đại nhân thực là một món bảo bối. Trong đó chứa bảy mươi hai hạt ngọc quý. Hễ nó vang lên tiếng động, lập tức ông ta nảy ra kế lạ.

Lại nói chuyện Lưu lại bộ thấy Hòa Thân tiến vào gian triều phòng phía Tây, lập tức cất tiếng gọi:

- Hòa đại nhân, ngài hãy qua bên này. Ta ngồi đây thực buồn quá. Thầy trò ta ngồi nói chuyện một chút, không biết có được không?

Hòa Thân nghe vậy, trong lòng chợt nghĩ thầm:

- Thầy đã gọi, ta không thể không tới: Nếu không tới, trách tội ta, ta thực không thể gánh vác nổi. Ta đành phải tới đó, chỉ cần xác định rõ lập trường, quyết không để mắc lừa là được.

Trong lòng nghĩ vậy, chân bước sang gian triều phòng phía Đông, gặp Lưu công, miệng nói:

- Bẩm thầy, học trò Hòa Thân xin có lời thỉnh an.

Chắc hẳn quý vị sẽ nói:

- Hừ, sao Hòa Thân lại phải gọi Lưu lại bộ là thầy?

Quý vị hẳn còn chưa biết. Hai người bọn họ trong cung, hàng ngày lên điện dâng bản tấu. Hết Lưu trung đường dâng tấu hạch tội Hòa Thân lại tới Hòa Thân dâng tấu hạch tội Lưu lại bộ khiến cho Vạn tuế gia vô cùng khó xử. Nếu nghe theo bản tấu của Lưu trung đường xét tội của Hòa Thân thì Hòa Thân là Cửu môn Đề đốc, trưởng quản bốn mươi tám vạn quân trong kinh thành, lại là thủ tướng, vốn là người thân tín nhất của Hoàng thượng. Còn nếu tin theo bản tấu của Hòa Thân, Lưu trung đường là con nuôi của lão Thái hậu, cũng không thể sờ tới. Chi bằng giải hòa cho cả hai người. Rồi Vạn tuế gia giáng một đạo thánh chỉ, lệnh cho Hòa Thân phải bái Lưu Dung làm thầy, sai Lưu Dung nhận Hòa Thân làm trò. Nếu sau này còn lên đại điện dâng bản tấu hạch tội lẫn nhau nữa thì Hòa Thân sẽ bị khép vào tội phạm thượng. Do đó, Hòa Thân mới phải tới chào Lưu Dung.

Lưu lại bộ nói:

- Hòa đại nhân, mời ngồi!

Hai thầy trò cùng ngồi xuống. Lưu lại bộ cất tiếng ho khan. Hòa Thân khẽ giật mình, nghĩ thầm: "Lưu Dung ngươi muốn bày kế gì thì bày. Ta quyết không để mắc bẫy đâu". Chẳng còn cách nào khác đành phải hỏi:

- Hà cớ gì thầy phải ho hắng, thở than như vậy?

Lưu lại bộ nói:

- Quan trong triều, ai được coi là người lớn nhất?

Hòa Thân nghe vậy cười, nói:

- Thầy lẫn mất rồi! Luận về quan chức trong triều, thầy trò ta được coi là đứng đầu.

Lưu lại bộ nói:

- Nay đâu giống như khi xưa. Nay thầy trò ta không phải là người cao nhất nữa rồi.

Hòa Thân hỏi:

- Kẻ nào đòi lên trên thầy trò ta?

Lưu lại bộ nói:

- Nay người cao nhất phải kể tới em họ của ngài. Vạn tuế gia cho phép ông ta cưỡi ngựa vào triều, chưa tới thềm vàng, chưa phải xuống ngựa. Gặp bá quan văn võ trong triều, cửu khanh, tứ tướng, bát đại triều thần đều không thèm chào, mặt vênh vênh tự đắc.

Hòa Thân mỉm cười nói:

- Em họ của trò là Quốc Thịnh gặp bá quan văn võ trong triều, có thể nó không chào. Nhưng nếu gặp thầy trò ta, chắc chắn phải xuống ngựa!

Lưu lại bộ nói:

- Nếu ông ta gặp thầy trò ta vẫn không xuống ngựa, đại nhân và ta cũng chẳng thể làm gì!

Hòa Thân nói:

- Thưa thầy, trò bảo hắn sẽ xuống ngựa. Nếu thầy nói hắn không xuống ngựa chào, thầy trò ta thử sẽ biết ngay.

Lưu lại bộ hỏi:

- Thử thế nào?

Hòa thủ tướng nói:

- Nếu thấy thầy trò ta mà hắn xuống ngựa, coi như thầy đã thua, trò đã thắng. Thầy sẽ mời đoàn kịch lớn nhất kinh thành tới trước cửa nhà trò ca hát hai ngày liền. Ăn uống, tiêu phí hết bao nhiêu, thầy sẽ phải trả. Nếu hắn gặp thầy trò ta mà không xuống ngựa, coi như thầy thắng, trò đã thua. Trò sẽ mời đoàn kịch lớn nhất kinh thành tới trước cửa nhà thầy ca hát hai ngày. Mọi món ăn uống, chi tiêu hết bao nhiêu sẽ do trò trả.

Lưu lại bộ nghe vậy, mỉm cười nói:

- Thì ra chỉ là chút cá cược ấy thôi sao? Nhỏ quá.

Hòa thủ tướng nói:

- Nếu thầy còn chê cá cược như vậy là nhỏ. Thầy trò ta sẽ treo giải thế này vậy. Nếu ai thua, sẽ mất ba túi đầy bạc cho người thắng. Thế nào?

Lưu lại bộ nghe vậy, nói:

- Ngài là thủ tướng, lại là cửu môn đề đốc, trong tay có bốn mươi tám vạn quân hộ kinh. Tới kỳ lĩnh lương, mỗi binh sĩ chỉ cần nộp cho ngài một, hai phân bạc là ngài đã có dư số tiền ấy rồi Còn ta, ngay cả tiền mua rau cho phủ cũng còn không có không chơi vậy.

Hòa Thân hỏi:

- Theo ý thầy thì phải cá thế nào?

Lưu lại bộ nói:

- Theo ý ta, phải cược bằng đầu người.

Hòa thủ tướng nghe vậy, khẽ rùng mình, nghĩ thầm:

- Cược bằng đầu người vốn là cược cực lớn. Ta và Quốc Thịnh vốn là anh em họ, nếu gặp ta, nhất định hắn sẽ xuống ngựa. Nếu ta thắng, tức là đã thắng được đầu của gã gù. Xem hắn ăn nói với ta sao đây?

Nghĩ xong liền nói:

- Thầy đã muốn đánh bằng đầu người, môn sinh xin đánh bằng ấn Đề đốc. Ta đánh cược nhé!

Lưu công nói:

- Nào, nào, nào! Chúng ta hãy vỗ tay.

Hòa Thân đưa tay ra, "bốp" một cái. Hai người vỗ tay với nhau. Lưu công nói:

- Cuộc cá cược này của hai ta đã quyết. Tay cũng đã vỗ rồi. Nhưng còn một việc nữa. Ngài với Quốc Thịnh là anh em họ. Nếu khi ông ta tới, ngài nhìn vào mặt ông ta, nháy mắt hoặc nhếch môi ra hiệu, tất ông ta sẽ hiểu ý. Hai ta cược với nhau, ông ta tất phải xuống ngựa. Vậy là ta đã bị thua oan rồi. Nhất thiết ông phải quay mặt về hướng Bắc, không được phép quay đầu lại. Đợi xem ông ta tới có xuống ngựa hay không? Vậy mới quyết được ai thua, ai thắng. Như vậy mới được coi là công bằng.

Hòa Thân gật đầu đồng ý.

- Không lâu sau đã nghe có tiếng vó ngựa vọng tới. Thì ra Quốc Thịnh đến. Hai thầy trò lập tức ngồi quay mặt về hướng Bắc. Quốc Thịnh nghênh ngang cưỡi ngựa vào triều. Thấy bên triều phòng phía Đông, anh họ và Lưu gù đều đang ngồi quay mặt về hướng Bắc, không biết họ đang bày trò gì với nhau. Vốn hiểu Lưu gù tính tình cổ quái, nên cách xa, chẳng nên gần. Quốc Thịnh bèn giật cương, thúc ngựa thẳng vào điện Kim Loan. Lưu lại bộ nói:

- Hòa thủ tướng, ông thua tôi rồi. Ông thấy không, Quốc Thịnh dương dương tự đắc, đi ngang qua hai ta.

Hòa Thân nghe vậy, thấy Quốc Thịnh đã đi qua mình, bất giác nổi giận đùng đùng, miệng kêu vang:

- Quốc Thịnh vô lễ, coi thường anh họ.

Miệng kêu, chân chạy vọt ra khỏi gian triều phòng phía Đông, đuổi theo Quốc Thịnh. Tới gần, vung tay tóm lấy Quốc Thịnh, lôi tuột xuống khỏi lưng ngựa khiến Quốc Thịnh bị đau, miệng không ngớt kêu la, nói:

- Anh họ, sao kéo tôi ngã xuống khỏi lưng ngựa. Ngã đau chết mất. Sao anh lại làm vậy?

Hòa Thân nói:

- Ta kéo ngươi xuống ngựa bởi vì ngươi vô lễ. Dám nghênh ngang cưỡi ngựa đi qua, trong mắt chẳng coi người anh họ ra gì.

Quốc Thịnh nói:

- Hoàng thượng trọng dụng, phong cho anh làm thủ tướng, còn tôi cưỡi ngựa vào triều bởi vì được Hoàng thượng ban ân. Cửu khanh, tứ tướng không ai chê tôi vô lễ, duy chỉ có một mình Hòa Sĩ Long anh trách tôi. Anh ép tôi quá đáng. Hai ta hãy tới trước mặt Hoàng thượng, nhờ người phân xử xem ai đúng, ai sai?

Nói xong, hai người kéo nhau lên điện.

Đúng lúc này vang lên hai tiếng roi đen đét. Hoàng đế Càn Long lên triều. Chợt thấy Quốc Thịnh, Hòa Thân đang lôi kéo nhau phía dưới, quỳ cả xuống dưới thềm son. Hòa Thân hô vang:

- Bẩm chúa thuợng! Quốc Thịnh vô lễ, gặp anh họ mà không chịu xuống ngựa, trong mắt không coi vương pháp ra gì.

Quốc Thịnh cũng quỳ xuống miệng hô:

- Bẩm chúa thượng. Thần thừa Hoàng ân cho phép được cưỡi ngựa vào triều. Hòa Thân vô lễ, kéo thần ngã xuống khỏi lưng ngựa, khiến thần bị ngã, bị thương khắp mình. Xin chúa thượng phân giải giúp.

Hoàng đế Càn Long nghe xong, sắc mặt giận dữ, nói:

- Con ngựa Quốc Thịnh cưỡi là do trẫm ban cho. Hòa Thân giữ chức thủ tướng mà coi thường kỷ cương, chẳng khác nào tội khi quân. Cách chức thủ tướng, lôi ra Ngọ Môn xử tội.

Đám hiệu úy vội vàng xông lên, lột bỏ áo mũ của Hòa Thân, trói lại, đẩy ra ngoài Ngọ Môn.

Chợt thấy Lại bộ thị lang Lưu Dung tay cầm xâu chuỗi, chầm chậm bước lên điện, miệng hô vang:

- Vạn tuế!

Rồi quỳ phục xuống thềm vàng, nói:

- Thần Lưu Dung có một bản tấu mồm, xin tấu lên Thánh thượng. Vùng Sơn Đông ba năm liền gặp thiên tai, không chút thu hoạch, lê dân lầm than, thây phơi đầy nội. Tuần phủ Sơn Đông là Quốc Thái lại dâng bản tấu về kinh, dối vua làm điều tệ hại, tàn hại lê dân, thúc đóng thuế gấp, lạm sát mười ba cử nhân, giám sinh của nhà nước. Thần bất tài cũng nguyện bảo hộ cho Hòa khanh, xin cho ông ta cùng thần tới Sơn Đông bắt Quốc Thái về trị theo phép nước. Nay có tiến sĩ Tả Đô Hằng người thôn Tả gia trang ở phía Tây thành, huyện Ân, thuộc phủ Đông Xương tỉnh Sơn Đông, nguyện thay dân chúng huyện Ân nộp thuế. Quốc Thái vu cho tiến sĩ tội mua chuộc lòng người, có ý làm phản nên đã giết tiến sĩ thị chúng. Hành vi ngông cuồng thể hiện quá rõ. Nay có đơn kiện của Tả Liên Thành làm bằng chứng, mong thánh thượng ngự lãm.

Rồi hai tay dâng lá đơn kêu oan lên. Hoàng đế Càn Lãnh đọc xong lá đơn kiện, lệnh cho Lưu Dung dẫn Tả Liên Thành lên điện, đích thân thẩm vấn. Lưu lại bộ lĩnh chỉ, lui xuống điện. Tới triều phòng lệnh cho Lưu An, Trương Thành dẫn Tả Liên Thành tội, dặn dò:

- Thánh thượng tuyên gọi cháu vào điện. Ta muốn cháu hãy vững tâm, chớ nên sợ hãi. Báo thù cho cha chính là lúc này đây.

Tả Liên Thành luôn miệng vâng dạ. Lưu công tiến dẫn Tả Liên Thành tới Cửu Long đình, quỳ xuống. Hoàng đế Càn Long lệnh cho Tả Liên Thành tiến lên mấy bước, thấy chú bé dâng đơn kiện tuổi mới độ mười một, mười hai, thiên đình đầy đặn, địa các tròn, mày thanh mắt sáng, răng trắng, môi hồng, trong lòng thầm nghĩ:

- Đứa bé này mai sau tất thành bậc kỳ tài.

Hoàng thượng hỏi mấy câu, Tả Liên Thành đều trả lời trôi chảy. Lúc này, Lưu lại bộ quỳ dưới thềm vàng, miệng hô:

- Bẩm thánh thượng. Xin hãy hạ chỉ cho phép thần tới Sơn Đông tra xét Quốc tuần phủ. Xin tha cho Hòa thủ tướng, phục hồi quan chức, để ông ta giúp thần tra xét rõ vụ này, lập công chuộc tội.

Hoàng đế Càn Long chuẩn tấu, lập tức hạ một đạo thánh chỉ xá tội cho Hòa Thân, truyền dẫn ông ta lên triều. Hòa Thân lên điện, tạ ân tha mạng. Hoàng đế Càn Long ra chỉ dụ:

- Hòa Thân vô lễ khi quân, tội đáng bị chém. Nay có lại bộ thượng thư là Lưu Dung dâng tấu bảo đảm. Lệnh cùng Lưu lại bộ tới Sơn Đông tra xét dân tình, lập công chuộc tội, phục hồi chức cũ, khâm thử.

Hòa Thân tạ ân, cùng Lưu Dung lui xuống điện. Lại ban cho Lưu Dung Thượng phương bảo kiếm, Vương mệnh kỳ, Tam nhật đồng tắc, có quyền tiền trãm hậu tấu, thấy Vương kỳ như thấy Hoàng thượng. Lưu Dung tạ ân, lui xuống. Bãi triều. Lưu Dung và Hòa Thân tới gian triều phòng phía Đông. Hòa Thân tạ ân thầy bảo lãnh. Lưu lại bộ nói:

- Hoàng thượng lệnh cho thầy trò ta xuống Sơn Đông tra xét chuyện dân chúng bị mất mùa. ông hãy tới Sơn Đông trước. Dọc đường đi ta còn phải dò xét chuyện trong dân. Thầy trò ta sẽ đợi nhau tại công quán phủ Tế Nam.

Bàn bạc xong xuôi, hai người chia tay, ai về phủ nấy, chọn ngày lành tháng tốt, vào triều xin chỉ thị xong xuôi. Hai thầy trò mỗi người dẫn theo một đám chấp sự cùng rời kinh. Binh mã, kiệu phu đi ra hướng cổng chính Nam. Qua phố lớn, phố nhỏ, qua cầu treo cùng ngồi uống trà. Qua quán hướng Tân, nhìn thấy tòa bảo tháp của huyện Lương Hương. Nghỉ lại trong công quán của huyện Lương Hương một đêm. Sáng hôm sau, cơm nước xong xuôi, Lưu công nói:

- Hai thầy trò ta chia tay tại đây. Ngài đi trước một bước, ta chầm chậm theo sau, còn phải tra xét chuyện trong dân.

Không biết chuyện sau này ra sau. Mời quý vị xem tiếp phần sau.
 

hoahongden12

Active Member

Bảo minh thất ám tuy tương dị,

Phương thốn thường tồn bất khả khi.

Mạc đạo thiên cao quỷ thần viễn,

Yếu tu tìm lý tự gia tri.

Dịch thơ:

Sáng tối trong nhà tuy khác nhau

Lòng người vẫn thế chớ khinh nào

Đừng cho trời quỷ thần cao vắng

Trong tối tự mình biết trước sau.

Lại nói chuyện Lưu công và Hòa Thân chia tay nhau tại huyện Lương Hương, Hòa thủ tướng đi trước một bước. Lưu đại nhân trong công quán cải trang thành đạo sĩ vân du, binh mã, chấp sự đi trước chuẩn bị chỗ ăn nghỉ. Lưu công chậm rãi lên đường, vừa đi vừa dò xét dân tình. Đi qua quán trại bên sông Lưu Ly, tới cây cầu đá phía Bắc cổng thành Toại Châu, vào công quán nghỉ ngơi.

Ngày hôm sau, cơm nước xong xuôi, lại mặc quan phục, ngồi kiệu lên đường. Rời khỏi cửa Nam thành Toại Châu, nhằm hướng Tam Giác Điểm của phủ Hà Gian thẳng tiến. Rời khỏi cửa Nam thành Tân đi theo phía Nam tới sông Bạch Câu, vượt qua Triệu Bắc Khẩu, Thập Nhị Liên Kiều của huyện Hùng, tới công quán trấn Sào Châu nghỉ lại. Ngày hôm sau tới huyện Nhiệm Khâu, Nhị Thập Lý Bảo, tới Thương Gia Thôn của phủ Hà Gian nghỉ lại. Vượt qua huyện Hiến, theo hướng Nam tới Phú Trang Tao, lại tới thành Trụy, vượt qua thành. Binh mã, chấp sự đi trước, tới đường lớn phía Bắc bên ngoài thành Cảnh Châu, Lưu đại nhân ngồi trong kiệu ghé mắt nhìn ra, quan sát phong tục, tập quán và dân tình Cảnh Châu. Thấy người qua kẻ lại dập dìu, du khách, thương nhân tấp nập, trong lòng nghĩ thầm: "Có lẽ đây là đất Cảnh Châu. Rõ là vùng yên ổn, thái bình".

Đang nghĩ vẩn vơ, chợt thấy một con gió xoáy cao ngất trời bốc lên, bay ngang qua kiệu. Lưu đại nhân ngồi trong kiệu, lòng thầm kinh ngạc, đưa mắt nhìn cơn gió xoáy, nói:

- Cơn gió xoáy này nếu có điều oan khuất, hãy lượn ba vòng trước kiệu của bản bộ, bản bộ sẽ lập tức chấp nhận lời kêu oan của ngươi.

Chợt thấy cơn gió lượn qua, lượn lại ba lần trước kiệu. Lưu đại nhân biết nơi này hẳn có chuyện oan khuất, bèn sai Trương Thành đi theo cơn gió xoáy, kiệu của đại nhân cũng theo sau. Chỉ thấy cơn gió xoáy cuốn về phía Tây Nam. Tới nơi, thấy một ngôi mộ mới, bên cạnh có một thiếu phụ dung mạo xinh đẹp, mình mặc tang phục đang đốt tiền vàng, đổ rượu trước ngôi mộ mới, cất tiếng khóc vô cùng thảm thiết. Lại thấy cơn gió xoáy chuyển hướng, bay về phía ngôi mộ mới. Bộ đồ tang trên mình thiếu phụ bị gió thổi hất lên, để lộ ra tà áo đỏ bên trong. Đại nhân thấy vậy, khẽ gật đầu, trong lòng đã hiểu ra vài phần, dặn dò:

- Hạ kiệu!

Ngươi hầu mang ghế tới; Đại nhân ngồi xuống, nói:

- Lưu An, mau đi truyền châu quan của Cảnh Châu tới gặp bản đường.

Lưu An ứng tiếng, nhảy lên lưng ngựa, phóng như bay vào thành Cảnh Châu. Tới thẳng nha môn Tri Châu, ngồi trên lưng ngựa, quát vang:

- Sai dịch trong nha môn nghe đây: Nay lại bộ thượng thư Lưu đại nhân phụng chỉ tới Son Đông tra xét dân tình tới vùng ngoại ô phía Bắc thành Cảnh Châu, lệnh châu quan của Cảnh Châu mau ra nghênh đón.

Nói xong, xoay đầu ngựa đi thẳng.

Đám nha dịch không dám chậm trễ, vội chạy vào trong thông báo. Tri châu Lưu Tế Hiền nghe tin báo vội hạ lệnh:

- Chuẩn bị ngựa!

Lập tức lên ngựa, phía sau là một đám đông nha dịch, thư lại theo hầu. Không lâu sau đã ra khỏi châu thành, tới vùng ngoại ô phía Bắc. Thấy một đám binh mã, chấp sự đông như ong ở đó. Lưu tri châu vội vã xuống ngựa, tới trước mặt Lưu lại bộ, chắp tay, cúi mình thi lễ, nói:

- Bẩm đại nhân, tệ chức tri châu Cảnh Châu Lưu Tế Hiền xin chào ra mắt.

Hành lễ xong xuôi, đứng sang một bên. Lưu lại bộ nói:

- Quý tri châu, nay bản bộ phụng mệnh tra xét dân tình vùng Sơn Đông, dọc đường đi ngang qua nơi này, thấy một thiếu phụ đi tế mộ, trên mình mặc hiếu phục nhưng trong lại mặc áo đỏ. Lại có gió xoáy chặn kiệu, chắc hẳn phải có oan khúc chi đây? Quý châu hãy tiến lên giúp bản đường dò hỏi xem cô ta tên họ là gì, nhà ở đâu? Người dưới mộ là gì của cô ta? Mắc phải bệnh gì đến nỗi chết?

Lưu tri châu vâng dạ, lui đi. Hỏi ba ban nha dịch:

- Trong số các ngươi, có ai biết thiếu phụ ấy không?

Chợt thấy một tên nha dịch trong châu lật đật chạy ra, quỳ xuống nói:

- Bẩm đại nhân, tiểu nhân có biết thiếu phụ ấy. Nhà mẹ đẻ cô ta ở tại Tam Lý Bảo, nhà chồng ở tại Bồ Gia Loan. Thiếu phụ ấy họ Hoàng, tên ái Ngọc, được gọi là Đại Thư. Chồng chị ta là Xú quỷ Bồ Hiền. Bởi Xú quỷ Bồ Hiền lâm bệnh qua đời nên Hoàng thị tới đây cúng tế.

Đại nhân hỏi:

- Ngươi họ tên là gì?

Châu nha trả lời:

- Tiểu nhân họ Hoán, tên gọi "Sơn Đăng".

Đại nhân nói:

- Ngươi mau đi gọi bảo chính của Bồ Gia Loan tới đây.

Hầu đầu mục ứng tiếng, lui xuống, nhắm hướng Bồ Gia Loan chạy đi.

Còn đang lo phải chạy bộ hơn ba dặm đường đất, thụt may nửa đường lại gặp người cần tìm, nói:

- Chẳng phải Phiên Tam đó hay sao?

Bảo chính Phiên Tam nói:

- Đúng là tôi. Không biết có việc công gì?

Hầu đầu mục nói:

- Mau theo ta đi gặp đại nhân.

Không lâu sau, hai người bọn họ đã tới trước mặt đại nhân, quỳ cả xuống, nói:

- Bảo chính Bồ Gia Loan xin kính chào đại nhân.

Lưu đại nhân dặn dò, nói:

- Mau truyền gọi thiếu phụ bên mộ tới đây gặp bản bộ.

Bảo chính Phiên Tam ứng tiếng, nói:

- Dạ!

Rồi chạy tới bên ngôi mộ mới, thấy Hoàng Ái Ngọc, bất giác giật mình, nói:

- Không ổn! Nếu lật lại vụ này, điều tra rõ chuyện Hoàng Ái Ngọc cùng gian phu mưu hại chồng, ta được chúng đút lót tám xâu tiền. Gã Lưu gù không dễ giây như các vị quan trên khác. Ông quan này tính khí quái gở, lại hay xen vào việc của người khác. Nếu ông ta điều tra rõ vụ này, ngay cả Phiên Tam ta cũng khó lòng sống nổi.

Chẳng còn cách nào khác, bước tới bên ngôi mộ, hạ giọng, nói:

- Ái Ngọc, cô chớ có ở đây mà gào khóc nữa? Bao nhiêu chỗ cần tới cô chẳng tới, lại tới nơi này. Bao nhiêu ngày đáng tới cô chẳng tới lại chọn đúng ngày hôm nay. Nay có Lại bộ thương thư Lưu đại nhân từ kinh thành đi qua đây, thấy cô ngoài mặc tang phục, trong mặc áo hồng, trong lòng không vui, sai ta gọi cô tới nước kiệu hỏi chuyện. Cô phải cẩn thận một chút mới được. Lão Lưu gù này không phải như các vị quan khác đâu.

Hoàng Ái Ngọc nghe vậy, khẽ nháy mắt, nói:

- Quan qua đường thì làm gì nổi tôi?

Phiên Tam nói:

- Cô nói sai rồi. Quan trong thiên hạ thì quản dân trong thiên hạ. Mau theo ta đi gặp Lại bộ đại nhân. Cần phải cẩn thận một chút.

Hoàng Ái Ngọc đành phải đứng dậy, phủi bụi đất bám trên mình, tới trước mặt Lưu lại bộ, quỳ xuống, nói:

- Dân nữ xin khấu đầu trước đại nhân. Không biết đại nhân cho gọi dân nữ tới đây có chuyện gì chỉ bảo?

Lưu đại nhân thấy thiếu phụ này không hề sợ quan, bèn hỏi:

- Thiếu phụ này nhà ở đâu? Tên là gì? Người dưới ngôi mộ mới ấy là gì của ngươi?

Hoàng Ái Ngọc chưa nói năng gì, hai hàng lệ đã trào ra, nói:

- Bẩm đại nhân. Nhà đẻ của tiểu nô họ Hoàng, ở tại Tam Lý Bảo. Nhà chồng ở tại Bồ Gia Loan, tiểu nô tên gọi Hoàng Đại Thư. Người chết chôn dưới mộ là chồng của tiểu nô, tên gọi là Bồ Hiền.

Đại nhân hỏi:

- Ngươi là vợ chính thức của hắn hay là vợ lẽ? Chồng người mắc bệnh gì đến nổi qua đời?

Hoàng Ái Ngọc nói:

- Là vợ chính thức, cưới nhau đã được ba năm, cha mẹ chồng đều đã qua đời, hai vợ chồng sống rất khổ cực. Chồng tiểu nô suất ngày chỉ mê cờ bạc, không lo gì tới việc đồng áng. Nô gia cả ngày dệt vải, không hề oán thán chi. Việc đã tới nước này, cũng chẳng còn gì phải giấu. Đêm ấy, vợ chồng tiểu nô cùng ngủ một giương. Tiểu nô cũng xin khai thực, mong đại nhân đèn trời soi xét. Chồng của nô gia khát nước, đòi uống, uống hết một bát nước lạnh.

Đại nhân hỏi:

- Các ngươi là vợ chồng với nhau, phải ngăn hắn, không cho hắn uống nước lạnh mới phải. Hơn nữa, hắn đã mắc bệnh, phải gọi thầy thuốc tới khám mới đúng.

Ái Ngọc nói:

- Tiểu nô nhất thời buồn ngủ. Tới khi tỉnh dậy, anh ấy đã uống xong rồi. Vốn biết anh ấy bị bệnh, tiểu nô đã mời Vương Bán Tiên tới khám bệnh. Thầy lang nói anh ấy bị nhiễm cảm lạnh quá nặng, khó lòng chữa khỏi. Trời còn chưa sáng, người đã tắt thở. Sáng hôm sau, tiểu nô bỏ ra năm lượng ba tiền bạc mua một cỗ quan tài về khâm liệm. Bởi anh ta chết trong phòng nên thi thể không để được lâu. Chôn xuống tới hôm nay vừa tròn ba ngày. Tiểu nô tới mộ cúng tế, gặp đúng lúc đại nhân ngang qua. Tiểu phụ nói đây toàn là sự thật.

Đại nhân hỏi:

- Đã là vợ chồng với nhau, chồng ngươi mới chết được ba ngày, người mặc đồ tang là sẽ đương nhiên, tại sao bên trong lại mặc áo đỏ?

Ái Ngọc nghe hỏi, vội quỳ sụp xuống lạy bốn lạy, nói:

- Bẩm đại nhân! Cũng bởi chồng tiểu nô ngày thường không chịu chăm chỉ đồng áng, chỉ ham cờ bạc, thua sạch ruộng vườn, ngay cả đồ trang sức của nô gia anh ta cũng mang cầm bán hết. Tấm áo đỏ này là của hồi môn tiểu nô mang từ nhà mẹ đẻ về quanh năm suốt tháng không phải mặc tới, cũng không dám để trong nhà nên đã gửi sang nhà hàng xóm. Nay vừa đúng ba ngày chồng tiểu nô chết, lại gặp đúng lúc tiểu nô hết váy áo mặc, đành phải lấy chiếc áo đỏ này ra mặc cho đỡ lạnh. Nếu nô gia sớm biết mặc áo đỏ sẽ bị tội thì rét đến chết, nô gia cũng không đám mặc.

Lưu lại bộ nghe vậy, nở nụ cười, nói:

- Ả đàn bà lẻo mép, dám dùng lời dối trá quanh co: Nay có gió xoáy chặn kiệu, chắc hẳn phải có oan tình. Bản bộ đường quyết phải quật mộ khám nghiệm lại tử thi.

Ái Ngọc hô to:

- Thanh thiên đại nhân muốn mở nắp quan tài, khám nghiệm lại tử thi, tiểu nô cũng không dám ngăn cản. Nhưng có một việc phải nói cho rõ. Nếu khám thấy thương tích, tiểu nô nguyện xin chịu tội. Còn nếu không khám ra thương tích, đại nhân sẽ phải làm sao đây?

Lưu lại bộ cười nhạt, nói:

- Nếu bản bộ trưởng không tìm ra thương tích trên tử thi, tất sẽ tự xin từ chức.

Rồi lập tức lệnh cho nha dịch đào mộ, mở quan tài. Có rất nhiều người quỳ xuống, nói:

- Nay không có dụng cụ, khó lòng đào mộ, mở quan.

Lưu lại bộ vội lệnh cho bảo chính Phiên Tam đi gọi dân làng mang cuốc, xẻng tới. Phiên Tam ứng tiếng, đứng dậy đi ngay, trong lòng nghĩ thầm:

- Mở quan tài ra, nếu không khám nghiệm ra thương tích thì thôi. Còn nếu khám nghiệm ra, vụ này liên quan tới tính mạng của tám người. Giờ ta chưa về Bồ Gia Loan vội, hãy vào thành báo tin cho Trương võ cử trước, sau đó sẽ về Bồ Gia Loan gọi người.

Nghĩ xong, nhằm hướng châu thành tiến tới.

Chợt cảm thấy có người theo dõi. Quay đầu nhìn lại, thì ra là hai viên thương sai họ Trương, Vương đang nhìn chằm chằm.

Hắn bèn giả lả chơi, nói:

- Hai vị thương sai sao lại theo tôi?

Trượng, Vương hai vị công sai nhất tề hỏi:

- Đại nhân sai người về Bồ Gia Loan gọi người, sao người lại đi về phía Nam là hướng vào châu thành?

Phiên Tam nghe vậy, trong lòng hơi cuống, chợt nảy ra một kế, mỉm cười, nói:

- Nhị vị thương sai không biết đó thôi. Khi nãy, Châu đại gia sai tôi vào thành truyền một việc. Rẽ qua thành một chút rồi tới Bồ Gia Loan sau. Hai vị thương sai lệnh cho tôi lập tức tới Bồ Gia Loan, tôi sẽ về Bồ Gia Loan trước, sau đó sẽ vào thành cũng không muộn.

Không lâu sau, ba người đã tới Bồ Gia Loan. Phiên Tam lớn tiếng hò hét:

- Các vị hương thân, mau ra đây. Trong thôn của chúng ta xảy ra chuyện rồi.

Đám dân thôn thấy vậy, già, trẻ, trai, gái đều kéo ùa cả ra, hỏi Phiên Tam:

- Thôn ta đã xảy ra chuyện gì? Cớ sao ông lại kêu ầm lên như vậy?

Phiên Tam nói:

- Bồ Hiền trong thôn ta chẳng phải đã bỏ ra ba mươi xâu tiền mua Đại Thư nhà họ Hoàng ở Tam Lý Bảo về làm vợ hay sao? Hoàng Đại Thư chê Bồ Hiền xấu xí, nay gây chuyện, mai cãi cọ. Hôm trước Bồ Hiền qua đời. Nay Hoàng Đại Thư đi lễ mộ, gặp đúng lúc Lưu lại bộ đi ngang qua đó, thấy Hoàng Đại Thư mình mặc đồ tang nhưng bên trong mặc áo đỏ, trong lòng nghi ngờ chồng cô ta chết mờ ám, nay muốn quật mộ khám nghiệm tử thi, sai ta về đây mời mười mấy dân thôn mang theo cuốc, xẻng tới đào mộ, mở quan.

Đám hương dân nghe vậy, ngươi nọ nhìn người kia, trên mặt đều lộ vẻ buồn bực.

Một người nói:

- Tối qua chúng tôi còn ngồi hút thuốc, nói chuyện với nhau mà.

Người khác nói:

- Hay là chưa chết hẳn?

Một người trong đám ấy hạ giọng nói:

- Các anh đều không rõ về Bồ Hiền. Từ sau khi mua Hoàng Đại Thư về ngày nào cũng cãi nhau, tất cả chỉ vì một chữ "Xấu".

Người kia hỏi:

- Sao anh biết?

Người này nói:

- Tối hôm ấy tới gặp tay võ cử họ Trương tên Viễn, sống ở cổng thành phía tây. Người ấy năm nay ba mươi hai tuổi, gia cảnh phú quý, chuyên chui lỗ chó. Thường cứ tới canh hai, canh ba lại tới đẩy cửa nhà họ Bồ. Tôi hỏi: "Anh có quan hệ với nhà họ Bồ ư?" Hắn trả lời: "Không quan hệ thân thích. Tôi tới đây lấy ấn và tiền". Tôi đã nghi Trương võ cử và Hoàng Đại Thư có quan hệ lén lút với nhau. Bồ Hiền chết, chúng ta đâu rõ anh ta chết vì đâu!

Mọi người nói:

- Quan phủ cho gọi, chúng ta hãy mau mang cuốc, thuổng tới đó. Vừa là đào đất cũng là đi xem cho biết.

Không lâu sau mọi việc chuẩn bị đã xong. Phiên Tam nói:

- Nhị vị thương sai. Các vị hãy dẫn mọi người đi đào đất, mở quan. Còn tôi đi có chút việc.

Hai vị công sai Trương, Vương nói:

- Đi mau về mau.

Phiên Tam nói:

- Tôi biết rồi!

Rồi sải bước chạy tới cổng Tây châu thành, tới trước cổng nhà Trương võ cử, xông thẳng vào trong. Gia đinh canh của ngăn lại, nói:

- Phiên Tam, ngươi điên rồi à? Đi đâu vậy?

Phiên Tam kêu ầm lên, nói:

- Chớ có cản ta. Ta có việc gấp cần vào gặp đại gia. Trương Võ Cử lúc ấy đang ở trong sân, thấy bên ngoài có tiếng người huyên náo, vội ra ngoài xem. Thì ra là bảo chính Phiên Tam của Bồ Gia Loan, nói:

- Phiên Tam, ngươi lại tới đây vay tiền đấy à?

Phiên Tam nói:

- Không phải.

Rồi tiến tới bên võ cử, ghé sát tai vào miệng hắn, thấp giọng kể cho hắn nghe một lượt chuyện của Hoàng ái Ngọc. Trương Bồi Nguyên nghe xong, sững người, trong lòng phát hoảng, chẳng biết phải làm sao. Phiên Tam thấy vậy, nói:

- Đại gia, chớ sợ. Tiểu nhân xin tới mộ trước. Ngài hãy mang theo hai đĩnh vàng tới đó sau, ngầm trao hai đĩnh vàng ấy cho kẻ khám nghiệm tử thi, bảo hắn chớ nên khám kỹ quá. Kẻ khám nghiệm tử thi nhận của đút không báo lên kết quả thực. Lưu gù không tìm được chứng cứ gì phải mất quan chức. Ngài thấy kế này thế nào?

Trương Bồi Nguyên nói:

- Cứ làm theo kế ấy. Ngươi hãy đi trước, ta sẽ tới sau.

Phiên Tam chạy thẳng tới ngôi mộ. Chỉ thấy dân chúng Bồ Gia Loan người cầm cuốc, kẻ cầm xẻng, chân năm tay mười đang đào mộ lên, để lộ ra cổ quan tài màu trắng đục. Lưu lại bộ thấy cổ quan tài, bất giác nổi giận trong lòng, thể hiện ra nét mặt, đưa mắt nhìn Hoàng ái Ngọc, nói:

- Ngươi miệng nói là vợ của hắn, vợ chồng ân ái, tình nặng tựa non. vậy tại sao lại dùng một cổ quan tài tồi tệ như vậy để khâm liệm cho hắn?

Hoàng ái Ngọc vội vàng quỳ xuống, nói:

- Đại nhân: Gia sản cơ nghiệp nhà tiểu nô đã bị chồng nô gia khi còn sống đánh thua cả rồi. Mua được cỗ quan tài này là hết sạch tiền, đâu còn đồng nào cho thợ sơn đến sơn nữa. Mong đại nhân khai ân.

Lưu đại nhân dặn dò:

- Khênh lên khỏi huyệt.

Không biết sự việc rồi sẽ ra sao? Mời quý vị xem tiếp hồi sau.

_________________
 

hoahongden12

Active Member

Trấn nhật trường hôn ẩm,

Phi quan dưỡng tính linh

Nhãn khán nhân tận túy,

Hà nhẫn độc vi tinh.

Dịch thơ:

Uống cả ngày say tít

Không gìn giữ tính Linh

Thấy mọi người say ca

Sao nơ tỉnh một mình.

Lại nói chuyện Lại bộ thượng thư Lưu đại nhân nghe Hoàng ái Ngọc nói vậy, biết rõ đó chỉ là nhũng lời hoa mỹ lấp liếm sự thật bèn dặn dò thuộc hạ kéo quan tài lên khỏi huyệt mộ. Lúc này, võ cử Trương Bồi Nguyên cũng tới. Lén gặp người khám nghiệm tử thi, trao cho hắn một trăm lạng bạc, lén thì thầm vào tai hắn mấy câu, bảo hắn chỉ cần khám qua loa, chớ nên tìm ra thương tích của nạn nhân là xong. Viên khám nghiệm tử thi gật đầu ưng thuận. Hai người còn đang nói chuyện với nhau, chợt thấy đại nhân truyền gọi, lệnh khám nghiệm tử thi.

Hắn vội cùng võ cử chia tay, bước tới bên thi thể. Thấy bên cạnh đã trải sẵn một chiếc chiếu cói liền chuẩn bị làm việc. Sai mọi người mở nắp quan tài, khiêng thi thể đặt lên chiếu, lột bóc quần áo trên mình nạn nhân. Viên khám nghiệm tử thi tay cầm cây thước gỗ, phun rượu, giấm lên rửa sạch thi thể nạn nhân rồi bắt đầu kiểm tra. Đằng trước, đằng sau, đỉnh đầu tìm khắp một lượt không thấy có thương tích gì, trong lòng thầm nghĩ: "Thương tích tất ở trong nội tạng. Nay ta đã nhận của đút cũng không nên kiểm tra kỹ lưỡng làm gì". Rồi tiến tới trước mặt Lưu lại bộ, quỳ xuống, nói:

- Bẩm đại nhân, tiểu nhân đã khám kỹ toàn thân, thấy không có vết thương gì, cũng không thấy phát hiện điểm khả nghi. Có lẽ là do bị bệnh chết thật.

Lưu lại bộ nghe bẩm vậy, lập tức đứng dậy, bước tới bên thi thể, đưa mắt nhìn. Thấy nạn nhân người thấp bé, cao chỉ khoảng ba thước bảy, tám tấc, bím tóc dài độ bốn, năm tấc, rối bù, mặt rỗ nhằng nhịt. Xem xong, quay qua phía thiếu phụ, thấy ả bộ dạng phong lưu, xinh đẹp, trong lòng nghĩ thầm:

- Vụ này hẳn do gian dâm giết chồng.

Rồi sai viên khám nghiệm tử thi khám lại lần nữa. Lưu công đích thân đứng một bên giám sát. Viên khám nghiệm tử thi lại khám hết lượt, vẫn không tìm ra thương tích gì. Lưu công trong lòng buồn bực, nghĩ thầm: "Nếu hắn chết bởi bệnh tật san lại có gió xoáy chặn kiệu, thiếu phụ mặc áo đỏ?". Rồi kêu thầm tên mình: " Lưu Dung ơi Lưu Dung! Hôm nay người gặp phải chuyện rầy rà rồi". Đành cất giọng gọi:

- Bồ Hoàng thị. Bản bộ không tìm ra thương tích, đã nghĩ oan cho ngươi rồi. Bản bộ thưởng cho ngươi năm mươi lạng, sai treo vải đỏ trước cửa nhà ngươi. Ta sẽ viết một đạo công văn, xin cho ngươi tấm biểu trinh tiết, lập bia ghi nhận, khen ngợi ngươi là gái biết thủ tiết, danh thơm lưu truyền hậu thế, chôn thi thể của chồng ngươi xuống. Coi như khép lại vụ án này. Ngươi thấy vậy có được không?

Hoàng ái Ngọc nghe vậy, trong lòng hớn hở, vội quỳ xuống, nói:

- Đa tạ ân điển của đại nhân. Tiểu nô nguyện...

Chữ "nguyện" vừa ra khỏi miệng, chợt thấy một trận gió xoáy bốc lên, xoay quanh mình Hoàng Ái Ngọc. Hoàng Ái Ngọc lập tức run lên, đôi lông mày dựng ngược, mắt phượng trợn tròn, đứng bật dậy, dậm chân xuống đất, đưa tay chỉ thẳng vào mặt Lưu đại nhân, lớn tiếng chửi mắng:

- Lưu gù, vẫn nghe nói ngươi là viên quan chính trực, thích can thiệp vào chuyện bất bình của dân. Nay thấy ngươi cũng chỉ là hòn gạch nung mà thôi. Chồng của ta rõ ràng bị bệnh mà chết, ngươi một mực đòi quật mộ, mở nắp quan tài khám nghiệm tử thi, làm nhơ bẩn danh tiếng của ta, ngậm máu phun người. Ta quyết không chịu để người thôi một cách dễ dàng như vậy?

Rồi rũ ống tay áo, xông tới phía Lưu đại nhân đòi liều mạng. Đám nha dịch vội vàng ngăn lại. Lôi lôi kéo kéo, không cho ả đến gần.

Lúc này, võ cử Trương Bồ Nguyên đứng xem ở ngoài, thấy đám nha dịch lôi kéo Hoàng Ái Ngọc, bất giác nổi giận trong lòng. Hắn liền cột chặt lại bím tóc, cởi áo ngoài ra, để hở lưng, hở bụng xông tới định làm khó dễ cho Lưu lại bộ. Đứng cạnh hắn có một ông già thấy vậy, vội ngăn hắn lại, nói:

- Trương đại lão gia, ông có quan hệ thân thích gì với Hoàng ái Ngọc không?

Trương võ cử nói:

- Không quan hệ thân thích.

Ông già nói:

- Không thân thích, chẳng quan hệ tại sao lại muốn xen vào chuyện này? Ông Lưu gù này không giống những viên quan qua đường khác. Tính tình ngay thẳng, ngạo thượng. Nếu ông xông lên, tôi chỉ e ông phải mang vạ, tự tìm lấy sự đau khổ mà thôi. Hãy nghe lời khuyên của già này, ai về lo việc nhà nấy, chớ nên lo chuyện người khác.

Võ cử nói:

- Tôi đứng đây nghe xử, tức không chịu nổi, muốn ra tay can thiệp bất bình. Ông đã khuyên vậy, tôi cũng không xen vào chuyện thiên hạ nữa.

Rồi mặc áo vào, quay đầu về nhà.

Lại nói chuyện Lưu công thấy Hoàng thị làm càn, dặn dò nha dịch đem Hoàng thị về công quán, lệnh bảo chính Phiên Tam canh giữ tử thi, cho phép tri châu về nha. Lưu công cũng lên kiệu về công quán.

Lại nói chuyện khám nghiệm tử thi kết thúc. Đám dân thôn túm năm túm ba bàn tán chuyện này. Có người nói:

- Nạn nhân chết không rõ ràng.

Người khác nói:

- Chắc do bệnh đột ngột qua đời.

Lại có người nói:

- Vụ này càng lúc càng lớn rồi.

Mọi người đang bàn tán xôn xao, chợt thấy một người từ xa đang hò hét chạy tới, nói:

- Đám các người nói chuyện gì vậy? Thì thà thì thầm, sao không chịu nói to ra, làm cho ta phải bực mình.

Đám đông nghe vậy, quay đầu lại nhìn. Thấy người ấy trên vai gánh chừng một, hai đấu gạo, lưng đeo hai xâu tiền. Thì ra là kẻ thích đánh nhau, hay gây rối Ban Bưu Tử. Hắn họ Lưu, tên Thanh, tự là Côn Sơn. Thì ra hắn về nhà ở Tam Lý Bảo để đưa tiền, đưa gạo cho mẹ. Thấy hắn đi xiêu xiêu, vẹo vẹo, biết đã quá say, mọi người đều tránh né, không ai muốn trêu vào. Chẳng ai bảo ai, tản đi cả. Có một người tuổi tác đã cao, không chạy thoát, bị Bưu Tử Lưu Thanh tóm được, nói:

- Các ngươi túm năm tụm ba lại một chỗ, thì thầm chi vậy? Tại sao không nói lớn lên làm ta đây bực mình? Mau nói cho ta nghe. Nói mau!

Ông già nói:

- Ngươi bỏ tay ra ta nói cho mà nghe.

Lúc này, Bưu Tử Lưu Thanh mới thả tay ra. ông già kể lại một lượt cho hắn nghe chuyện khám nghiệm tử thi nhưng không tìm ra thương tích gì. Bưu Tử Lưu Thanh nghe xong, nổi giận đùng đùng, miệng hét vang:

- Chú à, chú không biết đấy thôi. Ả Hoàng ái Ngọc này tư thông với Trương võ cử, hại chết chồng ả là Bồ Hiền. Lưu Thanh tôi biết rất rõ. Chỉ vì tôi tham mấy ly rượu ở Bắc Trang, không kịp tới đây lúc Lưu lại bộ khám nghiệm tử thi. Thôi thì, để tôi tới công quán kêu oan với Lưu đại nhân vậy.

Nói xong, đùng đùng nhằm hướng công quán xông tới. Ông già đưa tay ra túm lấy hắn, nói:

- Lưu Thanh, ngươi thật vô lý! Ngươi kêu oan không công cho người ta, khiến mẹ già ngươi năm nay sáu bảy mươi tuổi phải lo sợ, biết lấy ai chăm sóc đây! Tục ngữ nói phải lắm: "Việc nhà thì nhác, việc chú bác lại siêng". Tại sao ngươi lại phải đâm đầu vào đó chứ. Ngộ nhỡ mẹ ngươi hay tin ngươi bị lên quan vì vụ án liên quan đến mạng ngươi, sợ hãi mà sinh bệnh, xảy ra mệnh hệ gì, người sống không nuôi, chết không chôn, ngươi bày trò hảo hán ra làm gì?

Bưu Tử Lưu Thanh nghe vậy, chợt nở nụ cười, nói:

- Chú à, cháu cảm ơn chú đã chỉ dạy!

Rồi chào, bỏ đi.

Không lâu sau đã tới cổng Tây thành Cảnh Châu. Đám ăn không ngồi rồi ở đó thấy Lưu Thanh, đứa này gọi "Lưu hiền đệ" đứa kia gọi "Lưu đại ca" nói:

- Mấy ngày hôm nay không gặp, chúng ta phải đi uống một trận thực say mới được.

Nói xong, dắt nhau vào quán rượu.

Lại nói chuyện Lưu đại nhân tới công quán, dùng trà, ăn điểm tâm xong, trong lòng nghĩ thầm:

- Gió xoáy chặn kiệu, thiếu phụ bên mộ rõ ràng đã để lộ ra oan tình, tại sao mở quan tài khám nghiệm tử thi lại không tìm ra thương tích gì? Nghĩ tới nghĩ lui vẫn không tìm ra manh mối, chi bằng cải trang đi dò la, may ra tìm được chút manh mối cũng nên.

Nghĩ xong, lập tức sai Lưu An, Trương Thành mang ra một cái bao, mở bao ra. Lưu công lấy mũ đạo sĩ đội lên đầu, mặc đạo bào lên mình, lưng thắt đai nhung màu vàng, bỏ xõa tóc mai, chân đi hài vân du, cầm mỏ trên tay, cải trang thành một đạo sĩ đi hóa duyên, lén rời khỏi công quán, rời khỏi cổng thành đi thị sát dân tình. Đi mãi vẫn không có một chút tin tức gì, nghĩ thầm: "Ta hãy tới Tam Lý Bảo, sau đó tới Bồ Gia Loan thăm dò tin tức". Nghĩ xong lập tức hỏi đường, rẽ sang phía Nam, tới Tam Lý Bảo. Vừa tới cạnh thôn Tam Lý Bảo, chợt thấy phía Đông Bắc có một đám mây đen lớn kéo tới, thoáng chốc đã che kín bầu trời. Một trận gió lạnh thổi qua, tiếp tới là mưa ầm ẩm. Đại nhân ướt lướt thướt. Đi gấp một hồi, tiến vào thôn trang Tam Lý Bảo. Thấy một khung cửa bèn tiến thẳng vào, tay khua mõ vang hóa duyên, làm kinh động bà lão chừng hơn sáu chục tuổi bên trong đang ngồi khâu vá. Bà lão đang chăm chỉ làm việc, chợt thấy ngoài cửa vang lên tiếng mỏ, bèn lần xuống giường, mò theo bờ tường ra ngõ, mở cửa nhìn ra. Thì ra là một lão đạo sĩ đi hóa duyên, bèn nói:

- Đạo gia. Trước đây nhà tôi cũng là nhà quan khá giả, nay lâm vào cảnh bần hàn, không có gì để bố thí. Xin hãy tới nhà khác mà hóa duyên.

Luu đại nhân nói:

- Nữ bồ tát, bần đạo không xin tiền, xin ăn, chỉ xin một nắm củi khô hơ khô quần áo là tôi đi ngay.

Bà lão nói:

- Vậy có chi là khó. Xin đi theo tôi, hãy tới căn phòng phía Đông kia mà hơ.

Lưu công nghe vậy, lập tức đi theo. Bà lão đóng kín cổng lại Lưu công hỏi:

- Nữ bồ tát, tại sao phải đóng cổng?

Bà lão nói:

- Đạo gia không biết đấy thôi. Già này chỉ có một thằng con trai tên gọi là Bưu Nhi. Già sợ nó về nhà. Những lúc về nhà nó thường say túy lúy. Chỉ sợ nó thấy đạo gia, nếu nó nổi giận, tất sẽ đánh ngài.

Lưu công nói:

- Nếu vậy, tôi không hơ quần áo nữa. Con bà về, tôi sẽ bị thua thiệt mất.

Bà lão nói:

- Già này đã mời ngài vào hơ sưởi, ngài cứ vào, chớ ngại.

Con trai già phải mười lăm, hai mươi hôm mới về một lần. Lần này nó đi mới được hơn mười ngày, thiết nghĩ hôm nay cũng chưa về đâu.

Lưu công nghe vậy mới theo bà lão đi vào căn phòng phía Đông. Bà lão ôm tới một ôm củi khô, bảo đại nhân tự đốt lửa sưởi.

Khi quần áo của đại nhân hơ đã gần khô, chợt ngoài cổng vang lên tiếng gõ cửa. Bà lão nói:

- Không ổn! Bưu Nhi nhà tôi trở về rồi.

Lưu công nói:

- Vậy nghĩ làm sao đây?

Bà lão nói:

- Chớ ngại. Đạo gia cứ việc ở trong phòng này sưởi ấm, chớ gây ra tiếng động. Bưu Nhi nhà tôi về nhà đưa tiền, đưa gạo, thường để gạo, tiền tại căn phòng phía Bắc, không tới nơi nào khác. Nói năm ba điều rồi, ngay cả nhà cũng chẳng thèm quét, lại đi cờ bạc ngay.

Lưu công nghe vậy gật đầu, không nói năng gì, chỉ chăm chú sấy quần áo. Bà lão nói xong bước ra ngoài cửa, hỏi:

- Ai gọi cửa đó?

Bưu Tử Lưu Thanh nói:

- Đứa con bất hiếu về đưa gạo, tiền cho mẹ đây.

Bà lão nghe vậy, mở cổng. Bưu Tử Lưu Thanh lảo đảo bước vào. Bà lão thấy Bưu Nhi như vậy, ho khan một tiếng, nói:

- Khi cha còn sống, ông ta làm quan. Con vốn là công tử nhà quan, chỉ quen thói ăn chơi, không nên người, không ra gì cả chỉ biết tiêu tiền, nhà cửa, ruộng vườn bị con mang đi đánh bạc hết. Nay gia cảnh tiêu điều như vậy, ngày tháng thật khó sống!

Bưu Tử Lưu Thanh nghe vậy bực bội, nói:

- Mẹ à, chuyện qua rồi xin chớ nhắc tới nữa. Có hối cũng chỉ uổng công thôi. Mẹ không biết sao? Hoàng Đại Thư đối diện nhà ta kia, hai nhà quan hệ với nhau bao nhiêu năm, mua đồ trang sức, may sắm quần áo cho, lại cung cấp ăn mặc cho cả nhà họ nữa, đâu phải chỉ một mình con phá hết của! Đáng buồn là Hoàng Đại Thư, ả thấy con không có tiền nên đã gạt con ra. Ả lại theo Trương võ cử nhà ở cổng Tây qua lại với nhau, bàn kế hại chết Bồ Hiền. Nay quả nhiên đã hại chết Bồ Hiền. Nhắc lại quả thấy cái chết của hắn thật oan uổng. Mẹ xin chớ nhắc con. Con nhất thời sai lầm. Mẹ xem, rồi con sẽ dần dần đòi lại hết.

Bà lão ngăn hắn lại, nói:

- Chớ nói bọn họ hại Bồ Hiền, sợ người ngoài nghe được, sẽ không tiện.

Bưu Tử trợn hai mắt lên, nói:

- Mẹ à, không phải cản con. Ai nghe thấy con cũng không sợ. Làm con bực lên, con sẽ đi kêu oan thay Bồ Hiền đó. Phải cho hả cơn giận này, để xem tiểu Ái Ngọc nhìn con bằng con mắt như thế nào?

Lưu công trong gian phòng phía Đông đã nghe rõ cả, trong lòng nghĩ thầm:

- Chuyến đi này của bản bộ thực không uổng.

Trong lòng thầm vui mừng. Chợt lại nghe Bưu Tử hét lớn:

- Không ổn! Bên căn phòng phía Đông có lửa cháy.

Rồi vội vàng chạy qua. Thấy một lão đạo sĩ đang ngồi trong đó sấy quần áo, bất giác nổi giận nói:

- Giỏi cho lão đạo lỗ mũi trâu này. Dám lẻn vào nhà ta hả?

Rồi bưởi tới, nắm lấy cổ áo, giơ nắm đấm lên đòi đánh. Bà lão vội tiến lên ngăn hắn lại, quát lớn:

- Giỏi cho thằng tiểu oan gia này. Còn chưa chịu buông tay? Mẹ mày nay đã sáu mươi ba tuổi, lão đạo cũng đã năm sáu chục dư. Bởi lão đạo đi mưa bị ướt hết đạo bào, xin ta bó củi sấy cho khô. Ngươi trở về nhà nói càn nói dở. Nếu ngươi cho rằng mẹ mày làm phiền ngươi, chi bằng ta chết cho xong.

Nói xong, lao đầu vào tường. Bưu Nhi thấy vậy, nói:

- Không ổn!

Rồi vội lao tới ôm lấy mẹ, nói:

- Mẹ à, xin chớ giận dữ. Con đã sai rồi, hiểu lầm rồi. Mẹ còn lạ gì tính khí của con? Vừa ngang, vừa cục, vừa lỗ mãng là con vô lễ, xin mẹ tha cho. Con sẽ tới xin lỗi lão đạo ngay đây.

Bà lão nghe vậy nguôi giận. Bưu Tử xoay mình, đưa mắt nhìn Lưu công, chắp tay vái một vái, cười giả lả, nói:

- Đạo gia, xin chớ trách tôi. Lưu Thanh tôi ai mà chẳng biết. Là một kẻ gàn dở, hành sự lỗ mãng, chưa kịp tìm hiểu rõ ràng đã vội ra tay. Xin thứ cho tôi, mời đạo gia lên phòng Bắc uống vài chén, coi như là lời xin lỗi của tôi.

Lưu công nói:

- Ta không biết uống rượu!

Bưu Tử trợn mắt lên, nói:

- Tôi mời ông uống rượu, ông uống tức là bỏ qua cho tôi. ông không chịu bỏ qua cho tôi sao được?

Rồi đưa tay ra tóm lấy Lưu công, lôi về phía gian phòng phía Bắc. Bà lão nháy mắt ra hiệu, miệng nói:

- Đạo gia. Con già mời ngài xơi rượu là ý tốt của nó. Nếu ngài không chịu, thực khó cho già quá.

Lưu công nghĩ thầm: "Chi bằng nhân cơ hội này, hỏi dò chuyện của Bồ Hiền", liền nói:

- Vốn không quen biết, sao dám quấy rối.

Bưu Tử nói:

- Toàn là những lời khách sáo thừa.

Rồi cùng nhau lên căn phòng phía Bắc. Bưu Tử với tay, cầm lấy bình rượu, nói:

- Đạo gia, xin đợi cho một chút. Tam Lý Bảo đây không có rượu ngon, đợi tôi vào thành mua một bình.

Nói xong, xuống lầu đi thẳng.

Không biết chuyện sau này sẽ ra sao? Mời quý vị xem tiếp hồi sau.
 

hoahongden12

Active Member

Mộ vân tán tận dạ thanh hàn,

Ngân hán vô thanh chuyển ngọc hoàn.

Thư sinh thử dạ bất trường hảo,

Minh nguyệt minh niên hà xứ khan.

Dịch thơ:

Đêm lạnh mây chiều lãng đãng tan

Mờ mờ mâm ngọc chuyển sông Ngân

Đêm nay kiếp gặp không may lắm

Trăng sáng năm sau đâu chốn nhìn.

Lại nói chuyện Lưu công thấy tên ngang ngạnh này xách bầu đi vào thành mua rượu. Ông ngồi trên lầu Bắc đưa mắt nhìn tứ phía, thấy trước chiếc bàn làm bằng gỗ hồng vân vàng đối diện cửa có một chiếc bàn bát tiên bằng gỗ dẻ, có ba, bốn chiếc ghế gãy chân vứt lăn lóc. Bàn ghế bám bụi đầy, cũng chẳng có gì trang trí, trong lòng nghĩ thầm:

- Trước đây hắn là nhà khá giả, sau này mới suy vi.

Đang trầm ngâm quan sát, chợt thấy tiếng cầu thang kẽo kẹt. Lại thấy Bưu Tử lên lầu, tay phải xách xâu thịt, tay trái cầm bầu rượu, miệng kêu:

- Mẹ ơi, mau hâm nóng rượu giúp con. Rồi rút dao ra thái thịt thành từng miếng nhỏ, xếp lên đĩa, đặt lên chiếc bàn bát tiên. Lại có hai miếng đậu phụ đã được thái sẵn, xếp cùng một đĩa với mấy củ hành. Bà mẹ già hâm rượu xong, Bưu Tử mời Lưu công ngồi. Hai người cùng uống rượu. Bưu Tử Lưu Thanh nói:

- Đạo gia, tính tôi hâm hấp, nhất thời lỗ mãng, xin đạo gia chớ trách tôi. Nay xin dùng ly rượu này bồi đáp. Xin hỏi tôn danh, quý tính của đạo gia? Xin hỏi ngài ở đâu? Vì cớ gì phải xuất gia đi làm đạo sĩ?

Lưu công nghe hỏi, thuận miệng trả lời, nói:

- Ta họ Mão, tên gọi Kim Đao, cha ông sống tại phủ Thanh Châu - Sơn Đông, Bàng Gia Trang cách cổng Bắc thành huyện Chư Thành hai mươi lăm dặm. Từ nhỏ cha mẹ đã mất, không để lại gì thiếu ăn thiếu mặc, đành phải tới Bắc Kinh, cũng không sống nổi. Chẳng còn cách nào khác, đành phải vào Bạch Vân Am trong ngõ chợ Gạo xuống tóc đi tu. Nay phụng mạng thầy rời kinh thành hóa duyên, vô tình đi tới Cảnh Châu này. Nghe người ta nói, Lại bộ đại nhân phụng mệnh thiên tử xuống Sơn Đông thị sát. Hai người bọn tôi vừa là đồng hương, lại là anh em từ nhỏ đã kết nghĩa với nhau, muốn tới công quán xin ông ta chút của bố thí. Nghe nói ông ta qua đất Cảnh Châu chợt có gió xoáy chặn kiệu kêu oan, lại nhìn thấy một thiếu phụ mặc đồ trắng đi viếng mộ, trong lại mặc áo đỏ. Đại nhân hạ lệnh quật mộ khai quan khám nghiệm tử thi nhưng không tìm ra thương tích gì, trong lòng không vui. Tôi ngại không dám tới chỗ ông ta hóa duyên. âu cũng là vận tôi xấu, đành phải vào các làng quanh đây hóa duyên. Tới quý thôn đây thì gặp mưa, toàn thân ướt đẫm. May nhờ thí chủ mở lòng từ bi, cho tôi vào sấy đạo bào. Thí chủ trở về kể với mẹ chuyện Hoàng Ái Ngọc, trong lòng như có vẻ bất bình. Bần đạo cũng đang buồn, mong thí chủ tỉ mỉ kể lại đầu đuôi câu chuyện cho nghe cùng. Coi như ta cùng giải sầu mà thôi.

Bưu Tử Lưu Thanh nghe vậy, mặt lộ vẻ dương dương tự đắc, uống liền mấy ly rượu, nói:

- Đã hỏi tới chuyện này, tôi cũng không cần giấu đạo gia. Khi Hoàng Đại Thư còn sống bên nhà đối diện tôi đây, ả thường đứng ngoài cửa lả lơi tôi. Tôi vì ả mà tiêu hết không biết bao nhiêu tiền bạc, cộng thêm máu mê cờ bạc nên đã tiêu phá cả gia sản. Rồi Hoàng Đại Thư bị Bồ Hiền ở Bồ gia trang cưới đi. Từ đó trở đi, hai đứa bọn tôi không còn qua lại. Sau có lần tôi đi ngang qua Bồ Gia Loan, gặp Hoàng Đại Thư đứng ngoài cửa. Tôi tới gần, hỏi: "Nàng thấy ta chẳng chào, chẳng hỏi, sao lại làm bộ không quen biết ta như vậy?". Chẳng ngờ ả trở mặt, chửi cho tôi một trận. Tôi nóng tiết, định đánh cho ả một trận nhưng lại sợ người chung quanh chê cười, đành phải im hơi, nén giận, quay về đợi khi nào ả về nhà mẹ đẻ sẽ trút mối hận này. Tôi đi một mạch tới châu thành, gặp người anh kết nghĩa của tôi ở cổng Tây. Anh ta lôi tôi vào uống rượu, hỏi tôi: "Tại sao sắc thẹn hầm hầm? Phải chăng đang tức ai đó?". Tôi kể cho anh ta nghe câu chuyện của tôi với Hoàng Đại Thư khi nãy. Người anh kết nghĩa ấy nói: "Đệ không biết Hoàng Đại Thư ấy tằng tịu với võ cử Trương Bồi Nguyên ở bên cổng Tây hay sao? Trương võ cử là người nhiều tiền, thế lực lớn, bảo sao ả không trở mặt với đệ?" Tôi nghĩ thầm trong lòng: "Chẳng trách gì Hoàng Đại Thư chửi ta. Thì ra ả là loại có mới nới cũ". Hai đứa bọn tôi uống rượu xong, cáo từ, bỏ đi. Tôi tới thẳng Bồ Gia Loan. Lúc này trời cũng đã khuya, bốn bề im ắng vô cùng. Tôi tới nhà ả, đẩy cổng ngõ, cổng ngõ đã bị đóng kín. Tôi trèo tường vào, đứng trong sân, thấy trong phòng còn sáng đèn, lại có tiếng người nói chuyện vọng ra. Tôi liếm thủng giấy dán cửa, nhìn vào. Thì ra Hoàng Đại Thư đang cùng Trương võ cử uống rượu trong đó. Tôi vừa định xông vào trong, chợt thấy Hoàng Đại Thư đưa mắt nhìn Trương võ cử, nói thì thầm gì đó. Tôi vội dừng lại, lắng tai nghe. Hoàng Đại Thư nói: "Hai ta dùng cách ấy hại chết Xú quỷ Bồ Hiền, một là trừ được cái gai trong mắt thiếp, hai là chúng ta có thể làm vợ chồng mãi mãi! Thứ đó của chàng linh nghiệm không?". Võ cử nói: "Đã tìm được rồi, hiện đang trong ống trúc này". Tôi đứng ngoài cửa sổ nghe lén, không biết trong ống trúc ấy đang vật gì?. Chợt nghe thấy bên ngoài có người gõ cửa, hẳn là Bồ Hiền trở về. Trương võ cử vội chui xuống gầm bàn trốn, còn tôi trốn trong gian chứa củi. Hoàng Đại Thư ra mở cổng. Lúc ấy, Bồ Hiền đã uống rượu say như nhừ, từ bên ngoài lảo đảo vào phòng. Thấy trên bàn còn rượu, còn thức ăn, cũng chẳng hỏi những thứ ấy từ đâu mà có, nâng bầu rượu lên uống, uống một hơi cạn sạch, rồi nằm lên giường ngáy như kéo bể. Hoàng Đại Thư thấp giọng gọi Trương võ cử, tôi cũng lẻn ra ngoài xem trộm. Thấy Trương võ cử, Hoàng Đại Thư hai đứa dùng thừng trói Bồ Hiền thật chặt, nhét chăn bông vào miệng Bồ Hiền, lột quần của hắn xuống, lấy ra một chiếc ống trúc dài độ nửa thước, mở nắp ra. Thì trong đó có một con rắn dài. Chúng úp miệng ống trúc vào chương môn của Bồ Hiền, mở nốt đầu ống ở bên kia ra, dùng thanh que nóng chọc vào. con rắn. Con rắn bị nóng, vội chui vào lỗ đít của Bồ Hiền.

Mới nói tới đây, bà lão đã bước tới, ngăn lại, nói:

- Tiểu súc sinh, việc này chỉ một mình ngươi biết mà thôi. Người ta thường nói: "Thân ai nấy lo, việc ai nấy làm". Ngươi hãy cùng đạo gia uống rượu đi, nói năng lôi thôi chi vậy?

Bưu Tử Lưu Thanh nói:

- Chớ cản con. Buồn thật. Con quyết phải kêu oan thay Bồ Hiền.

Lưu công nói:

- Thí chủ. Nếu ngài muốn kêu oan thay Bồ Hiền, thế mới là bậc hảo hán. Lưu lại bộ tất sẽ không để ngài phải chịu cảnh đói nghèo. Nếu ngài chịu đi kiện, bần đạo sẽ đi cùng ngài.

Bưu Tử Lưu Thanh nói:

- Tôi sẽ đi kiện.

Lưu công nói:

- Vậy nhân lúc còn sớm, hai ta hãy đi ngay.

Lưu Thanh nói:

- Được lắm.

Hai người ra khỏi cổng, rời khỏi Tam Lý Bảo. Không lâu sau đã tiến vào cổng phía nam thành Cảnh Châu. Qua mấy khúc sẽ tới trước cửa công quán. Lưu Thanh ngẩng đầu nhìn lên, thấy trước cửa treo bốn chiếc đèn lồng bằng lụa ngũ sắc, trên tường vẽ cảnh "chỉ nhật cao thăng", dưới bức tranh đặt chín khẩu pháo. Bên trong có rất nhiều sai nha đầu đội mũ nhà quan đang đi lại. Bưu Tử Lưu Thanh đứng lại. Lưu công đi thẳng vào trong. Lưu Thanh gọi lớn:

- Đạo gia, ngài đi đâu vậy. Muốn kiện thì phải đứng bên ngoài mà kêu. Xông bừa vào trong sẽ rước lấy họa đó.

Luu công nói:

- Không ngại. Lưu Dung với ta là chỗ đồng hương, cứ việc vào thẳng bên trong kêu kiện. Không có tai họa gì đâu.

Bưu Tử Lưu Thanh nghe vậy, đành phải theo vào trong.

Đám công sai thấy vậy vội tiến lên, vây lấy họ. Lưu lại bộ xua tay, đám công sai lui lại cả ra sau, thủ tay đợi lệnh. Lưu công lên phòng trên. Lưu Thanh lên theo, thấy không có ai. Chỉ thấy hai người ăn mặc theo lối nhà quan tiến tới giúp đạo gia thay mũ, áo. Lưu Thanh sững người, trong lòng thầm kinh sợ, nghĩ: "Không ổn! Thì ra là đại nhân cải trang đi thăm dò tin tức. Khi nãy ở trong nhà, ta từng đắc tội với ông ấy. Nay quả ta đã gặp họa lớn rồi?". Nghĩ xong, vội vàng quỳ sụp xuống.

Lưu công mỉm cười, nói:

- Lưu Thanh, không cần phải quỳ. Ngươi hãy tạm đứng dậy đã.

Rồi sai ngươi hầu bày rượu lên. Trương Thành, Lưu An không dám chậm trễ. Chỉ trong chớp mắt đã bày xong một bàn rượu thịt.

Lưu công nói:

- Lưu Thanh ngươi hãy tạm ngồi xuống. Bản bộ đường sẽ cùng người uống vài chén. Tính khí của người thế nào, ta đây đã rõ cả. Ngươi phải uống liền ba chén mới được. Chớ nên câu thúc, cứ mạnh dạn mà uống. Ngày mai sẽ ra hiện trường khám nghiệm tử thi. Từ nay trở đi, mẹ con ngươi sẽ không phải chịu cảnh đói khổ nữa.

Lưu Thanh nói:

- Đại nhân xin hãy yên tâm. Nếu ngày mai đi khám nghiệm tử thi mà không tìm ra thương tích, tiểu nhân nguyện xin nhận tội

Đại nhân nghe vậy khẽ gật đầu.

Lại nói chuyện võ cử Trương Bồi Nguyên rời khỏi nơi khám nghiệm tử thi, trở về nhà, đứng ngồi không yên, nghĩ lại chuyện xảy ra khi nãy. Nếu không bỏ ra trăm lạng bạc ấy, để tìm ra thương tích, hậu quả thế nào, thực không thể tưởng tượng nổi.

Gia nhân đưa đèn tới. Trương võ cử dùng cơm xong, một lòng chỉ nghĩ tới chuyện đi thăm Hoàng Ái Ngọc, bèn rời khỏi nhà. Không lâu sau đi ngang qua cửa công quán, nhìn vào trong, nở nụ cười, nói:

- Vị nào trong đó vậy?

Trương Thành nói:

- Có chuyện gì vậy?

Trương võ cử nói:

- Ta tới thăm em họ là Hoàng Ái Ngọc, xin các vị lão giai tạo điều kiện cho.

Trương Thành hỏi:

- Anh tên họ là gì?

Trương võ cử nói:

- Tôi họ Trương, tên Bồi Nguyên.

Trương Thành nói:

- Tôi không dám tự quyết, phải bẩm với đại nhân đã. Ngày hãy đợi một lúc.

Rồi xoay mình đi lên nhà trên, bẩm rõ với đại nhân chuyện Trương võ cử muốn vào thăm Hoàng Ái Ngọc.

Lưu công nói:

- Nếu võ cử muốn vào thăm Hoàng thị, hãy cho hắn vào.

Các ngươi lui ra cửa sổ lén nghe xem hai người bọn họ nói chuyện gì với nhau. Nếu để lộ chuyện gì, hãy giữ Trương võ cửa lại không được thả đi.

Trương Thành ứng tiếng:

- Theo ta vào gặp em họ của ngài!

Trương võ cử nghe vậy, vội theo Trương Thành vào trong.

Qua mấy khúc rẽ, tới bên ngoài một gian phòng. Trương Thành nói:

- Vợ của họ Bồ là Hoàng thị ở trong căn phòng này. Ngài vào đi ta không thể đi theo. Ta còn phải xem đại nhân có sai bảo gì không.

Nói xong nghênh ngang bước trở ra.

Trương võ cử đẩy cửa, bước vào. Thấy Hoàng ái Ngọc đang ngồi buồn bên trong. Thấy võ cử, ả tức giận chửi mắng, nói:

- Giỏi cho tên vô lương tâm Trương Bồi Nguyên ngươi. Ngươi thấy chết mà không cứu. Ngày thường ngươi hay khoe có khả năng vượt tường, leo mái nhà. Nô gia gặp phải chuyện này, ngươi cũng chẳng thèm thò mặt vào trong hỏi thăm lấy một câu lại làm bộ giả câm, giả điếc, co đầu rụt cổ như con rùa đen, co đầu lại mặc kệ mọi chuyện muốn ra sao thì sao. Sau cơn mưa ngươi nói đem ô cho người ta, làm bộ làm tịch. Nghĩ cho cùng, gian phu không thể yêu ta bằng chồng của ta. Việc đã tới nước này, ta thực lấy làm hối hận!

Bất giác, hai hàng lệ nóng trào ra. Trương Bồi Nguyên nghe vậy tỏ vẻ không vui nói:

- Nàng không biết đấy thôi. Vừa gặp ta nàng đã lớn tiếng mắng chửi rồi. Ta vừa hay tin đã vội tìm viên khám nghiệm tử thi, dúi vào tay hắn một đỉnh bạc lớn, do đó, hắn mới không tìm ra thương tích. Ta tới đây thăm nàng, lại bị nàng chửi là kẻ vô tình, vô nghĩa. Con đàn bà này. Nghĩ lại khi xưa ngươi quan hệ với bảo chính Hạt Phiên Tam, sau do hắn nghèo, ngươi lại theo Bưu Tử Lưu Thanh. Lưu Thanh trắng tay, dăm bữa nửa tháng không gặp mặt nhau lấy một lần, ngươi ăn không được ngon, mặc không được đẹp, lại nhờ bảo chính Phiên Tam tới chỗ ta vay tám chục xâu tiền, sau này cả gốc lẫn lãi đều không trả. Ta tìm tới nhà ngươi đòi tiền, ngươi lôi ta vào phòng của ngươi. Từ đó, hai ta mới quan hệ với nhau. Tám chục xâu tiền cả gốc lẫn lãi từ đó ta không đòi nữa! Ta liên tục cung cấp củi, gạo, lại may cho ngươi bao nhiêu quần áo bằng lĩnh, bằng sa, lại mua cả đồ trang sức cho ngươi. Ngươi có biết ta đã phải tốn bao nhiêu tiền không? Suốt ngày từ sáng đến tối ngươi than vãn thằng chồng xấu xí, như gai trong mắt, ngươi một lòng muốn hại chết chồng mình. Giờ lại oán trách ta là sao?

Hắn nói một thôi, một hồi, khiến Ái Ngọc không thể mở miệng nổi.

Lưu lại bộ ở bên ngoài cửa sổ nghe thấy hết, dặn dò:

- Nha dịch, công sai mau vào bắt lấy Trương võ cử, chớ để hắn chạy thoát.

Nói xong, trở về phòng trên.

Đám nha dịch xông vào phòng, gông võ cử lại.

Trương Bồi Nguyên nói:

- Tại sao lại gông tôi?

Đám nha dịch nói:

- Đại nhân dặn vậy, bọn ta không biết? Sáng mai gặp đại nhân sẽ rõ cả thôi.

Sáng hôm sau, châu quan tới công quán đợi lệnh. Lưu lại bộ rửa mặt, dùng bữa sáng xong xuôi, dặn dò chuẩn bị kiệu ra hiện trường khám nghiệm tử thi. Chấp sự, nha dịch, người khám nghiệm tử thi đều đã đợi sẵn ở ngoài cổng công quán, hầu đại nhân lên kiệu, sau đó kéo nhau rời khỏi thành Cảnh Châu theo lối cửa Bắc. Không lâu sau đã tới hiện trường. Đại nhân xuống kiệu, ngồi lên ghế tựa, dặn dò, nói:

- Giải Hoàng thị, Trương Bồi Nguyên ra đây, bản đường có chuyện muốn hỏi họ.

Cặp cẩu nam nữ nghe vậy, vội tiến ra, quỳ xuống. Lưu công hỏi:

- Các ngươi mau mau khai rõ vụ mưu hại Bồ Hiền ra sao. Chớ để bản bộ phải phí công khai quan khám nghiệm lại tử thi. Mau khai ra, hai người sẽ tránh được đau khổ thể xác.

Hoàng Ái Ngọc nghe hỏi, mày liễu dựng lên, mắt phượng trợn tròn, đưa tay chỉ Lưu lại bộ, hả họng chửi bới:

- Lưu gù, ngươi thực hồ đồ. Thực đáng tiếc cho chức Lại bộ thượng thư lại giao cho ngươi làm. Chồng ta rõ ràng bị bệnh mà chết, ngươi nhất quyết cho là chết không minh bạch. Kiểm nghiệm hai lần rồi, vẫn không tìm ra thương tích. Nay ta thề quyết không đội trời chung với ngươi.

Trương Bồi Nguyên nói:

- Ta tới công quán thăm em họ ta, ngươi lại dám đóng gông lên mình cử nhân của nhà nước. Ta vô cớ bị ngươi làm nhục. Hai ta phải lên kinh diện kiến thánh thượng một chuyến mới được. Để rồi xem ai phải, ai quấy.

Lưu công mỉm cười, nói:

- Giỏi cho đôi lẻo mép, gian trá các ngươi. Ta phải đưa ra bằng chứng cụ thể mới khiến hai ngươi tâm phục, khẩu phục.

Rồi quay sang gọi:

- Lưu Thanh!

Chợt thấy Bưu Tử Lưu Thanh tiến ra, quỳ xuống, nói:

- Bẩm đại nhân! Có tiểu nhân Lưu Thanh xin hầu.

Lưu công hỏi:

- Hai đứa chúng mưu hại Bồ Hiền, ngươi có biết không?

Ngươi có thể đối chứng với hai đứa chúng không?

Lưu Thanh nghe hỏi, quay lại, kêu lớn:

- Hoàng Đại Thư, Trương Bồi Nguyên. Việc hai ngươi làm, chớ nên già mồm cãi quan nữa. Đại nhân đã biết cả rồi. Nếu các ngươi không chịu khai nhận, chỉ e tự chuốc khổ vào thân.

Hoàng ái Ngọc, Trương Bồi Nguyên nhìn thấy Bưu Tử Lưu Thanh, trong lòng chợt nảy cơn giận dữ.

Không biết hai đứa chúng ăn nói ra sao. Mời quý vị xem tiếp hồi sau.
 

hoahongden12

Active Member

Tuần hoàn báo ứng bất phi khinh,

Khuyến quân hành thiện mạc hành hung.

Minh công bất tín thế thượng khán,

Vương pháp nan dĩ tương nhân dung.

Dịch thơ:

Tuần hoàn báo ứng đúng không sai

Khuyên bác làm lành bỏ ác ngay

Bác chẳng tin trên đời khắc thấy

Phép vua khó gượng nhẹ cho ai.

Lại nói chuyện Hoàng ái Ngọc nghe nói vậy, biết Bán Bưu Tử Lưu Thanh sẽ ra làm chứng. Bất giác, ả đảo vòng mắt một vòng, nói:

- Lưu Thanh, cái tính ngang ngạnh, gàn dở của ngươi lại nổi lên rồi hẳn? Ngươi thì làm nhân chứng gì? Phải rồi. Trước đây có hôm đứng trước nhà mẹ đẻ ta, người định ra sàm sỡ với ta, bị ta chửi cho một trận. Ngươi ôm hận trong lòng, nay muốn mượn việc quan báo thù riêng phải không? Bà ngươi đây không sợ đâu. Ta không làm việc gì trái với lương tâm cả.

Lưu Thanh nói:

- Hoàng Đại Thư, ngươi chớ có già mồm nỏ họng nữa. Việc hai ngươi làm ta đều nhìn thấy tận mắt. Mấy hôm trước, ta bị mi chửi cho một trận, ta ôm hận trong lòng, đó là chuyện có thực. Ta đợi tới khoảng canh một lại tới Bồ Gia Loan, thấy cổng ngõ nhà mi đã đóng kín, ta bèn vượt tường vào trong. Thấy trong phòng còn sáng đèn, lại vẳng ra tiếng nam nữ nói chuyện với nhau. Ta tới gần nghe lén. Thì ra các người đang bàn kế hại Bồ Hiền. Ta dùng lưỡi thấm lủng giấy dán cửa, ghé mắt nhìn vào, thấy gã đàn ông chính là Trương võ cử. Hai đứa các ngươi ngồi uống rượu, bàn kế hại chồng. Đang bàn bạc với nhau, chợt thấy Bồ Hiền gọi cổng. Trương Bồi Nguyên vội trốn xuống gầm bàn, còn ta liền nấp vào nhà chứa củi. Ngươi ra mở cổng ngõ. Bồ Hiền từ bên ngoài say nhữ say nhừ bước vào phòng. Ngươi lại đổ cho hắn uống hết một bình rượu nữa, khiến hắn say mềm, thân nhão ra như cọng bún thiu, nằm vật trên giường, bất tỉnh nhân sự. Tới lúc ấy, ngươi cùng Trương Bồi Nguyên, hai đứa dùng dây thừng trói chặt Bồ Hiền lại, nhét chăn bông vào miệng hắn rồi lấy ra một ống trúc, một đầu ghé vào lỗ đít hắn, dùng que nóng lùa vào đầu kia ống trúc. Trong ống có một con rắn lớn. Con rắn bị nóng, chịu không được nên đã chui vào trong lỗ đít. Bảo sao Bồ Hiền chẳng chết. Ta đứng ngoài cửa sổ đã thấy rất rõ. Giờ ngươi còn dám buông lời điêu ngoa dối gạt đại nhân nữa hay sao? Ngươi thử nghĩ xem, ta nói đúng hay sai? Nếu hai ngươi còn chưa tin, mở quan tài khám nghiệm lại tử thi sẽ rõ.

Hoàng Ái Ngọc, Trương Bồi Nguyên hai đứa nghe Lưu Thanh nói vậy, sợ đến nỗi xanh như chàm đổ, ngậm kín miệng, không nói năng gì.

Chợt thấy Lưu lại bộ dặn dò:

- Lưu Thanh, hãy đi mổ bụng nạn nhân ra kiểm tra.

Lưu Thanh tuân lệnh, tay cầm một con dao nhọn, mở nắp quan tài ra, rạch một đường trên bụng tử thi, moi con rắn ra, mang tới trước mặt Lưu đại nhân, quỳ một gối, hai tay nâng cao con rắn, nói:

- Mời đại nhân khám nghiệm.

Lưu công thấy con rắn đã chết ngạt trong bụng nạn nhân, bất giác nổi trận lôi đình, cho lôi Hoàng Ái Ngọc, Trương Bồi Nguyên lên, hỏi:

- Hai đứa các ngươi còn gì để nói nữa không? Không mau mà khai ra!

Hai đứa đành phải ký tên vào tờ khẩu cung. Lưu công dặn dò, nói:

- Gông hai đứa chúng lại, tống vào ngục.

Đám nha dịch, thuộc hạ không dám chậm trễ, lập tức gông Hoàng Ái Ngọc và Trương Bồi Nguyên lại. Lại xử tội tên giám nghiệm tử thi, tội ăn tham của đút, dối gạt quan trên, đày ra Hắc Long Giang làm tù khổ sai mười năm. Bảo chính Phiên Tam biết chuyện không chịu báo quan, nhận hối lộ tám mươi xâu tiền, phạt đánh bốn mươi trượng đày ra ngoài ngàn dặm. Còn lại giao cho tri châu xử lý. Tri châu xử phạt một nửa cơ nghiệp của Trương Bồi Nguyên chia cho Lưu Thanh, không cho quấy nhiễu. Tri châu nhận lời. Lưu Thanh tạ ơn, đi nhận gia sản. Lưu lại bộ lại sai nha dịch chôn quan tài xuống.

Đám nha dịch ứng tiếng, đậy nắp quan tài lên, nạo vét hết đất dưới huyệt, thấy đất rất mềm, chỉ một lúc sau đã đào sâu thêm già nữa xích. Không ngờ lại lòi ra thi thể của một đôi nam nữ. Nha dịch không dám giấu giếm, vội bẩm với đại nhân, nói:

- Dưới huyệt có vùi thi thể một đôi nam nữ, mong đại nhân định đoạt.

Lưu lại bộ nghe báo, vội tới bên miệng huyệt quan sát.

Thấy thi thể nam nhân độ mười ba, mười bốn, thi thể nữ nhân chỉ độ hơn mười tuổi, trên cổ đều có vết thương. Khám nghiệm xong, đại nhân quay sang dặn dò Lưu An, Trương Thành:

- Đi hỏi dân chúng quanh đây có ai biết hai đứa trẻ này không?

Còn chưa dứt lời, chợt nghe tiếng khóc con vọng tới vô cùng thảm thiết. Lưu công dặn dò:

- Dẫn người khóc lại đây cho ta hỏi chuyện!

Lưu An, Trương Thành dẫn người khóc con tới trước mặt đại nhân, bảo quỳ xuống. Lưu công hỏi:

- Nhà ngươi nhà ở đâu? Tên họ là gì? Bao nhiêu tuổi? Hai đứa trẻ bị chôn ở dưới là gì của ngươi? Mau khai rõ cho ta nghe.

Người ấy nói:

- Bẩm đại nhân, nhà của tiểu nhân ở Tô gia trang. Tiểu nhân tên gọi Tô Vĩnh Phú, năm nay ba mươi lăm tuổi, sinh được hai đứa con gái, một đứa con trai. Đứa con gái lớn gọi Tô Cát Bình, năm nay mười sáu tuổi. Đứa con gái nhỏ năm nay mười ba tuổi, tên gọi Tô Ngọc Bình. Đứa con trai nhỏ năm nay mười một tuổi, tên gọi Tô Sinh. Ba chị em chúng hôm qua đi chơi, đến nay vẫn chưa thấy về nhà. Hôm nay tiểu nhân đã đi khắp nơi tìm kiếm, qua đây gặp đúng lúc đại nhân xử án, lại thấy đào huyệt lên có hai xác người. Tiểu nhân tới xem, thấy đúng là xác đứa con gái nhỏ Ngọc Bình và thằng con trai út là Tô Sinh nhưng không thấy đứa con gái lớn Cát Bình đâu. Thực đáng thương cho tiểu nhân chỉ có mỗi đứa con trai này, nay lại bị người ta hại chết. Khẩn cầu Thanh Thiên đại nhân đứng ra phân xử, tìm bắt hung thủ, giúp tiểu nhân rửa sạch mối hận này.

Nói xong, dập đầu lạy như giã gạo. Lưu lại bộ nói:

- Ngươi hãy tạm mang xác về nhà. Bản bộ đường sẽ đứng ra phân xử cho ngươi.

Vĩnh Phú nhận xác của con, mang về nhà.

Lại bộ đại nhân lên kiệu trở về công quán Cảnh Châu. Dùng bữa sáng xong, ông lại cải trang thành đạo sĩ vân du, khoác trên vai chiếc tay nải nhỏ màu vàng, trong đó có cuốn Bách Trung kinh cùng cuốn bói toán và giấy, mực, nghiên, bút. Tay cầm hai miếng phách tre, lén rời công quán theo lối cửa sau, theo đường lớn rời khỏi châu thành, muốn vào làng tra xét vụ án này. Đi một hồi tới vùng ngoại ô, nhìn thấy trước mặt có một con cóc to bằng cái mâm đứng chắn đường đi. Lưu đại nhân trong lòng không vui, nghĩ thầm: "Trên đời này sao lại có con cóc nào to đến vậy? Hẳn phải có uẩn khúc chi đây?". Bèn cất giọng hỏi:

- Cóc ngươi cản đường ta, tất phải có điều chi oan khuất. Nếu thực sự bị oan, hãy đứng trước mặt bản đường kêu to ba tiếng. Bản bộ đường sẽ chấp nhận lời kêu oan của ngươi, đi theo ngươi.

Con cóc này cũng thực lạ. Nghe đại nhân nói vậy, nó lập tức quay mặt lại phía ngoài, kêu lên ba tiếng "ộp, ộp, ộp" thực lớn, rồi tưng tưng nhảy về phía Đông. Lưu công thấy vậy, gật đầu đi theo sau. Đi được hơn mười dặm, thấy trước mặt có con sông cản lối. Lại thấy con cóc nhảy tõm xuống sông. Lưu công sững sờ, nghĩ thầm: "Không ổn, ta không thể xuống sông theo ngươi được".

Còn đang do dự, chợt thấy dưới hạ lưu có một chiếc thuyền nhỏ đang ngược dòng tiến lên. Trên thuyền có hai người, đại nhân bèn gọi lớn:

- Nhà thuyền, hãy qua bờ bên này, cho tôi qua sông, tôi sẽ trả tiền công.

Hai người trên thuyền kia vốn là hai anh em, người anh tên là Hoàng Lục, người em tên là Hoàng Hùng, bơi thuyền dưới sông kiếm ăn. Chúng thường chở khách buôn ra tới giữa dòng rồi trói khách lại, vứt xuống sông, sau đó cướp đoạt tiền bạc của khách. Chúng dựa vào chùa An Quốc bên bờ Nam, trong đó có thế thân của Nhị Vương Gia là lạt ma A A Di. Tên lạt ma này luôn làm chuyện bất chính, cướp đoạt dân nữ, dưới tay có năm trăm hung tăng thủ hạ. Hoàng Lục, Hoàng Hùng làm ăn phi pháp dưới sông, có được thứ đồ quý gì cũng phải đem qua cung phụng cho lạt ma A A Di.

Hôm nay, chúng đang trên đường về nhà, chợt thấy bên bờ Tây có một đạo sĩ vân du gọi thuyền qua sông. Hoàng Hùng nói:

- Anh à. Anh nhìn lão đạo sĩ đang gọi thuyền trên bờ sông kia, thực giống lão Lưu gù xử vụ Hoàng Ái Ngọc. Nay lại cải trang theo lối lão đạo, không biết định tra xét vụ nào? Không biết có phải vụ ta bắt ả Cát Bình con nhà họ Tô bị người ta tố cáo hay không. Lão ta hay tin liền tới đây tra xét. Sao ta không cập thuyền vào, cho hắn lên, ra tới giữa dòng kết thúc sinh mạng của lão đi cho tuyệt hậu hoạn.

Hoàng Lục nói:

- Có lý

Rồi cập thuyền vào bờ, bắc cầu ván lên, miệng hô vang:

- Đạo gia, mời lên thuyền.

Lưu công lập tức lên thuyền. Hoàng Hùng rút ván lên, với tay lấy cây mái chèo, chèo thuyền đi. Ra tới giữa dòng, hắn dừng tay chèo, hỏi:

- Có phải ông là Lưu gù, cải trang thành đạo sĩ đi điều tra vụ nhà họ Tô bị mất con gái hay không? Hôm nay ta phải cho ông chết một cách rõ ràng mới được. Vụ đó là do anh em ta làm. Ta tên Hoàng Hùng, còn đây là anh trai ta, tên Hoàng Lục.

Nói xong, tóm lấy Lưu đại nhân. Lưu công vội kêu lên:

- Thí chủ, chớ nên nhận lầm ngươi. Bần đạo là kẻ đi khắp nơi xem tướng giúp người, đâu biết Lưu gù là ai!

Hai tên hung đồ để mặc đại nhân gào tới rách cả miệng, chúng chỉ coi đó là gió thoảng qua tai, lập tức trói nghiến đại nhân lại ném tõm xuống sông. Chỉ thấy "tõm" một tiếng, đại nhân đã chìm lĩm dưới làn nước.

Mệnh của đại nhân vẫn chưa tuyệt. Đột nhiên thấy một trận cuồng phong nổi lên, con cóc cõng đại nhân nhảy vọt lên bờ. Lưu đại nhân nghỉ ngơi chừng một khắc, mở mắt ra nhìn, thấy dây trói đã được cởi ra, tay nải cũng không mất, bèn quay sang nói với con cóc:

- Lại vẫn cần ngươi đi trước dẫn đường.

Chỉ thấy con cóc tưng tưng nhảy về hướng Đông. Lưu công khoác tay nải lên, đi theo phía sau. Không bao lâu đã thấy một thôn trang hiện ra trước mặt, con cóc đột nhiên biến mất, tìm đâu cũng không thấy. Chỉ thấy trên mặt đất có một tấm thiếp, bèn cuối mình nhặt lên, thấy trên đó có viết bốn câu thơ rằng:

Ngã bản Thái Bạch Lý tinh quân,

Dẫn lĩnh tiền thôn phỏng Cát Bình.

Phùng hung hóa cát hưu cụ kiếp,

Tự nhiên hiện xuất sự chân tình.

Dịch thơ:

Ta là Thái Bạch Lý tinh quân,

Thôn trước kia đi hỏi Cát Bình

Gặp nạn hóa lành đừng sợ hãi,

Sự tình ắt bỗng hiện rành rành.

Lưu công xem xong, biết Thái Bạch tinh quân cứu mạng mình, vội ngửa mặt lên trời bái vọng. Hành lễ xong lại tiếp tục đi tới tòa thôn trang trước mặt. Không lâu sau đã tiến vào thôn, tay đến gõ phách, miệng hô vang.

- Tính Linh Phong, giảng Tử Bình, coi số mạng, xem cầu tài cầu lộc hôn nhân không? Biết xem tướng, coi gia trạch, tìm long huyệt, an gia trấn trạch không?

Đang rao chợt thấy một nhà bên đường có tiếng mở cửa, xuất hiện một cô gái chừng mười sáu, mươi bảy tuổi. Chỉ thấy cô ta ấn đường hiện sắc đen, sắc mặt vàng võ, tóc mây xõa bù, mặt buồn rười rượi, miệng gọi:

- Ông thầy bói, mời tới đây.

Lưu công nghe gọi vội bước tới, hỏi:

- Vị cô nương này muốn xem bói hay xem hộ ai khác?

Cô gái nói:

- Mời ông theo tôi vào sân, xem cho bà mẹ chồng tôi một quẻ.

Lưu công trong lòng không vui, nghĩ thầm: "Cô gái này miệng còn hôi sữa, tại sao đã có mẹ chồng? Ta phải vào trong tìm hiểu cho rõ". Cô gái dẫn đường, Lưu công theo sau. Chỉ thấy nhà này rất rộng, có tượng thú xếp dọc đường đi, trên tường vẽ hình Phúc, Lộc, Thọ, đường đi lát gạch, trước cửa phòng có bức rèm hột. Qua khỏi bức rèm, tới phòng khách. Đại nhân chợt sinh nghi, đoán chủ nhân căn nhà nhỏ này hẳn phải là người giàu có. Tại sao trong nhà lại vắng tanh vắng ngắt không một bóng người như vậy?

Thì ra đây chính là nhà của một viên quan tên gọi Vương Bách Vạn. Vương Bách Vạn không có con trai, chỉ có một người con gái. Vào dịp Thanh Minh, hai cha con đi lễ mộ, bị ác bá Linh Lâm nhìn thấy, cướp mất người con gái. Vương Bách Vạn nổi giận, vội xông tới đòi đổi mạng với Linh Lâm, cào Linh Lâm bị thương ở mặt. Linh Lâm nổi giận, giết cả hai cha con Vương Bách Vạn, lại thống lĩnh lũ gia nô tới lấy sạch của cải trong nhà họ Vương. Đám gia nô, làm thuê trong nhà Vương Bách Vạn không ai dám trêu vào hắn nên cũng bỏ đi cả. Linh Lâm lại sai Hoàng Lục, Hoàng Hùng vào ở trong nhà này. Hoàng Lục, Hoàng Hùng lại bắt Cát Bình về đây, giấu trong nhà này.

Lại nói chuyện Lưu công tới căn lầu phía Bắc, hỏi:

- Mẹ chồng ngươi giờ ở đâu? Mau mời ra đây ta còn đoán mệnh. cô gái chưa kịp nói gì, hai hàng nước mắt đã trào ra, quỳ sụp xuống trước mặt Lưu công, khóc nói:

- Đạo gia, ông là người tuổi cao đức trọng, lấy từ bi làm gốc, coi thiện niệm là nhà. Nô tì thấy ngài không có ý xấu nên xin được nói thực với ngài. Mong ngài giúp tiểu nữ đưa cho cha mẹ tiểu nữ một bức thư, tiểu nữ xin đội ơn ông. Chỉ xin ông tuyệt đối không để lộ chuyện này ra.

Lưu công hỏi:

- Ngươi có nỗi oan gì hãy mau nói ra, bản bộ đường sẽ giúp ngươi giải quyết.

Cô gái nghe vậy, sững người, hỏi:

- Đạo gia, tại sao ông lại xưng là bản bộ đường? Chẳng lẽ ngài là một vị quan đi thị sát dân tình sao? Nếu thực sự ngài đi thị sát dân tình, nạn nữ hôm nay có thể nhìn thấy mặt trời rồi.

Lưu công nói:

- Cô gái đã nhận ra bản bộ đường, bản bộ đường cũng chẳng giấu cô làm gì. Bản bộ đường chính là Lại bộ thượng thư Lưu Dung, tự Thách Am. Bởi Tô Vĩnh Phúc lên kiện trước bản bộ đường, bản bộ đường tiếp nhận đơn kiện của hắn, nay lén rời khỏi công quán, cải trang thành vân du đạo nhân tới đây. Thực ra chỉ vì muốn dò tìm con gái lớn của Tô Vĩnh Phúc. Cô gái có nỗi oan ức gì phải nhờ ta đưa tin cho cha mẹ? Người cứ nói ra, ta sẽ đưa thư giúp cô.

Cô gái nghe xong, vô cùng mừng rỡ, nói:

- Nạn nữ chính là Tô Cát Bình, bị ác đồ Hoàng Lục, Hoàng Hùng bắt về đây. Chúng đã giết chết em trai, em gái của tiểu nô. Hai tên hung thần muốn ép nạn nữ phải làm vợ chúng, nạn nữ không chịu. Suốt ngày nạn nữ như ngồi trên bàn chông, chỉ mong đại nhân nhanh chóng cứu nạn nữ ra khỏi cảnh nồi lửa vạc dầu này. Nạn nữ xin cảm ơn đức tái sinh của đại nhân.

Nạn nữ đang nói chuyện với Lưu công, chợt bên ngoài có tiếng gõ cửa vọng vào, kêu lớn:

- A đầu, mau ra mở cửa. Đại gia, nhị gia của người đã về rồi.

Tô Cát Bình giật mình, nói:

- Đại nhân, không xong rồi. Hai tên hung đồ đã trở về?

Lưu công nghe vậy, sững người, nói:

- Phải làm sao đây.

Chỉ thấy Tô Cát Bình ngó quanh, chẳng nghĩ ra được cách nào. Chợt thấy trên tường có một cái khe. Nạn nữ vội nói:

Đại nhân, cầu xin ngài chịu khuất một chút, chui vào khe hở này, nạn nữ sẽ dùng đồ vật đậy lên, chớ để hung đồ nhìn thấy kẻo mang họa.

Xong xuôi, Tô Cát Bình mới đi ra ngoài mở cửa, miễn cưỡng nở nụ cười, nói:

- Nhị vị lão gia đã về. Thiếp ra đón chậm, xin rộng lượng cho.

Hai tên hung đồ nghe nàng nói vậy, trong lòng mừng rỡ.

Không biết câu chuyện sau này ra sao, mời quý vị xem tiếp hồi sau.
 

hoahongden12

Active Member

Liên lý chi đầu hoa chính khai,

Đố hoa phong vũ tiện tương thôi

Nguyện giáo thanh đế thường vi chủ;

Mạc di phân phân điểm thúy đài.

Dịch thơ:

Hoa nở đầu cành liền thắm tươi

Bởi trời mưa gió ghét hoa cười

Chúa xuân xin để luôn làm chủ

Cánh khỏi nền rêu lả tả rơi.

Lại nói chuyện Hoàng Lục, Hoàng Hùng nghe Tô Cát Bình nói vậy, trong lòng vô cùng vui mừng, kéo nhau tới gian lầu phía bắc, ngồi xuống. Tô Cát Bình hỏi:

- Hai vị đại gia dùng cơm gì? Tiểu nô còn đi nấu.

Hoàng Lục nói:

- Ta muốn ăn bánh bao. Nàng mau đi hấp, anh em ta ăn xong còn có việc gấp phải đi làm.

Tô Cát Bình hỏi:

- Không biết hai vị đại gia có việc gấp gì?

Hoàng Hùng nói:

- Chỉ vì có tên Lưu gù giả trang thành lão đạo sĩ già đi thăm dò tin tức, bị anh em ta trói lại vứt xuống sông. Không biết lão ta được ai cứu lên. Dây trói hắn vứt bừa trên bờ sông. Do đó, anh em ta ăn xong sẽ phải đi tìm Lưu gù ngay. Phải cho hắn một đao chết đi, anh em ta mới được yên lòng. Nàng mau đi hấp bánh bao thôi.

Lưu đại nhân nấp trong khe hở, nghĩ thầm:.

- Không ổn. Nếu hai tên này đòi ăn bánh bao, tất phải dùng đến vĩ hấp. Một khi vĩ hấp lấy ra, bọn chúng sẽ nhìn thấy ta mất. Tới lúc ấy, chắc chắn ta sẽ chết mất.

Bất giác, trong lòng run sợ. Tô Cát Bình nghe hai tên ác đồ đòi ăn bánh bao, tất phải dùng tới vĩ hấp, chợt nảy ra một kế, lén dùng nước tưới ướt hết củi, rồi bỏ củi vào lò, đốt lửa lên. Chỉ trong phút chốc, cả căn phòng mù mịt khói. Hai tên hung đồ tức giận nói:

- Tại sao lại dùng củi ướt nhóm lò? Định hun đại gia, nhị gia hả?

Tô Cát Bình nói:

- Không phải, tại củi ướt. Có lẽ tại ống khói bị tắc. Cần phải thông ống khói, khói mới được hút lên.

Hai tên hung đồ nghe vậy, một đứa trèo lên mái nhà thông ống khói, một đứa chạy sang căn lều phía đông tránh khói.

Tô Cát Bình thấy hai tên hung đồ đều đã đi cả, vội lật chiếc vĩ hấp ra, nói:

- Đại nhân, mau mau rời khỏi vùng đất hung hiểm này. Có thể vòng ra sau gian lầu phía bắc, đi về hướng tây. Dưới chân bức tường phía tây có một con thuyền nhỏ. Ngài hãy trèo lên chiếc thuyền nhỏ ấy mà vượt tường đi ra, mau mau trở về công quán, điều quân tới vây kín nhà họ Vương này, bắt lấy hai tên hung đồ, cứu nạn nữ ra khỏi cảnh dầu sôi lửa bỏng. Nạn nữ xin đội ân đức của đại nhân.

Lưu công nghe vậy, vội vã vòng ra sau lầu phía bắc, bỏ đi. Tới chân bức tường phía tây, quả thấy một chiếc thuyền nhỏ cũ nát vứt ở đó. Đại nhân vội dẫm lên chiếc thuyền nhỏ, leo lên bờ tường nhìn ra, thấy bức tường cao hơn một trượng, khó lòng trèo xuống được. Lại sợ hai tên hung đồ nhìn thấy. Còn đang khó xử, chợt thấy trên lầu có tiếng quát vang:

- Lão đạo tới bắt chúng ta đang ở trên bức tường phía tây kia. Mau lấy đao ra chém cho lão một nhát.

Đại nhân nghe vậy, giật mình, ngã lăn xuống khỏi bức tường. May sao bên ngoài có một đống củi nên đại nhân ngã không nặng lắm. Vội vàng chui vào đám cỏ rậm rạp bên cạnh.

Hoàng Lục, Hoàng Hùng xách đao chạy ra tới bên ngoài bức tường phía tây, không thấy bóng dáng lão đạo sĩ đâu, Hoàng Hùng nói:

- Có lẽ lão đạo sĩ đã trốn vào trong đám cỏ rậm này.

Hoàng Lục nói:

- Lão đã tự đâm đầu vào lưới. Chạy sao nổi! Chúng ta hãy vào nhà ăn cơm. Ăn xong, ra giết lão cũng không muộn. Dù lão mọc cánh cũng khó lòng bay lên được.

Lại nói chuyện Lưu đại nhân chui vào đống cỏ rậm rạp, nghe hai tên ác đồ ở bên ngoài nói vậy, lúc này mới lóp ngóp bò ra, thấy trời đã quá ngọ, bụng đói cồn cào, vẫn phải cắm đầu lần theo con đường nhỏ bỏ chạy. Xa xa, thấp thoáng bóng một thôn làng. Trong lòng nghĩ thầm: "Chi bằng ta tới thôn kia, một là xin bữa cơm chay lót dạ, hai là hỏi đường về Cảnh Châu luôn".

Thôn trang Lưu đại nhân nhìn thấy chính là Ngọa Hổ trang. Trong thôn có hai anh em: Người anh là Vương Trung, người em là Vương Bình. Cả hai đều hành hiệp trượng nghĩa, ưa can thiệp chuyện bất bình. Vương Trung lấy vợ là Phùng thị, sinh được một trai, một gái, nhưng không nuôi nổi. Nay lại sinh ra một đứa con trai, mới tám tháng tuổi. Hôm ấy, Vương Trung, Vương Bình đi chợ chưa về, trời đã quá ngọ, Phùng thị lo anh em họ về sẽ dùng cơm, bèn cho con bú no, đặt nằm trên giường, đắp chăn cẩn thận rồi mới xuống bếp nấu cơm. Cơm vừa nấu chín, chợt nghe ngoài cửa có tiếng mõ hóa duyên. Phùng thị ra cửa nhìn, thì ra là một lão đạo sĩ già đang đi khất thực, bèn nói:

- Đạo sĩ, xin hãy tới nhà khác hóa duyên. Nhà tôi đây không được thanh tịnh.

Lưu công nghe vậy, chợt nảy ra một kế, nói:

- Nữ bồ tán Hóa duyên chỉ là chuyện nhỏ. Bần đạo thấy chủ nhà có điềm hung, khổ sở chỉ là chuyện nhỏ, không có con trai mới là chuyện lớn. Sinh được con trai, chỉ nuôi được dăm ba năm là nó lại về trời.

Phùng thị nghe vậy giật mình, nghĩ thầm: "Sinh con trai ra không nuôi được. Thì ra do chủ nhà gặp vận hung". Bèn nói:

- Đạo gia, ngài là người pháp thuật cao minh. Mời vào trong giúp tôi xem gia trạch. Nếu ngài giúp chúng tôi chỉnh lại nhà cửa cho thuận lợi cát tường, đợi chồng tôi về, anh ấy tất sẽ hậu tạ. Nếu đạo gia thấy đói, trong nồi đây cơm cũng đã chín. Mời ngài lót dạ trước.

Lưu công nghe vậy, trong lòng mừng rỡ, vội theo Phùng thị vào trong nhà, ngồi xuống. Phùng thị xới cơm mời Lưu công. Chợt thấy Vương Trung, Vương Bình đi chợ đã về. Thấy Phùng thị đang xới cơm cho đạo nhân, họ đều lộ vẻ không vui. Phùng thị thấy trên mặt anh em họ lộ vẻ không vui, biết ngay do mình cho đạo sĩ ăn cơm, bèn tiến tới nói:

- Vị đạo gia đây biết xem phong thủy, nói nhà ta không nuôi được trẻ con, đẻ con ra, chỉ nuôi được hai, ba tuổi, nó đã chầu trời. Do đó, thiếp mới mời đạo sĩ đây vào chỉnh lại phong thủy trong nhà. Đang đợi hai anh em chàng đi chợ về, sẽ mời lão đạo nói ra thiếu xót trong nhà này. Do đó, thiếp mới mời lão đạo dùng cơm.

Anh em họ Vương nghe vậy, đổi giận thành vui, lập tức nở nụ cười, nói:

- Đạo gia, cơm thô canh nhạt khó lòng vừa miệng. Xin hãy lượng thứ. Ngày khác sẽ hậu tạ. Mời đạo gia lên giường ngồi, trên đó có chăn chiếu ấm áp hơn.

Lưu công liền hỏi:

- Xin hỏi quý tính đại danh của hai vị thí chủ.

Hai người nói rõ họ tên, Lưu công nói:

- Nhà của quý thí chủ đây không nuôi được con nhỏ bởi vì cổng lớn hướng ra phía tây nam. Nếu nâng cao gian phòng phía bắc lên, xoay cửa ngõ ra hướng đông nam, đường tử tức tất được thịnh vượng.

Vương Trung nói:

- Đa tạ đạo gia chỉ giáo tôi nay sinh được một đứa con trai mới tròn tám tháng, mập mạp đáng yêu.

Rồi gọi Phùng thị bế con ra nhờ đại nhân xem mệnh cho nó.

Phùng thị ở bên ngoài nói:

- Thằng Cẩu Bất Lý nhà ta chẳng phải đang nằm trên giường đó sao? Nó đang nằm trong đống chăn ấy.

Vương Trung nghe vậy, vội kéo chiếc chăn bông bị Đạo gia ngồi đè lên trên. Lưu công nhổm dậy, kéo chiếc chăn ra. Chỉ thấy đứa bé đã bị đè chết ngạt. Vương Trung giận dữ nói:

- Lão đạo ngươi đã đè chết con ta rồi. Ngươi phải thường mạng!

Vương Bình vội nói:

- Anh à xin chớ nổi giận. Vậy là lời đạo gia đây nói đã linh nghiệm. Nhà ta không thể nuôi được trẻ con. Âu cũng là cái số của Cẩu Bất Lý phải chết trong chăn nên nó mới không giãy, không khóc. Thử hỏi ai biết trong chăn có đứa trẻ. Nếu anh không mời ông ta ngồi lên đống chăn, cháu bé cũng không thể chết.

Vương Trung nghe vậy, thấy có lý, dần nguôi giận, miệng nói:

- Khi nãy, mạo phạm đạo gia, thực là tội quá mong ngài chớ trách. Đứa nhỏ chết rồi cũng không có gì quan trọng. Ta phải kết giao với nhau mới được.

Lưu công trong lòng cảm thấy áy náy, nói:

- Thí chủ bần đạo tới đây quấy nhiễu bữa cơm chay, lại vô tình đè chết tiểu thí chủ, thực lấy làm hối hận quá.

Vương Trung nói:

- Chớ ngại!

Rồi gọi Vương Bình, bảo anh ta mang xác đứa trẻ ra chôn phía đông căn nhà. Vương Trung dặn Phùng thị nấu thức ăn, còn mình đi mua rượu. Không lâu sau đã quay về. Phùng thị cũng đã nấu xong hai món thức ăn, xếp cả lên giường. Một đĩa đậu phụ rán, một đĩa trứng gà rán. Lại thấy Vương Bình chôn đứa bé xong, quay vào. Ba người cùng ngồi xuống uống rượu.

Vương Trung nói:

- Đạo gia, chưa hỏi ngài xuất gia ở đâu, đạo hiệu là gì?

Xin đạo gia nói cho bọn tôi rõ.

Lưu công nói:

- Bần đạo xuất gia tại Lã Tổ Đường trong ngõ Lã Thị tại kinh thành. Đạo hiệu là Mão Kim Đao. Chớ tưởng bần đạo chỉ biết ở trong chùa thắp hương. Ngũ phủ, lục bộ, cửu khanh, tứ tướng trong phủ Thuận Thiên tôi đều biết cả. Nếu anh em ngài lên Bắc Kinh bần đạo xin được đón tiếp. Hôm nay gặp gỡ thực là có duyên. Bần đạo không dám ngồi lâu, đã quấy nhiễu nhiều rồi nay nhân lúc trời còn sớm, xin được cáo biệt. Nói xong, khoác tay nải lên vai, bước ra ngoài cổng. Hai anh em Vương Trung, Vương Bình đi theo tiễn.

Lưu công ngẩng đầu nhìn lên, thấy một cô gái bỏ xõa tóc, khóc lóc tức tưởi miệng kêu van:

- Xin cứu mạng!

Nhìn ra phía sau thấy hai tên hung đồ Hoàng Lục, Hoàng Hùng tay cầm đao đuổi theo phía sau. Người con gái ấy chính là Tô Cát Bình. Lưu công kêu lớn:

- Hai vị thí chủ, mau lấy binh đao, cứu lấy cô gái kia, bắt hai tên hung đồ ấy.

Vương Trung, Vương Bình đang độ thanh niên trai tráng, lại hay ra tay can thiệp chuyện bất bình, nghe đại nhân nói vậy hai anh em lập tức vớ lấy mỗi người một cây gậy làm binh khí để cô gái chạy qua mới xông ra hô lớn:

- Cuồng đồ thực vô lý! Giữa ban ngày ban mặt lại dám hành hung sao?

Hoàng Lục, Hoàng Hùng nghe vậy liền vung đao nhằm anh em họ Vương chém tới. Vương Trung, Vương Bình dùng gậy gỗ cản lại. Bốn người quấn lại đánh nhau. Hai cây gậy gỗ trong tay anh em họ Vương bị đao của anh em họ Hoàng chém còn một khúc, xem ra sắp thua tới nơi. Chợt thấy một thớt ngựa xông tới, người ngồi trên lưng ngựa chính là Bưu Tử Lưu Thanh đi chợ đòi nợ trở về, ngang qua thôn Ngoa Hổ, thấy bốn người đương đánh nhau, hai người sắp thua, lại thấy bên cạnh có một vị đạo sĩ đứng đó, cùng một cô nương. Nhìn kỹ lại, vị đạo gia ấy chính là khâm sai Lưu đại nhân cải trang thành, trong bụng đoán chắc ông ta lại đi vi hành. Nhận ra hai anh em Hoàng Lục, Hoàng Hùng, ngày thường chúng không thăm chỉ làm ăn, định xông vào giúp anh em họ Vương một tay. Lập tức nhảy xuống khỏi lưng ngựa, tay cầm cây roi xông tới. Cây roi này vốn được đúc bằng thép, nặng tới hơn mười ba cân, miệng hô lớn:

- Hoàng Lục, Hoàng Hùng chớ làm càn. Có Bưu lão tổ tông chúng bây tới đây.

Hoàng Lục liền vung đao chém Lưu Thanh, Lưu Thanh vội vung roi sắt đỡ đao, quét ngang một chiêu, đánh Hoàng Lục ngã lăn ra đất. Hoàng Hùng thấy anh bị đánh ngã vội xông lên ứng cứu, bị Lưu Thanh vung roi sắt nhằm đầu đập mạnh một phát. Hoàng Hùng vội vung đao lên đỡ, phần thân dưới để trống. Lưu Thanh thu roi lại, quật xuống phía dưới, trúng ngay vùng thắt lưng. Hoàng Hùng ngã lăn quay. Vương Trung, Vương Bình xông lên, đánh cho anh em họ Hoàng một trận nên thân. Lưu Thanh nói:

- Không được đánh hai đứa bọn chúng. Phải trói lại, giải tới khâm sai đại nhân để ngài phán xử.

Vương trung, Vương Bình vội hỏi:

- Khâm sai đại nhân ở đâu?

Lưu Thanh nói:

- Vị đạo gia đúng bên kia chẳng phải là lại bộ thượng thư Lưu đại nhân đó sao?

Anh em họ Vương nghe vậy, vội tới trước mặt đại nhân, quỳ xuống, nói:

- Anh em tiểu nhân không biết đại nhân đi vi hành qua đây xin đại nhân thứ cho anh em tiểu nhân tội mạo phạm.

Lưu công thấy vậy vội tiến lên, đỡ anh em Vương trung, Vương Bình dậy, nói:

- Mời hai vị tráng sĩ đứng lên. Hai anh em hãy tạm đợi ở nhà, bản bộ đường đi tuần tra vùng Sơn Đông ngang qua đây. Sau khi trở về, tất sẽ tâu rõ chuyện của ba vị lên Thiên tử, bảo đảm cả ba vị đều được phong quan.

Lưu Thanh liền trói anh em Hoàng Lục, Hoàng Hùng lại, giải về công đường, giao cho Lưu An, Trương Thanh tống cả vào ngục. Lại cho truyền cha mẹ của nạn nữ Tô Cát Bình lên công quán, bảo họ nhận con gái về. Kết thúc án. Lưu đại nhân lại dặn Lưu Thanh:

- Bản bộ đường không trở về Cảnh Châu nữa, lệnh cho binh mã, chấp sự tới Đức Châu đón ta.

Nói xong, đại nhân lên đường lớn, nhằm hướng nam tiếp tục đi thăm thú dân tình.

Đi được khoảng hơn mười dặm thì thấy mốc lộ giới, trên đó viết phía Bắc thuộc địa phận Cảnh Châu, phía Nam thuộc địa phận Đức Châu. Xem xong, tiếp tục tiến về phía nam hơn chục dặm, lúc này vầng hồng đã xế non tây, trời tối dần. Thấy trước mặt có một tòa trang viện còn sáng đèn. Đại nhân hướng theo ánh đèn bước tới. Không lâu sau đã tới nơi. Ngẩng đầu nhìn lên, thì ra là hai căn nhà bên ngoài thôn, ánh đèn hắt ra từ phía cửa sổ. Đại nhân bèn tiến lên, gõ cửa một nhà, hỏi:

- Có ai ở nhà không? Cho tôi nghỉ nhờ một đêm!

Chợt thấy bên trong có tiếng bước chân vang lên, tiếp đó có giọng nói vọng ra:

- Con ta về rồi à?

Cửa mở ra. Người ấy nhìn ra ngoài, nói:

- Thì ra là một vị đạo gia. Tại sao đêm hôm lại đi hóa duyên. Nhà lão đây thực sự nghèo khó, xin hãy tới nơi khác hóa duyên cho.

Lưu công nói:

- Nữ bồ tát, không phải bần đạo tới đây hóa duyên, mà xin hỏi xem ở đâu có quán trọ có thể dung thân.

Bà lão nói:

- Trong thôn nhỏ, không có quán trọ nào. Chỉ có một ngôi miếu Bà, không có sư tăng, có một ông thầy dạy học sống trong đó. Nơi đó có thể nghỉ lại được.

Lưu công nghe vậy, nói:

- Đa tạ đã chỉ giáo.

Rồi vào trong thôn. Đưa mắt nhìn lên, quả nhiên thấy một ngôi miếu. Tiến tới gõ cửa, từ bên trong có một người bước ra, hỏi:

- Thầy về rồi ư?

Mở cửa nhìn ra, thấy một đạo sĩ, bèn hỏi:

- Đêm khuya, đại sư tới đây có việc gì?

Lưu công nói:

- Bần đạo không kịp tới nơi nghỉ, tới đây xin nghỉ lại một đêm.

Người kia nói:

- Thầy tôi đã vào thôn dạy học chưa về.

Rồi mời Lưu đại nhân vào trong ngồi. Lưu công vào thư phòng, ngồi xuống. Người học sinh kia dâng trà lên, Lưu đại nhân thấy trong thư phòng có bốn người học sinh, bèn hỏi:

- Tại sao thầy các ngươi không ở trong thư phòng? Ông ta đỗ đạt gì chưa? Tên họ là gì?

Tên học sinh lớn tuổi một chút tên gọi Trương Quang Tiên thấy đạo sĩ hỏi vậy, trả lời, nói:

- Thầy của chúng tôi họ Hứa, tên Liên Đăng. Gia sư là Khang Thiện sinh. Hôm nay tới thôn trên dạy học, giờ vẫn chưa về.

Lưu công hỏi:

Bốn người các vị, đã ai có tước vị gì chưa?

Trương Quang Tiên nói:

- Mới học làm văn chương, chưa từng ra thi cử.

Lưu công nói:

- Hãy mang tác phẩm của các vị ra đây, ta muốn lĩnh giáo.

Không biết Trương Quang Tiên sẽ trả lời ra sao, mời xem tiếp hồi sau sẽ rõ.

_________________
 

hoahongden12

Active Member

Gia hữu hoàng kim trác đầu lượng,

Bất như dưỡng nhi tại học đường.

Hoàng kim hữu giá thư vô giá,

Thứ tỷ hoàng kim phân ngoại cường.

Dịch thơ:

Nhà có vàng đem đấu đề đong

Đâu bằng dạy trẻ ở thư phòng

Vàng còn có giá sách không giá

So sánh với vàng sách sáng lòng.

Lại nói chuyện Trương Quang Tiên nghe vậy, lập tức mang văn chương ra. Lưu công đón lấy, xem một lượt, thấy vẫn là sách của người tập viết, lời văn nông cạn, không được hay, bèn nói:

- Lời văn này quá nông cạn, ta sẽ làm thay ngươi một bài khác bằng đề này.

Rồi cầm bút lên, không cần suy nghĩ, viết liền một mạch xong bài văn, đưa cho Trương Quang Tiên, còn mình đi nghỉ. Ngày hôm sau, khi mặt trời lên cao bằng ba con sào, Lưu công từ biệt. Bốn học sinh tiễn ngài ra tận cửa miếu, chắp tay chào.

Lại nói chuyện Hứa tiên sinh tới làng bên đông dạy học, ngày hôm sau trở về, vào thư phòng, ngồi xuống, hỏi học sinh:

- Đề bài ta giao, các con đã làm xong chưa?

Bốn học sinh vội đưa bài văn Lưu công làm lên. Hứa tiên sinh đọc xong, vô cùng kinh ngạc, hỏi:

- Người làm bài văn này thực uyên bác. Đừng nói là các con, ngay cả ta đây cũng không thể làm nổi. Ai đã làm bài văn này?

Trường Quang Tiên vội thực thà kể rõ đầu đuôi câu chuyện một lượt. Hứa tiên sinh nghe xong, nghĩ thầm: "Người ấy hẳn là một vị đại nhân cải trang làm dân thường đi tìm hiểu chuyện gì đây. Trời tối nên phải nghỉ lại chỗ ta".

Lại nói chuyện Lưu công rời khỏi miếu Bà, nhằm hướng Đức Châu thẳng tiến. Đi được mười mấy dặm, cảm thấy hai chân đau nhức, bèn tháo chiếc tay nải nhỏ màu vàng ra, đặt xuống bên đường, ngồi dưới bóng cây liễu nghỉ ngơi. Ngẩng đầu nhìn lên, chợt thấy hai cô gái từ hướng nam đang cuống cuồng chạy tới. Cả hai cô đầu trần, để xõa tóc, mồ hôi đầy mặt. Cả hai cô, cô lớn chỉ độ mười bảy, mười tám tuổi, cô nhỏ độ mười bốn, mười lăm tuổi, thở hồng hộc chạy tới. Lưu công thấy vậy, nghĩ thầm: "Hai cô gái này hẳn có chuyện chi đây". Nghĩ xong, vội vàng đứng dậy, miệng gọi:

- Hai vị cô nương, xin hãy chậm bước. Chắc hai cô gặp phải chuyện oan khuất gì đó. Xin hãy nói với bần đạo. Bần đạo có thể đứng ra phân xử cho hai vị. Thế nào?

Hai cô gái nghe vậy, dừng chân lại, đưa mắt nhìn lão đạo sĩ, thấy ông ta mình đầy chính khí, khí độ hiên ngang. Mày rậm mà thanh, mắt sáng như sao, râu thưa. Mình cao, chân ngắn, nghĩ thầm:

- Vị đạo sĩ này không giống các đạo sĩ khác. Chắc hẳn ông ta là một vị đại nhân nào đó đi vi hành. Có lẽ vậy. Chi bằng ta hãy kể ra nỗi oan tày trời của mình với ông ấy, có thể ông ta sẽ giúp ta báo thù. Nghĩ xong, nói:

- Đạo gia, nếu ngài cứu được nạn nữ, báo được đại thù. Bọn nạn nữ xin kết cỏ ngậm vành báo đáp đại ân của ngài.

Cô gái nhỏ nói:

- Chị à, thực chẳng ra gì cả. Lão đạo sĩ ăn mày này thì có quyền lực gì mà báo được thù cho chúng ta? Kẻ xuất gia chỉ giỏi lừa tiền của đám nữ nhi mà thôi. Lão đạo à, ông tìm nhầm người rồi. Hai chị em ta là gái đang gặp nạn, không hề mang theo tiền bạc. Ông hãy vào làng mà hóa duyên, xin cơm chay. Lão đạo hãy tránh đường, cho bọn ta qua. Bọn ta phải tới trước mặt ông Lưu Gù để kêu oan. Nếu chậm chân, ác bá theo kịp, mạng này của bọn ta e khó giữ.

Lưu công nói:

- Hai vị cô nương xin hãy chậm bước. Bần đạo ta hay xen vào chuyện bất bình. Cho dù là thổ hào, ác bá ta cũng không sợ.

Cô gái nhỏ, hỏi:

- Chắc chắn ông cậy mình có thí chủ mạnh nên mới dám lớn lối như vậy.

Lưu công nói:

- Nói thực với hai cô, ta xuất gia tại Bắc Kinh, là thế thân của Hoàng đế Càn Long. Vào những ngày ba, sáu, chín ta đều lên Kim điện thỉnh an. Văn võ khắp triều đều có qua lại, quen biết ta. Hôm nay ta rời khỏi kinh thành đi thị sát dân tình. Vì vậy mới đám mạnh mồm nói cứng.

Cô gái nhỏ hỏi:

- Ông thường ở trong kinh, vậy ông có quen ông Lưu gù làm quan trong triều không?

Lùn công nói:

- Sao lại không quen? Ông ấy với ta là đồng hương, là hàng xóm của nhau. Hai người cùng học chung với nhau, lại cùng nhau quay về hướng Bắc quỳ lạy, kết nghĩa làm anh em. Hai người bọn tôi quan hệ với nhau thân mật lắm.

Cô gái nhỏ nghe vậy, nói:

- Chị à, ông đạo sĩ này quả có chỗ dựa vững chắc. Chúng ta hãy kể nỗi oan của mình với ông ta, nhờ ông ta báo thù giúp.

Cô gái lớn nghe vậy, nghĩ thầm. Xem bộ dạng, nghe giọng nói của ông này thực không giống đạo sĩ. Tất phải là một vị đại nhân nào đó cải trang đi thăm thú dân tình.

Nghĩ xong, tỏ vẻ thẹn thùng, nói:

- Đạo gia, nạn nữ sống tại Lệnh gia trang, cách thành Đức Châu mười dặm về phía bắc. Cha là một tú tài. Nạn nữ tên gọi Trần Ngọc Bình, Lệnh gia trang có một viên quan tên gọi Lệnh Lâm. Anh của hắn là một tham tướng, hai đứa con trai của hắn đều là võ cử có quan hệ qua lại với các nha môn trong đạo, phủ, châu, huyện thường ngày hay cậy thế, ức hiếp người khác, thường làm những việc bá đạo, vô pháp vô thiên. Tại An Quốc tự cướp Vương tiểu thư. Cha cô ta tới tận nhà liều mạng. Lệnh Lâm nổi giận, giết cả hai cha con họ, lại cướp sạch gia tài nhà họ Vương đem về làm của nhà mình. Lệnh Lâm hoành hành bá đạo, càng lúc càng lớn gan, nuôi trong nhà hơn ngàn tên tay chân, dưới địa đạo trong nhà có giấu hơn ba ngàn dũng đinh. Trong nhà hắn có chín gian Triều Vương Điện, chín gian đại sảnh, có bãi giết người đằng sau vườn, lại có hố chôn vạn người. Ngày thường, hắn đi chiếm ruộng, vườn của người khác, cướp cả con gái nhà lành. Ba, bốn hôm trước đây, nạn nữ ngồi kiệu tới nhà người họ hàng, bị Lệnh Lâm nhìn thấy. Hắn liền lệnh cho lũ ác nô xông tới, đánh chết tên làm công Vương tiểu nhị rồi cướp cả nạn nữ lẫn kiệu mang về nhà. Nghe tin cha nô gia lên châu nha kiện, ác bá Lệnh Lâm bỏ tiền ra mua chuộc, đút lót khắp trên, dưới, nói cha nô gia vay hắn một trăm lạng bạc, tình nguyện gán con gái cho hắn thế nợ. Nói cha nô gia vu cáo hắn. Cha của nô gia bị đánh cho một trận, tống vào nhà lao. Tên giặc Lệnh Lâm lại ép nô gia lập tức phải thành thân với hắn. Nạn nữ dẫu chết cũng không chịu. Hắn liền tống nạn nữ vào phòng lạnh, bỏ đói ba ngày trời, chỉ mong nạn nữ đói không chịu được sẽ phải chấp nhận thành thân với hắn.

Lưu công nói:

- Bị hắn bỏ đói ba ngày trời, lẽ ra ngươi phải treo cổ tự tận, bảo toàn danh tiết mới phải.

Trần Ngọc Bình nói:

- Nạn nữ cũng có ý tự tận, nhưng bởi có một mụ già canh giữ hơn nữa, cha nô gia chỉ sinh được một mình nô gia. Khi cha mẹ nạn nữ qua đời, ai sẽ là người đưa tang đây. Ai sẽ thay nạn nữ báo mối thù lớn này?

Lưu công hỏi:

- Tại sao các ngươi lại thoát khỏi nhà của ác bá?

Trần Ngọc Bình nói:

- Nạn nữ đói quá chẳng còn cách nào khác, đành phải giả vờ ưng thuận, ép ác bá uống say túy lúy. Nạn nữ muốn chạy tháo thân. Có ả a hoàn này đoán được ý đồ của nạn nữ, nói: "Xin chị chớ lo lắng, em bị hắn gán nợ bắt về đây. Em cũng có ý muốn bỏ chạy nhưng chưa có cơ hội. Em thấy chị có ý muốn chạy trốn nhưng không thuộc đường lối trong nhà này. Chi bằng hai chị em ta cùng bỏ chạy". Bàn bạc xong, hai chị em nạn nữ trèo ra ngoài bằng lối cửa sau. Bỏ chạy suốt một đêm, nay gặp đạo gia ở đây.

Lưu công nghe vậy, trong lòng thầm căm ác bá Lệnh Lâm. Ả a hoàn đứng bên cạnh, nói:

- Đạo gia, ngài đã hỏi hết mọi chuyện rồi. Giờ mong ngài viết cho chị em tôi một lá đơn kiện, chị em tôi còn mang tới chỗ ông Lưu gù kiện ác bá Lệnh Lâm.

Lưu công nói:

- Viết đơn kiện không tiện. Đây ta có cây roi ngựa, các ngươi mang tới chỗ Lưu lại bộ, đưa roi ngựa ra. Vật này còn hơn hẳn đơn kiện. Ông ta thấy vật này tất đứng ra giải quyết giúp hai ngươi.

Ả a hoàn nói:

- Chúng tôi không tin đâu.

Lưu công nói:

- Ngươi chớ xem thưởng vật này. Cây roi này chính là vật Hoàng đế Càn Long tặng cho Lưu lại bộ, anh bạn học Lưu Dung tặng lại cho ta. Nếu ngươi đưa nó ra cho Lưu lại bộ thấy, ông ta tất nhận vụ kiện này. Cây roi này có tác dụng hơn đơn kiện nhiều.

Nói xong, trao roi ngựa cho họ.

Trần Ngọc Bình nhận lấy chiếc roi ngựa, nghĩ thầm:

- Nghe khẩu khí, trông bộ dạng của vị đạo sĩ này, chắc chắn ông ta chính là Lại bộ Lưu đại nhân cải trang đi thăm thú dân tình. Chi bằng ta hãy bái ông ta làm cha nuôi. Như vậy ông ta mới dốc sức giúp ta báo thù.

Nghĩ xong, nói:

- Đạo gia, tiểu nữ được ngài ban ân, không có gì để báo đáp. Nạn nữ nguyện bái ngài làm cha nuôi.

Nói xong, quỳ sụp xuống, lạy bốn lạy. Lưu đại nhân xua tay, nói:

- Ta không thể nhận con gái nuôi.

Trần Ngọc Bình nói:

- Nếu ngài không nhận nạn nữ, nạn nữ sẽ quỳ ở đây cho đến chết.

Lưu công chẳng còn cách nào khác, đành phải nhận nàng làm con nuôi, nói:

- Con gái, hãy đứng dậy đi.

Chợt thấy ả a hoàn đứng ở bên cạnh khóc rống lên, nói:

- Tôi với chị trải qua một phen khổ sở, tại sao cùng cảnh lại không cùng mệnh như vậy?

Lưu công hỏi:

- Sao ngươi phải cùng con gái nuôi của ta chịu khổ sở?

A hoàn nói:

- Đâu phải ác bá Lệnh Lâm bỏ tiền ra mua nạn nữ về.

Nạn nữ sống tại rương gia trại, ở phía nam thành Đúc Châu. Cha nạn nữ tên gọi Trương Dung, năm nay bốn mươi ba tuổi, sinh sống bằng nghề làm vườn. Năm ấy gặp nạn mất mùa, trong nhà hết cái ăn, khó lòng qua ngày. Nghe nói Lệnh gia trang Lệnh Lâm phát lương cứu tế kẻ nghèo, cha nạn nữ tới đó, lĩnh được một đấu gạo, nhưng thực ra một đấu chỉ có bảy thăng mà thôi.

Lưu công nói:

- Đã là phát lương cứu đói, sao còn chê nhiều ít? Chỉ cần có đồ ăn qua ngày là được mà.

Ả a hoàn thở dài một hơi, nói:

- Đâu phải hắn tế bần, mà là cho vay. Một tháng tính lãi thành hai đấu, hai tháng thành bốn đấu, lãi đập vào gốc, tính lãi chồng lên. Tính thành tiền, một đấu giá một xâu sáu trăm tiền. Tính đến nay, nhà nạn nữ phải nợ hắn bao nhiêu tiền? Lệnh Lâm ép cha nạn nữ phải trả nợ cho hắn. Cha nạn nữ cãi lý với hắn. Lệnh Lâm nổi giận, sai lũ thuộc hạ treo thân phụ nạn nữ lên đánh đập. Bị thương khắp mình. Cha nạn nữ không chịu nổi, đành phải mang hết ruộng, vườn ra gán nợ. Nếu vẫn chưa đủ, xin tới nhà hắn làm việc không công trừ dần. Lệnh Lâm nghe vậy, vô cùng vui mừng, nói:

- Sao ngươi không chịu nói ra câu này sớm hơn, để đại gia nổi giận. Nhà cửa, ruộng vườn đại gia đều không cần, ngươi hãy giữ lại mà sống. Nghe nói ngươi có một đứa con gái rất lanh lợi. Hãy cho nó tới phủ của ta làm a hoàn, ta sẽ xóa nợ cho. Ngươi chấp nhận không? Cha nạn nữ có ý không nghe, lại sợ ác bá Lệnh Lâm đánh đập. Chẳng còn cách nào khác, đành phải đưa nạn nữ vào phủ của Lệnh Lâm. Đặt cho nạn nữ cái tên là Cốc Nô, có ý nói đổi một đấu gạo lấy nạn nữ. Tiểu nữ bị gọi bằng cái tên ấy từ đó tôi giờ đã được ba năm rưỡi. Cha mẹ không được tới thăm. Đạo gia, ngài thử nghĩ xem, nạn nữ có oan út không?

Đang nói chuyện với nhau, chợt nghe thấy tiếng nhạc ngựa leng keng vọng tới. Ngẩng đầu nhìn lên, thấy từ phía nam có hai thớt ngựa chạy lại. Hai người ngồi trên lưng ngựa đầu đội mũ viền đỏ, mình mặc áo bào đỏ kiểu Mãn Châu, chân đi giày nhẹ màu xanh, lưng giắt đơn đao. Hai người ăn vận hệt như nhau. Hai người này, một người tên làTrương Công, một người tên là Lý Năng, là hai tên quản gia trong nhà Lệnh Lâm. Ngựa chạy tới đâu, bụi cuộn lên tới đó. Chúng ra roi quất ngựa phóng tới gần cây liễu, đồng loạt nhảy "huỵch" xuống, tay vung roi ngựa, quát vang:

- Giỏi cho hai con nha đầu này. Dám tự ý bỏ chạy. Hai đứa bọn ta phụng mệnh đại gia đuổi theo các ngươi. Bọn ta đang lo ngươi chạy tới tận chân trời rồi, chẳng ngờ mới chạy được tới đây. Các ngươi đã khiến cho hai ông đây phải vất vả rồi.

Nói xong, với tay lấy cuộn dây trên lưng ngựa xuống, trói hai cô gái lại. Trần Ngọc Bình và ả a đầu sợ hãi, người mềm như bún, mặt vàng như sáp. Lưu công thấy vậy, trong lòng không vui hỏi:

- Hai người các ngươi từ đâu tới? Nam nữ thụ thụ bất thân, tại sao lại dùng dây trói hai cô ấy lại.

Hai tên ác nô nghe hỏi vậy, trợn mắt lên, nói:

- Lão đạo, ngươi hãy lo chuyện hóa duyên của ngươi, chớ nên lo chuyện thiên hạ.

Lưu công nói:

- Ta không muốn quản chuyện thiên hạ, nhưng việc hôm nay ta phải hỏi cho rõ mới được.

Ác nô nói:

- Đây là thiếp do chủ ta mua về, còn kia là ả a hoàn. Hai đứa chúng nó bỏ chạy. Chủ nhân nhà ta sai người đi tìm kiếm khắp nơi. Nay gặp chúng đây, phải bắt chúng trở về để chủ nhân nhà ta trị tội.

Lưu công mỉm cười, nói:

- Hai ngươi chớ múa mỏ lừa ta. Hai người này đã nói cho ta nghe hết rồi. Theo ý ta, hai vị hãy tạo điều thiện, thả cho hai cô gái này đi. Trở về gặp chủ, hãy nói rằng đuổi theo không kịp. Vậy chẳng phải hai vị đã tích được chút âm đức hay sao?

Hai tên ác nô nghe vậy, trợn mắt lên, nói:

- Lão đạo này thực chẳng biết nói lý lẽ gì. Chắc lão chỉ ăn toàn tro với đất nên mới nói ra những lời này. Lão chớ nên xen vào chuyện của người khác.

Nói xong, trói hai cô gái lại. Lưu công nổi giận, quát lớn:

- Giỏi cho hai tên nô tài. Chó cậy thế người, hoành hành bá đạo. Giữa trời đất này, trong cảnh thái bình này lại dám bá chiếm dân nữ.

Tên ác nô Trương Công quát lớn:

- Lão đạo sĩ này thực vô lý. Người mù mắt rồi nên mới tự rước lấy tai họa. Nay ta phải bắt nốt cả ngươi mang về cho đại gia nhà ta trị tội mới được.

Lý Năng ngăn lại, nói:

- Không được, lão đạo sĩ này đã lớn tuổi. Chúng ta hãy nể lão già cả nghèo khó, thả cho lão đi.

Trương Công nói:

- Vậy thì dễ dàng cho lão quá.

Hai tên nói xong, nhảy lên lưng ngựa, từ từ dắt theo hai cô gái quay về.

Lưu đại nhân cuống lên, tự trách mình:

- Ta không nên giữ hai cô gái ấy lại, khiến họ lỡ mất cơ hội bỏ chạy. Ta thực hối hận. Chi bằng hãy xông lên, thí cái mạng già này để cứu lấy hai cô gái.

Đang định đuổi theo, chợt thấy sau lưng có tiếng xe lọc cọc. Quay đầu nhìn lại, thì ra là một chàng thanh niên tuổi độ hai mươi đẩy một cỗ xe nhỏ tiến tới. Người ấy hạ cỗ xe xuống, hỏi:

- Lão đạo, giữa các vị xảy ra chuyện gì vậy? Hãy nói cho tôi nghe, chớ để tôi bực mình.

Lưu công nghe hỏi, bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện, hỏi người ấy:

- Cậu có thể cướp hai cô ấy lại không?

Người đẩy xe nói:

- Tôi hay can thiệp chuyện bất bình, tính nóng như lửa. Nếu tôi nổi giận, đánh chết người, sẽ phải lên quan. Tôi chịu tội còn ông sẽ chẳng sao. Tôi không làm đâu.

Lưu đại nhân nói:

- Nếu anh có thể cướp lại hai cô ấy, đừng nói là đánh chết một người. Cho dù đánh chết tám đứa, mười đứa, ta cũng đứng ra chịu tội thay anh cả.

Người đẩy xe nói:

- Nếu đã vậy, ông chớ bỏ chạy nhé.

Lưu đại nhân nói:

- Sao tôi lại có thể bỏ chạy được. Một lời nói ra, bốn ngựa khó đuổi. Anh hãy bỏ xe đấy, đi cướp lại hai cô gái kia về. Tôi còn đội ơn anh nữa là khác.
 

hoahongden12

Active Member

Thiên tửu trại quá linh đơn,

cổ lai tựu hữu thiên oa.

Quan viên thứ dân nhân nhân khỏa,

ngật thương kỷ bôi bất thác

Nhất lai tiêu sầu giải muộn,

nhất lai thân thương khoái hoạt

Chi khô thiểu ẩm mạc tham đa,

đại sự năng thành bất phá

Duy độc khỏa tửu bất tế,

ngã khuyên minh công biệt học.

Tam trản nhập đỗ xọa mao bao,

chiếm biên nã thương động đao

Tâu lộ nhất lưu tà tà,

mãn thủy hồ ly tước mao

Ngộ trác quang côn dụng quyền đảo,

tỉnh tửu áo hối thảo tảo.

Dịch thơ:

Rượu hơn hẳn linh đan

Từ xưa đến nay đã nấu đun

Từ quan đến dân ai cũng uống

Uống mấy chén không sao

Một là sầu tiêu muộn giải

Hai là trong người thoải mái

Nhưng chỉ nên uống ít đừng tham nhiều

Làm nên việc lớn không hỏng

Chỉ vì uống rượu việc chẳng đặng

Tôi khuyên ngài đừng học

Ba con sâu vào bụng quấy nhào

Đứng dậy cầm giáo cầm đao

Bước đi lảo đảo

Nói năng nhảm nhí sao

Gặp phải du côn nó đấm

Tỉnh ra hối lại kịp nào.

Lại nói chuyện hảo hán đẩy xe nghe lão đạo nói vậy, lập tức với tay rút soạt cây đồng cương nặng ba mươi ba cân dưới càng xe ra.

Quý vị độc giả hẳn sẽ nói: "Cuốn sách này viết toàn chuyện đâu đâu. Chỉ là một gã đẩy xe sao lại có đồng cương? Lại dùng cây đồng cương thay càng xe. Lý nào lại vậy? Liệt vị hẳn chưa biết, hảo hán đẩy xe này sống trong Phạm gia doanh cách phía nam thành huyện Bội mười dặm, thuộc Từ Châu. Anh ta họ Phạm, tên Đỉnh, tự là Mạnh Đình. Cha ông từng giữ chút tổng binh, cây đồng cương này do cha ông để lại. Phạm Mạnh Đình từ nhỏ đã có sức khỏe hơn người, mình mẩy cao lớn. Năm mười ba tuổi bắt đầu học võ. Khi khôn lớn, cha mẹ đều qua đời cả. Nhà dần lâm vào cảnh đói khổ, chẳng còn cách nào khác, đành phải dựa vào sức mạnh hơn người của mình, đẩy chiếc xe nhỏ chở gạo lên chợ bán. Anh ta tính tình ngay thẳng, ưa can thiệp chuyện bất bình. Thanh nhiệt đồng cương mang theo bên mình, vừa dùng thay cho càng xe, vừa để phòng thân.

Lại nói chuyện Phạm Mạnh Đình tay cầm đồng cương đuổi theo hai tên ác nô, cướp lại hai cô gái. Chàng vận khí đan điển, hét lớn:

- Này, hai thằng ranh kia. Mau để hai cô gái lại. Nếu há mồm nói ra nửa chữ "không", ta sẽ cho các ngươi chết không đất chôn thây.

Hai tên ác nô dẫn theo hai cô gái chầm chậm đi về, chợt nghe có người quát bên tai. Ngoảnh đầu nhìn lại, thấy một người tay cầm đồng cương đuổi tới, biết anh ta muốn chiếm lại hai cô gái. Hai đứa bèn quay sang bàn với nhau:

- Kẻ tới tất không thiện, người thiện tất không tới. Hai anh em ta dùng lời lẽ, dọa cho hắn sợ mà bỏ đi. Vậy sẽ đỡ tốn công, chẳng phải tốt hơn sao?

Bàn bạc xong xuôi, thấy người kia đã đuổi tới nơi. Hai tên ác nô bèn rút đao ra, chỉ vào hảo hán, nói:

- Này, thằng nhãi to gan kia. Phải chăng ngươi đang ngủ trong nôi hay sao lại dám lớn lối làm vậy? Chắc ngươi không biết hai anh em ta là ai, do ai sai tới! Hai anh em ta tên gọiTrương Công, Lý Năng, phụng lệnh đại lão gia đuổi bắt ả a hoàn và nàng thiếp mới cưới về. Nếu ngươi biết khôn, hãy mau quay về, chớ quản chuyện thiên hạ. Nếu không chịu tỉnh ngộ, ngươi sẽ phải tự rước họa vào thân. Tới lúc ấy có hối e cũng không còn kịp nữa.

Phạm Mạnh Đình nghe vậy, khí tức bốc lên ngàn ngụt, vung cây nhiệt đồng cương lên, nhằm Trương Công đánh tới. Trương Công vội vung đao đỡ. Chỉ thấy "choang" một tiếng, thanh đao bị dội văng đi. Cây đồng cương đập trúng vaiTrương Công. Hắn chỉ kịp kêu lên một tiếng "ối cha" rồi ngã lăn ra đất. Lý Năng thấy vậy, biết không địch lại hảo hán dũng mãnh, chợt nảy ra một kế, nói:

- Nếu ngươi thực là bậc anh hùng hảo hán, hãy để lại tên họ. Hai ta sẽ trở về báo lại chủ nhân. Ngươi dám tới nhà chủ ta hành hung không? Nếu dám đi, ngươi mới được coi là anh hùng, hảo hán.

Phạm Mạnh Đình nghe vậy, bật cười ha hả, nói:

- Ta đây đi không đổi tên, ngồi không đổi họ. Ta họ Phạm, tên gọi Mạnh Đình. Nay để lại hai cái mạng chó các ngươi cho về báo tin. Ông đây sẽ tới sau, tìm gặp chủ các ngươi tính sổ.

Lý Năng nghe vậy, vội đỡ Trương Công lên ngựa. Hai tên ác nô vội vàng bỏ chạy.

Phạm Mạnh Đình tới trước mặt Lưu công, nói:

- Đạo gia, hai cô gái này sẽ đi đâu đây?

Lưu công nói:

- Bần đạo lệnh cho hai cô gái ấy tạm thời chạy về Hoàng gia trại lánh nạn. Xin hỏi quý tính đại danh của nghĩa sĩ? Nhà ở nơi nào?

Phạm Mạnh Đình nghe hỏi, bèn lần lượt trả lời, lại nói:

- Tôi muốn đuổi tới nhà Lệnh Lâm, giết sạch không chừa một con gà, con chó nào mới hả được giận này.

Lưu công nói:

- Không cần phải vậy. Nếu nghĩa sĩ đã có lòng can thiệp chuyện bất bình, hãy theo ta vào Đức Châu, tới công quán của Lưu lại bộ dâng một lá đơn kiện. Không biết nghĩa sĩ có muốn đi cùng bần đạo một chuyến không?

Phạm Mạnh Đình nghe vậy, nói:

- Lão đạo giỏi thực, làm việc thực gan dạ, nghĩa khí. Nếu ngài không chê tại hạ nghèo khó, hai ta hãy quay mặt về phương Bắc dập đầu lạy tạ trời đất, kết nghĩa làm anh em.

Lưu công xua tay, nói:

- Ta từ nhỏ chưa từng kết nghĩa anh em với ai.

Phạm Mạnh Đình nói:

- Tôi đã muốn vậy, ngài không chịu cũng không được.

Rồi lập tức đắp ba mô đất, cắm ba ngọn cỏ lên đó, kéo lão đạo cùng quỳ xuống, dập đầu lạy. Lưu công nghĩ thấm: "Ta xem người này tính khí ngay thẳng, mồm miệng nhanh nhẹn, nghĩa khí hào kiệt, sau này tất có thể hữu dụng. Kết nghĩa anh em với nhau cũng được". Hai người liền quay mặt về hướng Bắc, dập đầu lạy, làm lễ kết nghĩa xong xuôi. Phạm Mạnh Đình nói:

- Đệ năm nay hai mươi ba tuổi, không biết đại ca năm nay bao nhiêu?

Lưu công nói:

- Bần đạo năm nay sáu mươi tư tuổi.

Phạm Mạnh Đình nói:

- Đệ xin dập đầu lạy đại ca. Xin hỏi tên họ và nơi ở của đại ca.

Lưu công nói:

- Ta tên Mão Kim Đao. Đồng hương với Lưu lại bộ.

Phạm Mạnh Đình nói:

- Đại ca hãy lên xe, đệ xin đẩy đại ca vào thành Đức Châu.

Lưu công lên xe. Phạm Mạnh Đình đẩy xe, nhằm hướng chính nam thẳng tiến.

Không lâu sau đã thấy tòa thành Đức Châu thấp thoáng phía xa. Chợt thấy một đám người ngựa kéo tới trước mặt, phía sau họ là một cỗ kiệu lớn không có ai ngồi. Thì ra châu quan ra đón Lại bộ thượng thư Lưu đại nhân. Lưu công biết vậy, liền nói:

Hiền đệ, chúng ta không cần nhường đường cho quan châu. Phải bắt châu quan dẹp qua một bên để chúng ta đi qua mới phải.

Phạm Mạnh Đình nói:

- Nếu xông tới trước đầu ngựa của ông ta, chắc chắn sẽ bị ông ta cho ăn đòn.

Lưu công nói:

- Đệ mới là một anh hùng, hảo hớn, sao lúc này lại như một bao cỏ khô vậy? Chớ thấy ta là một lão đạo giang hồ mà khinh thường nhé. Lưu lại bộ với ta là anh em kết nghĩa, ta nói gì, ông ta cũng nghe theo. Nếu chỉ vì xông vào mà phải rước lấy họa thì đã có ta đây.

Phạm Mạnh Đình nói:

- Vậy thì ta xông lên.

Nói xong, đẩy xe xông thẳng tới. Lũ nha dịch quát vang:

- Tên đẩy xe kia, còn không mau dẹp qua một bên?

Phạm Mạnh Đình giả điếc, cứ việc xông tới. Châu quan thấy vậy nổi giận, quát vang:

- Bắt thằng giặc kia lại.

Đám nha dịch không dám chậm trễ, vội lôi Phạm Mạnh Đình tới bắt quỳ xuống trước kiệu. Châu quan hỏi:

- Tại sao gặp bản tri châu ngươi không tránh đường, cắm đầu lao lên? Lý nào là vậy? Lôi hắn xuống, đánh hai mươi trượng cho ta.

Đám nha dịch liền lôi Phạm Mạnh Đình ra đánh hai mươi trượng. Phạm Mạnh Đình đứng phắt dậy, nói với viên tri châu:

Ngươi dám đánh ta hai mươi trượng, đại ca ta quyết không tha cho ngươi. Chớ thấy đại ca ta chỉ là một đạo sĩ giang hồ mà coi khinh ông ta qua lại rất thân mật với Lưu lại bộ đó. Chỉ một câu nói của ông ta thôi, người sẽ bị mất chức ngay.

Châu quan nghe vậy, tức giận, nói:

- Nếu đã vậy, hãy lôi lão đạo qua đây cho bản tri châu.

Đám nha dịch vội lôi Lưu công tới trước kiệu tri châu. Đại nhân đứng sừng sững, không chịu quỳ. Châu quan quát vang:

- Giỏi cho lão đạo sĩ kia, thấy bản tri châu vẫn nghênh ngang, không chịu quỳ lạy.

Rồi dặn dò đám nha dịch:

- Đè hắn xuống đánh hai mươi trượng thực mạnh cho bản châu.

Chợt thấy Phạm Mạnh Đình quỳ phục xuống, dập đầu lạy, nói:

- Bẩm đại nhân. Đại ca của tiểu nhân năm nay đã sáu mươi tư tuổi, không thể chịu đòn. Xin đại nhân hãy đánh tiểu nhân.

Châu quan nghe vậy, lòng thầm kính nể, nói:

- Ngươi thực là người trung hậu. Nể mặt ngươi, bản châu tha cho hắn. Từ nay ngươi không được vô lễ như vậy nữa!

Phạm Mạnh Đình dập đầu tạ ân. Đám binh mã, kiệu phu của tri châu nghênh ngang đi qua.

Phạm Mạnh Đình đứng dậy nói:

- Đại ca mau lên xe, vào thành cho mau. Trời không còn sớm nữa. Nếu chậm trễ, e không kịp vào thành.

Lưu công nói:

- Hiền đệ vừa bị đánh hai mươi trượng, chỉ sợ không đẩy xe nổi.

Phạm Mạnh Đình nói:

- Không ngại, chỉ như bị muỗi cắn thôi mà.

Lưu công nghe vậy lại trèo lên xe. Phạm Mạnh Đình đẩy xe vào thành.

Không lâu sau đã tới bên ngoài thành Đức Châu. Vừa lên cầu treo, chỉ thấy một người đầu đội mũ nhỏ, tay cầm lồng họa mi, chân chưa bước đi, người đã xiêu xiêu, vẹo vẹo, chắc chắn đang say rượu đứng trên cầu. Hắn nghiêng nghiêng ngả ngả, va vào xe. Y nổi giận, nói:

- Thằng ranh đẩy xe khốn kiếp kia, sao lại đẩy xe xô vào người lão gia? Trong thành Đức Châu này ai chẳng biết ta. Nhị tổ tông sẽ không tha cho ngươi đâu. Hôm nay ngươi lại dám cuốc đất trên đầu Thái Tuế ư? Giỏi cho đồ lộn giống ngươi.

Phạm Mạnh Đình nổi giận đùng đùng, vội hạ xe xuống, xông tới, tát một cái khiến gã say kia lộn nhào, lăn tõm xuống thành hào. Mặc kệ gã say không biết sống chết ra sao, chàng quay trở lại, tiếp tục đẩy xe vào thành. Thấy hai bên đường trong thành bạt ngàn hàng quán, người qua kẻ lại đông như nước chảy, khung cảnh thực sầm uất. Chợt thấy một quán trọ bên đông con đường có treo một chiếc đèn lồng kiểu nhà quan, thì ra là một công quán. Lưu công gọi lớn:

- Hiền đệ, mau dừng xe. Trời đã tối rồi, chúng ta hãy vào quán này nghỉ lại một đêm.

Phạm Mạnh Đình nghe vậy, chau mày, nói:

- Đại ca, không được đâu. Muốn vào quán trọ cũng phải xem trước đã. Quán này đã được Lại bộ Lưu đại nhân chọn làm công quán. Đại ca bảo tiểu đệ xông tới trước kiệu quan, tiểu đệ phải ăn hai mươi trượng. Nếu lại xông vào công quán, chắc cái đầu này của đệ không còn ở trên cổ nữa.

Lưu công nói:

- Lưu lại bộ với ta rất tốt. Chúng ta cứ vào nghỉ trong quán này.

Phạm Mạnh Đình nói:.

- Đệ không mắc lừa đại ca nữa đâu.

Lưu công nói:

- Nếu đệ sợ, đại ca sẽ đi trước.

Nói rồi sải bước, vào thẳng bên trong. Phạm Mạnh Đình vội kéo ông ta lại, nói:

Nếu đại ca nhất quyết đòi nghỉ lại tại quán này, chúng ta phải thống nhất trước với nhau mới được. Quán này do Hoàng Vĩnh Thượng mở ra. Hồi trước đi bán đậu đen, đệ từng nghỉ trọ ở đây. Đệ với ông ta quen nhau. Nay quán bị trưng dụng làm công quán, người lạ tất không được vào. Để đệ đi tìm Hoàng tướng quỹ, bảo ông tạm cho chúng ta ở trong nhà bếp. Đại ca phải chịu ấm ức một chút, không biết có được không?

Lưu công nói:

- Cũng được.

Phạm Mạnh Đình nghe vậy, hai người lập tức tiến vào quán. Chợt thấy Hoàng chủ quán tiến ra nghênh đón, nói:

- Phạm đại ca, hôm nay anh phải chịu ấm ức ở tạm trong gian phòng nhỏ nhé. Phòng tốt đã bị dùng làm công quán. Nếu anh không bằng lòng, tôi cũng không dám giữ. Vị đạo gia này là ai vậy?

Phạm Mạnh Đình nói:

- Đây là đại ca của tôi. Phòng nhỏ cũng được.

Hai người đi thẳng vào phòng nhỏ.

Vừa ngồi xuống, chợt nghe bên ngoài có tiếng phụ nữ kêu oan vọng vào. Chợt lại nghe thấy tiếng hai tên nha dịch hỏi:

- Hai người con gái các người có oan khiên gì? Kiện ai vậy.

Hai cô gái trả lời, nói:

- Kiện bá đạo Lệnh Lâm.

Hai tên công sai nghe vậy, tỏ vẻ không vui, quát lớn:

- Hai ả đàn bà to gan không biết sống chết là gì này. Dám tới đây vu cáo một người tốt như Lệnh đại gia khiến bọn ta khó xử. Ta tới phủ họ Lệnh vay tiền, vay mười xâu, ông ta chỉ lấy có hai xâu, tám xâu còn lại biếu ta cả.

Tên kia nói:

- Lệnh đại gia đối xử với ta cũng rất tốt. Ông ấy cho ta năm lạng bạc và hai bình rượu nữa.

Tên này nói:

- Có ơn không báo, không phải là quân tử.

Tên kia nói:

- Vong ân phụ nghĩa là loại thất phu. Chi bằng nhân lúc đại nhân chưa tới công quán, chúng ta hãy bắt hai ả này lại, dẫn tới phủ họ Lệnh, chắc sẽ được khối bạc thưởng.

Rồi hai đứa dùng dây thừng trói Trần Ngọc Bình và ả a hoàn lại, lôi lôi, kéo kéo ra phía nhà sau.

Lưu công thấy vậy bất giác nổi giận, lớn tiếng chửi mắng:

- Giỏi cho hai tên chó nô tài, dám làm chuyện vô pháp vô thiên, trái đạo lý như vậy. Tên quan chó của Đức Châu này mắt mù rồi. Ta chính là Lại bộ Lưu Dung đây. Vậy mà hắn đi đón tận đâu vậy.

Phạm Mạnh Đình nghe thấy vậy, giật nảy người, nói:

- Đại ca, anh phát cuồng hay sao vậy? Anh nói anh là mệnh quan của triều đình, là Lại bộ đại nhân, thực quá lắm rồi. Đại ca chớ gây họa cho đệ nữa.

Nói xong, một tay xách hành lý, tay kia kéo Lưu công ra khỏi căn phòng, đặt cả đại nhân lẫn hành lý lên cỗ xe nhỏ, đẩy thẳng về hướng chính nam. Không lâu sau đã tới cửa Nam, chợt nghe thấy tiếng mời chào của một quán trọ nhỏ bên phía đông vọng tới:

- Trời tối rồi, nghỉ đâu cũng là nghỉ. Đâu chẳng ở được? Ở đây chúng tôi có phòng trọ sạch sẽ, không có ruồi muỗi, ăn uống tiện lợi.

Phạm Mạnh Đình nghe vậy, vội đẩy xe vào quán, mang hành lý vào phòng, Lưu công chẳng còn cách nào khác, đành phải vào theo. Chủ quán mang đèn vào. Lưu công nói:

- Chủ quán, hãy cho một chậu nước sạch để rửa mặt, pha cho một ấm trà. Sau đó cho nửa cân rượu, xào cho bốn món: Một đĩa sườn xào, một đĩa tôm hấp, một đĩa Nam tiềm đơn tử, một đĩa cá rán. Bốn món nguội người muốn đưa gì thì đưa. Ta và nghĩa đệ của ta uống rượu cho đỡ sợ.

Chủ quán nghe vậy, nói:

- Khách quan chúng tôi đây chỉ là một quán nhỏ, không có đồ ăn sang như vậy. Chỉ có bánh khô, cơm thường thôi.

Phạm Mạnh Đình nói:

- Đại ca không cần phải xa hoa như vậy. Chủ quán, cho tôi mười cân bánh, cho nhiều hành củ là được. Ăn xong chúng tôi còn phải nghỉ, ngày mai còn có việc cần làm.

Lưu công nói:

- Vậy sẽ theo ý tiểu đệ.

Không lâu sau, chủ quán đã mang bánh và hành lên. Lưu công hỏi:

- Chủ quán, xin hỏi: Ông có biết Lệnh Lâm ở đâu không?

Chủ quán nói:

- Lệnh đại gia sống cách cổng Nam không xa. Ở đó có một tòa dinh thự, ông ta sống tại đó.

Nói xong, vội ra ngoài thu xếp chuyện làm ăn của mình.

Phạm Mạnh Đình nói:

- Hỏi nhà hắn làm gì. Mai ta chỉ việc ra trước kiệu Lưu lại bộ, dâng một lá đơn kiện là xong. Có lẽ sáng mai Lưu lại bộ sẽ tới công quán.

Lưu công nói:

- Tối nay đã tới công quán rồi, nhưng bị đệ cướp ra khỏi công quán đó.

Phạm Mạnh Đình hỏi:

- Đệ có cướp ai đâu?

Lưu công nói:

- Chính là ta. Ta chính là Lại bộ Lưu Dung.

Phạm Mạnh Đình lắc đầu, nói:

- Đệ không tin. Đại ca chỉ đùa đệ.

Lưu công nói:

- Đệ không tin, ta cho đệ xem cái này.

Rồi cởi chiếc tay nải nhỏ ra: Phạm Mạnh Đình thấy bên trong có một quả ấn quan bằng vàng, bất giác lạnh toát sống lưng, quỳ phục xuống, dập đầu lạy, nói:

- Tiểu nhân không biết đại nhân tới, đã mạo phạm hổ uy, tội đáng chết vạn lần.

Lưu công nói:

- Không biết không có tội. Sau này bản bộ đường sẽ tấu lên Thánh thượng, xin cho đệ một chức võ quan.

Hai người ăn bánh xong, lập tức đi nghỉ.

Không biết chuyện sau này sẽ ra sao. Mời quý vị xem tiếp hồi sau.
 
Bên trên