Những Vụ Án Trên Thế Giới

hoahongden12

Active Member
Thể loại : Trinh Thám, Thám Hiểm
Tác Giả : Nhiều tác giả
Mỗi khi có một nạn nhân bị sát hại, thi thể của họ đều có gắn một quân bài, trên có chữ “Alice” viết bằng máu.
Đây là một trong những vụ sát nhân hàng loạt kinh hoàng và bí ẩn nhất trong lịch sử nước Nhật, và cho đến nay người ta vẫn chưa tìm ra lời giải.
Từ năm 1999 đến 2005, trong lòng nước Nhật xảy ra một loạt 5 vụ sát nhân bí ẩn và kỳ lạ. Ở mỗi vụ án, người ta đều tìm thấy một quân bài, trên có viết cái tên “Alice” bằng máu của nạn nhân. Và cho đến nay, quá trình điều tra những vụ án có bí danh Alice Killings đều rơi vào ngõ cụt.
 

hoahongden12

Active Member
Những Vụ Án Trên Thế Giới
Chương 1: Thảm án Alice

Mỗi khi có một nạn nhân bị sát hại, thi thể của họ đều có gắn một quân bài, trên có chữ “Alice” viết bằng máu.

Đây là một trong những vụ sát nhân hàng loạt kinh hoàng và bí ẩn nhất trong lịch sử nước Nhật, và cho đến nay người ta vẫn chưa tìm ra lời giải.

Từ năm 1999 đến 2005, trong lòng nước Nhật xảy ra một loạt 5 vụ sát nhân bí ẩn và kỳ lạ. Ở mỗi vụ án, người ta đều tìm thấy một quân bài, trên có viết cái tên “Alice” bằng máu của nạn nhân. Và cho đến nay, quá trình điều tra những vụ án có bí danh Alice Killings đều rơi vào ngõ cụt.

1. Nạn nhân đầu tiên: Sasaki Megumi

Sasaki Megumi là một người phụ nữ 29 tuổi, chủ của một nhà hàng. Dù nấu ăn rất ngon và tận tụy với công việc nhưng cô lại rất bướng bỉnh, nóng nảy và miệng lưỡi quay quắt. Cô cũng thường tham gia vào nhiều hoạt động xã hội và dự các buổi tiệc.

Vào một buổi tiệc như thế tổ chức tại nhà một người bạn, Megumi đi bộ về nhà vì trong người có chút men và nhà cũng khá gần, từ chối khi có vài người đề nghị chở cô về. Lần cuối cùng người ta nhìn thấy cô là khi cô rời khỏi bữa tiệc vào lúc 1 giờ sáng.

Sáng hôm sau, một cặp vợ chồng đang đi dạo trong một khu rừng nằm cách nhà Megumi khoảng 1,6km thì trông thấy có vết máu trên một con đường mòn rậm rạp, ít người qua lại. Tò mò, họ lần theo dấu máu thì phát hiện thi thể của Megumi bị chặt thành nhiều mảnh, móc trên những cành cây khác nhau.

Khi cảnh sát đến hiện trường, họ phát hiện một quân bài J Bích được nhét trong miệng nạn nhân, trên có chữ “Alice”. Không có dấu vân tay hay DNA nào được tìm thấy. Hiện trường chỉ có một bãi nôn, nhưng người vợ phát hiện ra cái xác khai rằng đó là bãi nôn của cô.

2. Nạn nhân thứ hai: Yamane Akio

Yamane Akio là một ca sĩ ít tiếng tăm, hát cho một ban nhạc chuyên biểu diễn tại các quán bar và các sự kiện cộng đồng. Anh được miêu tả là người tử tế, không bao giờ lên giọng với bất kỳ ai.

Vào đêm ngày 11/02/2001, bạn gái Akio đến nhà để tìm anh thì thấy anh không có ở nhà. Nhiều ngày sau, Akio vẫn bặt vô âm tín, và cảnh sát bắt đầu điều tra. Trong cuốn băng an ninh, họ thấy một người đội mũ trùm lẻn vào nhà qua cửa bên hông, khi ra về mang theo một túi rác lớn, bên trong phồng lên rất lạ. Họ không nhìn thấy mặt hung thủ.

Một tuần sau đó, người chủ của quán bar mà nhóm nhạc thường tới biểu diễn đến mở cửa quán thì trông thấy thi thể Akio gục bên một chiếc bàn. Anh bị bắn vào đầu, thanh quản bị bứt khỏi cổ. Bàn tay anh nắm chặt quân bài K Rô có ghi chữ “Alice” cùng với sợi thanh quản của mình.

3. Nạn nhân thứ ba: Kai Sakura

Kai Sakura là một thiếu nữ đáng yêu, được mọi người yêu mến, có ước mơ trở thành nhà thiết kế thời trang. Nhưng chỉ một tuần trước khi tốt nghiệp trung học, cô bị bắt cóc.

Hai ngày sau khi mất tích, thi thể Sakura được tìm thấy chôn trong một ngôi mộ nông, không có vẻ gì giống như cái xác bị che giấu mà ngược lại, hung thủ muốn cô được tìm thấy. Quân bài Q Chuồn với chữ “Alice” bằng máu được dán trên một cành cây bằng băng dính và cắm phía trên ngôi mộ.

Thi thể Sakura bị cắt xẻo rất dã man. Mắt bị khoét ra khỏi đầu, da bị lột, miệng bị cắt xẻ. Một chiếc vương miện được may vào đầu cô, có lẽ là từ lúc cô vẫn còn sống. Không có dấu hiệu xâm hại, cả trước và sau khi chết.

Đặt bên cạnh xác của cô gái đáng thương là một tờ giấy, trên có những dòng chữ rời rạc vết nghệch ngoạc, một số không thể đọc được. Còn những câu đọc được thì lại khá đáng sợ, chẳng hạn như “Cái chết là một giấc mơ méo mó”, “Nàng sẽ cai trị mãi mãi” hay “Ha! Ha! Những kẻ nào đã chết đều là kẻ may mắn.” Người ta không điều tra ra ở đâu có nét chữ tương tự.

4. Nạn nhân thứ tư và năm: Oshiro Hina và Hayato

Hina và Hayato là hai chị em, rất yêu thương nhau và chưa bao giờ cãi hay đánh nhau. Chị gái Hina rất cứng đầu, còn em trai Hayato thì rất thông minh, học nhảy cóc một lớp, và ngồi cùng lớp với chị.

Ngày 04/04/2005, cả hai chị em được tìm thấy đã chết trên giường vì bị tiêm thuốc độc. Cửa sổ phòng ngủ mở toang, và có lẽ tên sát nhân đã lẻn vào phòng qua lối đó, có đủ thời gian và sự yên tĩnh để giết chết cả hai mà không đánh thức ai dậy. Trên tay của hai chị em, mỗi người cầm nửa lá bài A Cơ, khi ráp lại thành chữ “Alice”. Chỉ có một dấu chân được tìm thấy trên thảm, nhưng không đủ để tìm ra hung thủ.

Một năm sau, người mẹ tự sát vì quá đau buồn. Người cha phải đi điều trị tâm lý vì suy sụp quá nặng trước cái chết của toàn bộ gia đình mình.

Ngay sau cái chết của hai chị em nhà Oshiro, một người đàn ông vô công rồi nghề có tên Suzuki Yuuto bị bắt để điều tra về cả 5 vụ án mạng. Hắn mặc một chiếc áo khoác của nạn nhân thứ hai Yamane Akio, trên có dính một vết máu được xác nhận là của anh. Tuy nhiên, Yuuto lại có vấn đề về thần kinh, khẳng định “một con quỷ màu đen không rõ mặt” đã đưa hắn chiếc áo, và hắn không nhớ mình đang ở đâu lúc những vụ ám sát xảy ra.

Trong lúc đó, một trung tâm cư trú dành cho người vô gia cư nằm cách nhà của nạn nhân thứ ba Kai Sakura 8km, khẳng định Yuuto đang ở chỗ họ vào thời điểm cô bị sát hại. Yuuto được thả tự do và từ đó đến nay người ta không tìm ra bất kỳ kẻ tình nghi nào cả. Vụ án Alice Killings rơi vào bế tắc.
 

hoahongden12

Active Member
Những Vụ Án Trên Thế Giới
Chương 2: Thược Dược Đen

Đã hơn 60 năm kể từ khi vụ án "Thược dược đen" xảy ra nhưng danh tính kẻ giết người vẫn là một ẩn số. Đây cũng được xem là một trong những vụ án không lời giải bí ẩn và nổi tiếng nhất cho tới giờ.

Xác chết bị cưa đôi:

Một thám tử đã bất lực miêu tả cái chết "thược dược đen" bằng một câu: "Càng tìm hiểu sâu, bạn càng chẳng biết gì về vụ án này".

Đó chính là tâm trạng của hàng trăm cảnh sát điều tra cũng như hàng triệu người dân thành phố Los Angeles đã từng theo dõi, chờ đợi kết quả của vụ án tuyệt vọng này.

15 tháng 1 năm 1947 là một ngày trời âm u xám xịt tại Los Angeles, Mỹ. Trong khi đi bộ quanh đại lộ Norton, nằm giữa phố 39 và Coliseum ở trung tâm thành phố cùng cô con gái 3 tuổi, bà nội trợ Betty Bersinger bất chợt nhìn thấy một đôi giầy bên vệ đường.

Lúc mới nhìn, bà Betty nghĩ rằng đó là đôi giầy của một con ma-nơ-canh hỏng bị một cửa hàng nào đó vứt đi. Thế nhưng khi tiến lại gần bà mới kinh hoàng nhìn thấy cảnh tượng mà có lẽ cuộc đời sẽ không thể nào quên được.

Đó là một cơ thể phụ nữ nằm tại một bãi đất trống.

Hai thám tử Harry Hansen và Finis Brown là những người đầu tiên được Sở cảnh sát Los Angeles phái đến hiện trường. Họ phát hiện được một bao xi măng dính máu và một dấu chân giữa những vệt lốp ô tô, ngay gần hiện trường vụ án.

Do cơ thể nạn nhân và đám cỏ xung quanh không dính tí máu nào cùng với những giọt sương bên dưới thi thể nên họ xác định rằng nạn nhân đã bị giết ở nơi khác và từng mảnh xác bị lôi đến khu vực này vào khoảng từ sau 2 giờ sáng - khi nhiệt độ ngoài trời xuống thấp.

Kết luận giám định cho biết nạn nhân chết vì ngạt thở và xuất huyết.

Đáng chú ý hơn cả là dòng chữ được viết bằng son môi đỏ trên thi thể nạn nhân có nội dung: "BD AVENGER" (Người trả thù Black dahlia - Thược dược đen).

Sau khi gọi nhân viên điều tra hạt Los Angeles đến đưa xác nạn nhân về, hai thám tử Harry Hansen và Finis Brown đau đầu với nhiệm vụ nan giải: xác định danh tính nạn nhân.

Những manh mối rất ít, họ chỉ biết nạn nhân có mái tóc nâu nhạt, mắt xanh, cao 1,67 mét, cân nặng khoảng 52 kg.

Nạn nhân là ai?

Vụ án với tính chất quá man rợ đã trở thành nỗi khiếp đảm với người dân nước Mỹ thời bấy giờ. Lúc đó, cảnh sát và báo chí đang có mối quan hệ chặt chẽ: phóng viên lấy tin tức từ cảnh sát và cảnh sát dùng báo chí để lan truyền thông tin, nhờ người dân giúp tìm ra manh mối giải quyết vụ án.

Các thám tử đã đưa cho tờ Los Angeles Examiner dấu vân tay của nạn nhân. Từ đó, tòa soạn báo đã dùng một loại máy là tiền thân của máy fax để gửi bản phóng to dấu vân tay cho trụ sở FBI ở Washington.

Kỹ thuật viên FBI đã so dấu vân tay này với 104 triệu dấu vân tay có trong kho hồ sơ và nhanh chóng phát hiện ra đó là dấu vân tay của một người tên là Elizabeth Short.

Dấu vân tay của Elizabeth Short từng được lưu lại khi cô đảm nhiệm một công việc ở phòng thư từ trong một căn cứ quân sự đóng tại California. Ngoài ra nó còn được lưu trữ trong hồ sơ vì cô uống rượu khi chưa đủ tuổi ở Barbara.

Vì sao Elizabeth Short có biệt danh "thược dược đen" vẫn là điều bí ẩn.

Một số cho rằng bạn bè gọi Elizabeth là "đóa thược dược đen" bởi họ biết cô có niềm yêu thích lạ kì với sắc màu đen huyền bí và thường cài hoa thược dược lên tóc. Số khác cho rằng nó liên quan đến bộ phim "Đóa thược dược đen" khá nổi tiếng năm 1946.

Elizabeth Short sinh ngày 29/7/1924 tại Massachusettes. Sở hữu cặp mắt xanh nước biển, mũi hếch nhỏ nhắn, cặp hông đầy đặn, Elizabeth có một vẻ đẹp nữ tính đặc trưng trong thập niên 40 thế kỷ trước.

Mặc dù xinh đẹp nhưng cô vẫn là một nữ diễn viên không mấy tên tuổi. Sự nghiệp điện ảnh nghèo nàn, có đời tư rối rắm và cùng với đó là mối quan hệ phức tạp với gia đình.

Bố của Elizabeth là ông Cleo Short, vốn là giám đốc điều hành một công ty khá thành công trong lĩnh vực xây sân golf mini. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng của Mỹ năm 1929 đã khiến công ty ông phá sản. Đó là lí do khiến ông bỏ rơi gia đình gồm vợ và 5 người con thơ dại.

19 tuổi, Elizabeth chuyển đến sống cùng cha mình tại Vallejo, thành phố nằm phía trên San Francisco. Elizabeth hi vọng việc chuyển đến California sẽ giúp cô bước chân vào thế giới điện ảnh.

Là một cô gái xinh đẹp, nên không bao giờ chịu nổi cảnh cô đơn. Cô thường xuyên lui tới các câu lạc bộ đêm, cô yêu nhạc, yêu đàn ông và yêu không khí ở đây. Không bao giờ cô ở một mình.

Mọi chuyện cứ thế tiếp diễn cho đến một ngày cuối đông tháng 12 năm 1944 - ngày định mệnh đưa cô đến với Matt Gordon, chàng trai khiến cô được sống trong tình yêu thật sự.

"Con đã gặp người đàn ông con kiếm tìm bấy lâu vào đêm giao thừa. Anh ấy là thiếu tá lục quân Matt Gordon. Anh ấy không giống bất kì người đàn ông nào con từng gặp.

Con đang đắm chìm trong men say của tình yêu dịu ngọt. Anh ấy đã cầu hôn với con. Con hồi hộp chờ mong đến ngày được làm vợ anh", trích thư Elizabeth gửi mẹ là Phoebe Short.

Gặp được tình yêu của cuộc đời cũng là lúc cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 diễn ra ác liệt. Elizabeth phải tạm xa người tình Matt Gordon để anh vào chiến trận.

Những mong chờ ngày người tình trở về hoàn toàn dập tắt vào cuối tháng 8 năm 1945 với tin dữ: Matt đã mất khi chiếc máy bay chở quân nhân gặp tai nạn trên đường trở về từ Ấn Độ.

Cái chết của Matt đã khiến Elizabeth suy sụp. Cô nhốt mình trong phòng nhiều ngày liền và đọc đi đọc lạ những lá thư mà Matt đã gửi từ chiến trường lúc còn sống.

Không đủ mạnh mẽ vượt qua nỗi đau, Elizabeth rơi vào con đường ăn chơi rượu chè và cặp kè đủ loại đàn ông. Từ quân nhân, doanh nhân, người đứng tuổi cho đến những chàng thanh niên mới lớn. Chỉ cần người đó có tiền, cô sẵn lòng lên giường với bất kì ai.

Cuộc sống ăn chơi của Elizabeth cứ thế trôi đi cho đến năm 1946. Sáu tháng cuối cùng của cuộc đời, Elizabeth Short đã sống trong tình trạng lúc nào cũng thiếu tiền.

Cô tìm mọi cách để có chỗ ở không mất tiền hoặc chỉ phải trả càng ít càng tốt. Người ta thấy Elizabeth vật vờ ở hàng chục khách sạn, căn hộ, nhà trọ ở California.

Người cuối cùng nhìn thấy Elizabeth Short còn sống là Robert Manley, một nhân viên kinh doanh 25 tuổi đã có gia đình đồng thời cũng chính là "tình một đêm" của nữ diễn viên trẻ.

Ngày 9/1/1947, Robert lái xe đưa Elizabeth tới khách sạn Biltmore tại Los Angeles. Hai người tạm biệt nhau lúc 18 giờ 30 ở sảnh khách sạn. Đó cũng là lần cuối cùng Manley nhìn thấy Elizabeth còn sống.

Chuyện gì xảy ra trong thời gian một tuần kể từ lúc Elizabeth Short đến Biltmore đến lúc người ta phát hiện ra xác cô vẫn còn là điều bí ẩn. Chỉ có một điều chắc chắn rằng trong 7 ngày này, cô đã có cuộc gặp định mệnh với kẻ giết mình.

Hành trình tìm kiếm thủ phạm

Tang lễ của Elizabeth được cử hành một cách lặng lẽ tại nghĩa trang Mountain View, Oakland ngày 21/1/1947 với sự tham gia của 6 người trong gia đình. Một số cảnh sát được cử đến bảo vệ đám tang, đề phòng hung thủ xuất hiện.

40 cảnh sát khác được điều động để rà soát, lục tung mọi ngóc ngách xung quanh hiện trường nhằm tìm ra bất kỳ manh mối nào, dù chỉ là nhỏ nhất.

10 ngày sau khi tìm thấy thi thể Elizabeth Short, ngày 25/1/1947, chiếc ví da đen ngắn và đôi giầy hở mũi của cô đã được tìm thấy trong một thùng rác cách hiện trường vụ án vài dặm.

Nhân chứng cuối cùng nhìn thấy nạn nhân, tình nhân một đêm Robert Manley đã xác nhận đó là vật dụng của Elizabeth.

Ông nhận ra đôi giày bởi vì ông đã mua chúng cho nhân tìnhh ở San Diego, còn chiếc ví vẫn thơm mùi nước hoa mà Elizabeth đã xức khi họ lái xe từ San Diego tới Los Angeles.

Mặc dù vậy, những thông tin mà cảnh sát thu thập được chỉ dừng lại ở đó, bởi trên hai đồ vật của nạn nhân không có thêm bất kỳ dấu vết gì có thể dẫn đến hung thủ.

Cảnh sát chuyển sang tìm manh mối tại các cửa hàng giặt là trong thành phố để tìm kiếm những bộ quần áo dính máu. Mặt khác, họ tiến hành thẩm vấn người thân, hàng xóm, bạn bè, khách hàng của Elizabeth, người qua đường và thậm chí sinh viên y khoa (với suy luận thủ phạm am hiểu về y học mới dễ dàng cưa đôi xác) để phục vụ cuộc điều tra.

Bước ngoặt của công cuộc phá án đến vào ngày 3/2/1947 khi một gói hàng nặc danh đã được gửi tới tờ Los Angeles Examiner. Đó là hộp bưu kiện nồng nặc mùi xăng mà người gửi đã dùng xóa dấu vân tay của mình từ phong bì.

Bên trong là tư trang và giấy tờ tùy thân của Elizabeth, bao gồm: ảnh, giấy khai sinh, thẻ an sinh xã hội, và cáo phó của Matt Gordon (chồng chưa cưới đã tử trận năm 194). Kèm theo đó là quyển sổ địa chỉ chứa tên của 75 người đàn ông.

Theo suy luận của cảnh sát, người gửi bưu kiện này nhiều khả năng chính là hung thủ và hắn vẫn rất khôn khéo khi không để lại bất kỳ dấu vân tay nào.

Điều đáng ngạc nhiên là khi cảnh sát truy lùng 75 cái tên trong danh sách đó đều là nam giới đã từng qua lại với Elizabeth. Mặc dù vậy, tất cả bọn họ đều chỉ quen biết sơ qua với Elizabeth, thường đi uống cà phê hoặc ăn tối với nhau chứ chưa bao giờ làm chuyện "chăn gối".

Trong suốt một thời gian dài điều tra về cái chết của Elizabeth, có khoảng 60 người, chủ yếu là đàn ông tự nhận mình là hung thủ. Tuy nhiên, cảnh sát không đủ bằng chứng để khẳng định một ai.

"Tình một đêm" của Elizabeth Short là Robert Manley cũng nằm trong dạng tình nghi. Tuy vậy, anh ta lại dễ dàng vượt qua cuộc kiểm tra nói dối của cảnh sát.

Thêm một giả thiết về kẻ sát hại Elizabeth Short được đặt ra trong cuốn sách "Sự thật về vụ giết hại thược dược đen". Trong đó nam diễn viên kiêm tác giả viết sách về tội phạm John Gilmore cho rằng thủ phạm là Jack Wilson, một kẻ nghiện rượu và bị bệnh thích bạo dâm.

Khi Gilmore phỏng vấn Wilson đầu những năm 1980, anh ta đã cung cấp những chi tiết mà chỉ có kẻ sát nhân mới có thể biết, đó là thông tin nạn nhân bị khiếm khuyết phần kín.

Vài ngày trước khi lệnh bắt được đưa ra, Wilson đã chết trong một vụ cháy khách sạn. Cái chết của Wilson khiến mọi hy vọng khám phá ra bí ẩn cái chết của "Thược dược đen" trở nên dang dở.

Từ một nữ diễn viên, người mẫu vô danh, Elizabeth bỗng trở thành nguyên mẫu cho rất nhiều tác phẩm văn học và điện ảnh, trong đó nổi tiếng nhất là tiểu thuyết "The Black Dahlia" của nhà văn James Ellroy và bộ phim cùng tên sản xuất năm 2006.

Cho đến nay, chuyện gì xảy ra với Elizabeth sau khi cô đến khách sạn Biltmore vào ngày 9/1/1947 vẫn còn là một ẩn số.

Gần 70 năm sau vụ việc, kẻ đã giết Elizabeth Short nhiều khả năng đã chết và sẽ không bao giờ lọt lưới pháp luật.
 

hoahongden12

Active Member

Sau 19 năm, tên sát thủ máu lạnh vẫn chưa chính thức trả giá cho tội ác của mình khiến gia đình nạn nhân không thể an lòng.

Tháng 4/1999, tại thành phố Hikari, tỉnh Yamaguchi, Nhật Bản đã xảy ra một vụ giết người tàn nhẫn khiến cả nước chấn động. Được biết, vào 7 giờ tối ngày 14/4/1999, anh Hiroshi Motomura, 23 tuổi trở về nhà thì phát hiện cửa không khóa. Bước vào trong, anh ngạc nhiên khi mọi thứ đều bừa bộn và đặc biệt là không thấy bóng dáng vợ Yayoi Motomura, 23 tuổi và đứa con gái 11 tháng tuổi - Yuka. Linh tính mách bảo điều chẳng lành, Hiroshi đã lục tung căn nhà để tìm vợ con và phát hiện xác cô Yayoi trong tình trạng bán khỏa thân được cuốn trong chiếc chăn đặt trong tủ quần áo. Ngay lập tức anh đã gọi cho cảnh sát để báo án, sau đó thì phát hiện một túi ni lông được đặt ở hộc trên của chiếc tủ, đó chính là xác của con gái 11 tháng tuổi - Yuka.

Ngày 18/4/1999, cảnh sát bắt được thiếu niên 18 tuổi tên Takayuki Otsuki, sinh ngày 15/3/1981. Theo lời thú nhận của bị cáo, vào khoảng 2 giờ chiều ngày 14/4, Takayuki đã cải trang thành công nhân sửa ống nước và đột nhập vào nhà Yayoi. Bị cáo khai rằng, khi vừa vào nhà đã ôm chầm lấy Yayoi nhưng cô phản kháng dữ dội. Tiếp sau đó, Takayuki tiếp tục khống chế nạn nhân bằng cách trói tay, lấy băng keo dán miệng và mũi khiến cô nghẹt thở đến chết. Sau đó, Takayuki đã tiến hành quan hệ với thi thể cô ấy. Cùng lúc đó, đứa con gái 11 tháng tuổi Yuka đang khóc dữ dội và cố gắng leo lên thi thể mẹ. Takayuki sợ tiếng khóc đứa bé sẽ khiến những người hàng xóm chú ý nên đã kéo đứa bé ra khỏi thi thể một lần, rồi hai lần và cuối cùng hắn dùng dây thừng siết đứa bé cho đến chết.

Vụ sát hại tàn nhẫn xảy ra khiến dư luận vô cùng phẫn nộ. Tháng 6/1999, văn phòng công tố quận Yamaguchi đệ đơn khởi tố vụ án lên tòa án tối cao và buộc bị cáo phải chịu án tử hình, tuy nhiên cáo buộc này đã bị bác bỏ vì Takayuki chưa đủ 20 tuổi (tuổi vị thành niên tại Nhật Bản).

Trên phiên tòa xét xử lần đầu tiên vào tháng 3/2000, anh Hiroshi Motomura đã ôm di ảnh vợ và con xuất hiện tại tòa để đòi lại công bằng nhưng bị ngăn cản. Thẩm phán cho rằng, việc gia đình nạn nhân cầm ảnh trên phiên tòa sẽ gây ảnh hưởng đến tâm lý và cảm xúc của bị cáo vị thành niên. Bị cáo cúi đầu xin lỗi gia đình nạn nhân: "Tôi xin lỗi vì đã làm điều không thể được tha thứ".

Cũng trên phiên tòa này, thẩm phán đã bác bỏ tội danh tù chung thân và cho biết, sự hối lỗi của bị cáo có thể được giảm án còn 7 - 8 năm và được bảo vệ bằng luật vị thành niên. Nếu lao động tốt, sẽ được thả tự do. Lời xin lỗi của bị cáo ở trên tòa không biểu hiện sự ăn năn hối cải. Vào thời điểm đó, Hiroshi Motomura đã phẫn nộ tổ chức một buổi họp báo và nói: "Tôi tuyệt vọng với bản án này. Nhân quyền của nạn nhân ở đâu, lợi ích của gia đình nạn nhân ở đâu? Nếu như quyết định của quan tòa là như vậy, thì chỉ cần hắn được ra khỏi tù, tôi sẽ tự tay giết hắn".

Công tố viên của vụ án - Yoshida không thể kiềm chế được sự giận dữ của mình, ông nói: "Tôi có một đứa con gái nhỏ. Tôi không thể tưởng tượng được khi hung thủ lại làm được chuyện tàn nhẫn như thế này với bé gái ấy. Nếu hắn không được trừng phạt thích đáng thì cần công lý để làm gì?". Công tố viên Yoshida quyết tâm cùng gia đình Motomura tìm lại công lý cho nạn nhân. 10 giờ tối hôm đó, công tố viên tham gia một chương trình phỏng vấn trên truyền hình Nhật Bản, nhân cơ hội này ông đã cáo buộc sự bất công của luật pháp Nhật đối với luật bảo vệ trẻ vị thành niên. Câu chuyện đã có tác động mạnh mẽ đến toàn thể người dân, đặc biệt là thủ tưởng Nhật lúc bấy giờ là Keizo Obuchi cũng bày tỏ sự quan tâm sâu sắc đến vụ án này.

Ngày 14/3/2002, vụ án được mở lại và gia đình tiếp tục gửi đơn lên Tòa án tối cao Hiroshima yêu cầu bị cáo phải chịu mức án tử hình nhưng lại bị tiếp tục bác bỏ với lý do, bị cáo phạm tội khi chỉ mới bước sang tuổi 18, suy nghĩ chưa chín chắn. Với sự tác động mạnh mẽ từ dư luận, tòa quyết định vẫn duy trì án chung thân.

Tại phiên tòa thứ 3 diễn ra vào tháng 6/2006, bị cáo vẫn được luật pháp bảo vệ nhưng công tố viên không chịu thua và trình lên lá thư được cho là của bị cáo gửi bạn bè bên ngoài tù. Nội dung trong thư gây phẫn nộ dư luận và cho thấy bị cáo không những không hối cải mà còn coi thường pháp luật.

Ngày 22/4/2008, tại Tòa án tối cao Nhật Bản, với sự ủng hộ của 4000 người dân, công tố viên Yoshida quyết tâm khiến thẩm quán đưa ra mức án cao nhất cho bị cáo. Khác với các phiên tòa trước, trong phiên tòa này, bị cáo Takayuki đột ngột phủ nhận mọi lời cáo buộc trước đó. Công tố viên buộc phải đối mặt với bồi thẩm đoàn gồm 21 luật sư nổi tiếng bào chữa cho Takayuki. Luật sư bào chữa Yoshihiro Yasuda cho biết, bị cáo nói rằng hắn không cố ý giết nạn nhân và con gái vào buổi tối hôm đó. Lý do tại sao việc này không được trình bày ở những phiên tòa trước bởi vì trong thời điểm đó, yêu cầu của bị cáo không được thông qua.

Luật sư cho biết: "Mẹ bị cáo đã qua đời vì tự sát. Quá đau buồn khi không có mẹ bên cạnh, nên bị cáo mong muốn tìm hơi ấm của người mẹ và quyết định đã xông vào nhà ôm chầm lấy nạn nhân. Nhưng vì nạn nhân chống trả nên bị cáo đã giữ nạn nhân lại, cuối cùng khiến nạn nhân chết. Bị cáo không phải vào nhà để hãm hiếp mà là muốn tìm kiếm hơi ấm của người mẹ đã mất".

Còn về hành vi quan hệ với nạn nhân sau khi chết, luật sư bảo vệ rằng: "Bị cáo tin rằng miễn t*ng trùng vào được cơ thể nạn nhân, nạn nhân sẽ sống lại. Do đó, sau khi nạn nhân chết, bị cáo đã có hành vi quan hệ tình dục, nhưng đó không phải là một sự xúc phạm, mà chỉ là một cách để giúp nạn nhân sống lại. Do đó, bị cáo không phải cố ý giết người mà chỉ là hãm hại nạn nhân dẫn đến cái chết. Công tố viên muốn bị cáo bị kết án tử hình nên đã định hình cho bị cáo là một người ác độc".

Tuy nhiên, lời bào chữa của luật sư bị thẩm phán bác bỏ. Sau cùng, phía bên công tố viên đã thắng khi thẩm phán quyết định kết án bị cáo tội tử hình và Takayuki trở thành trường hợp đầu tiên của lịch sử pháp luật Nhật Bản - Trẻ vị thành niên bị kết án tử hình. Tuy nhiên, trong quá trình thụ án đã không được suôn sẻ. Vào ngày 20/02/2012, tòa án tối cao Nhật Bản bác bỏ tội tử hình của Takayuki vì xác định có sai sót trong báo cáo khám nghiệm tử thi của nạn nhân. Năm 2014, Takayuki bị giam tại nhà tù Hiroshima. Cuối năm 2016, Takayuki vẫn còn sống và tiếp tục chờ đợi sự phán quyết.
 

hoahongden12

Active Member
Những Vụ Án Trên Thế Giới
Chương 4: Vụ án Nayoung

Vào lúc 8 giờ 30 sáng ngày 11 tháng 12 năm 2008, Cho Du Sun (lúc đấy 56 tuổi) trong tình trạng say rượu, trên đường trước nhà thờ tại quận Danwon-gu thành phố Ansan đã phát hiện ra bé gái lúc đấy 8 tuổi (tên giả: Kim Nayoung) đang trên đường đi học. Y đã nói với cô bé là có việc phải đi đến nhà thờ, rồi sau đó hắn dắt cô bé vào trong nhà vệ sinh của nhà thờ. Hắn vạch bộ phận sinh dục của mình ra và bảo cô bé hãy rữa nó, nhưng cô bé đã cự tuyệt. Vậy nên hắn đã đấm vào đầu cô bé khiến cô bé khóc toáng lên, hắn xiết cổ cô bé khiến em bất tỉnh. Hắn thực hiện những hành vi giao hợp qua lỗ hậu môn..., sau khi xuất tinh xong vì sợ sự việc bị phát giác, hắn sử dụng ống thông chọc vào hậu môn của bé gái và thụt liên tục để lấy t*ng trùng ở bên trong ra khiến em bị sa ruột... hậu môn, trực tràng, đại tràng của bé gái bị hủy hoại và phải cắt bỏ. Thêm vào đó, hắn còn rửa đầu... của em dưới vòi nước khiến em bị suy giảm thị lực, viêm mũi, viêm màng nhĩ. Sau đó hắn bỏ mặc em trong tình trạng như vậy và dời đi. Bé gái bị chịu chứng tổn thương như là dập xương mũi...tối thiểu phải điều trị chấn thương 8 tuần, và những tổn hại vĩnh viễn thân thể khác như là bị mất hậu môn và 80% âm đ*o

Kết án:

Kẻ gây án trước đó đã có tiền án 17 tội, vào ngày 9 tháng 8 năm 1983 đã từng chịu mức án 3 năm tù giam vì tội hiếp dâm làm bị thương người khác. Ngày 9 tháng 1 năm 2009 y cũng bị khởi tố với tội trạng như vậy, nhưng ngày 27 tháng 3 cùng năm, với lý do gây án trong tình trạng say xỉn suy giảm khả năng làm chủ năng lực hành vi,hắn được tuyên án 12 năm tù năm cho hành vi phạm tội của mình trong phiên xét xử lần thứ 1. Ngày 30 tháng 3 với lý do hành vi phạm tội của y rất nghiêm trọng hắn bị viện kiểm soát kháng án, thế nhưng kết kục kháng cáo bị bác bỏ vào ngày 24 tháng 7. 3 ngày sau ngày 27 tháng 7 viện kiểm soát một lần nữa kháng cá, nhưng vào ngày 24 tháng 9 bị bác bỏ, hắn bị bỏ tù ở nhà tù Choson.

Phản ứng, dư luận xã hội

Ban đầu sự việc không được truyền thông đưa tin nhiều, thế nhưng vào tháng 9 năm 2009, sau khi kênh KBS1 giới thiệu về việc gắn vòng chân theo dõi điện tử đối với tội phạm xâm hại tình dục, thì ngay lập tức đã dấy lên nhiều những bình luận trái chiều về việc kết án đối với tội phạm với đối tượng trẻ nhỏ hay mức độ tàn nhẫn của hành vi phạm tội.

Tội xâm hại tình dục trong trường hợp là trẻ vị thành niên thì mức phạt được được nâng lên thành dưới 15 năm tù giam. Điều này đã làm dấy lên nhiều bình luận trái chiều về việc xử phạt đối với tội phạm với đối tượng là trẻ vị thành niên và tội phạm xâm hại tình dục. Đối với thái độ không hối cải trước tòa án và hành vi phạm tội một cách biến thái đã khiến nhiều người dân cảm thấy căm phẫn, họ đã gửi rất nhiều thư kiến thị trên trang web của quốc hội.

Khi dư luận trở nên căng thẳng, vào ngày 30 tháng 9 năm 2009, tổng thống Lee Myung-bak đã phát biểu như sau trong cuộc họp nội các: “việc đặt vấn đề đối với phán quyết tư pháp không phải là một việc đơn giản, thế nhưng tôi nghĩ rằng việc cách ly cả đời đối với những con người như vậy chẳng phải điều hiển nhiên hay sao”. Trưởng bộ tư pháp cũng làm rõ vấn đề sẽ không có chuyện sẽ phóng thích tù nhân sớm hơn hạn định.

Và, vào ngày 1 tháng 10 trên trang web của hội phụ nữ và ủy viên hội nhân quyền quốc dân, có rất nhiều ý kiến thỉnh cầu việc cải thiện chế độ.

Mặt khác, trên mạng ngày 1 tháng 10 cộng đồng mạng đã làm rõ về bức ảnh được đăng của một người khác hoàn toàn không liên quan tới sự việc nhằm xác định thủ phạm.

Vấn đề tiền trợ cấp

Gia đình nạn nhân đã nhận được bảo hiểm cuộc sống. Và mẹ nạn nhân đã tham gia bảo hiểm vì tương lai của con gái, mỗi tháng đóng 2 vạn 5 nghìn won tiền bảo hiểm.

Bố mẹ em sau sự việc đã bỏ việc, chuyên tâm vào việc trị liệu cho con gái mình, nhận tiền trợ cấp của thành phố Ansan, tiền đi lại và chi phí bệnh viện tự lo. Phía bảo hiểm xã hội cũng thấy đây là một sự việc vô cùng thương tâm nên đã cấp cho gia đình 40 triệu won tiền bảo hiểm, thế nhưng ngay lập tức đã bị thành phố Ansan yêu cầu hoàn lại 6 triệu won tiền viện trợ điều dưỡng đã cấp, trong trường hợp không thực hiện theo yêu cầu sẽ tịch thu tiền bảo hiểm nhà và đã gửi công văn của thị trưởng thành phố Ansan vào tháng 6 năm 2009, thêm vào đó thông báo về gia đinh rằng: với lý do theo nguyên tắc nếu tài khoản ngân hàng có số dư trên 3 triệu won thì sẽ bị loại ra khỏi danh sách được trợ cấp, không được nhận bảo hiểm cuộc sống nữa. Mặc cho bố mẹ bé đã trình bày hoàn cảnh gia đình rằng con gái chịu thương tật vĩnh viễn mất tính năng một phần bộ phận cơ thể, và sẽ phải chịu tổn thương tâm lý trong nhiều năm nhưng phía thành phố vẫn không chấp nhận.

Sau khi thông tin được truyền đi, trên trang web của thành phố đã chịu rất nhiều sự phê phán của dư luận. Vậy nên, phía thành phố đã rút lại quyết định của mình, cấp lại bảo hiểm và mong sẽ hóa giải được hiểu nhầm.

Cải cách luật

Tháng 12 năm 2009, đảng Saenuri chính phủ Hàn Quốc đã nhân sự việc lần này kiến nghị nâng mức phạt đối với tội phạm xâm hại tình dục đối với trẻ em lên tối đa 50 năm, và đồng thời loại bỏ thời hạn hiệu lực truy tố. Thêm vào đó, giảm mức tuổi tối thiểu bị xử phạt từ chưa đủ 14 tuổi xuống 13 tuổi đối với những đối tượng thuộc diện không bị xử phạt tình nghi phạm tội nêu trên, mở rộng phạm vi bố trí camera quan sát trong khu vực bảo hộ nhi đồng, đưa vào chế độ trị liệu triệt sản đối với phạm nhân, công khai ảnh chân dung tội phạm, nâng thời hạn đeo vòng chân theo dõi điện tử lên 30 năm...
 

hoahongden12

Active Member
Những Vụ Án Trên Thế Giới
Chương 5: Sát nhân đồ Lót

John Wayne Glover là một trong những kẻ giết người hàng loạt ghê sợ nhất trong lịch sử tư pháp xứ sở Kangaroo. Với vỏ bọc hoàn hảo, y đã thành công tiếp cận và ra tay sát hại 6 cụ bà cùng vô số vụ tấn công và quấy rồi khác. Báo chí Australia thì đặt cho y cái biệt danh là “sát thủ người già” hay “sát thủ đồ lót” (vì thói quen dùng quần lót của nạn nhân để siết cổ chính họ).

Xác chết đầu tiên mà Cảnh sát tìm thấy là cụ bà Gwendoline Mitchelhill. Trưa ngày 1-3-1989, khi nhìn thấy cụ đang chống gậy dò dẫm từng bước trở về nhà từ cửa hàng, hung thủ nhanh chóng quay xe lại, giắt cây búa vào bụng. Sau đó, hắn theo dõi cụ bà đến lối vào khu dưỡng lão. Khi bà vừa cắm chìa vào ổ, y cầm búa giáng thẳng một cú vào gáy nạn nhân, đánh đập dã man vào đầu, vào thân thể của bà cụ. Sau đó, hắn chạy khỏi hiện trường với chiếc ví có 100USD. Bà Mitchelhill vẫn còn sống khi được hai nam sinh phát hiện và chỉ vài phút sau khi Cảnh sát và xe cứu thương tới nơi, nhưng đã tắt thở sau đó ít phút.

Vụ án đang giẫm chân tại chỗ thì 2 tuần sau, cụ bà Winifred Ashton (84 tuổi) bị phục kích ở lối vào căn hộ, hung thủ tấn công bà bằng búa và ném nạn nhân vào khu vứt rác. Nạn nhân đã hoàn toàn bất tỉnh khi kẻ thủ ác cởi bỏ quần lót và xiết cổ nạn nhân. Mặc dù không hề có hành vi xâm hại tình dục nào song chi tiết man rợ này đã trở thành "danh thiếp" của hung thủ, điều đã mang lại cho y hỗn danh “sát thủ đồ lót” về sau này. Lần này, ví nạn nhân có 100USD. Cảnh sát bắt đầu hiểu ra khả năng họ đang theo dấu một kẻ giết người hàng loạt điên loạn. Các nạn nhân đều già cả, sống ở cùng một khu vực, đều bị tấn công và giết hại theo cùng một cách. Và tất cả đều bị cướp ví.

Chân dung tên “sát nhân đồ lót”

Cũng giống như trong nhiều vụ giết người hàng loạt khác, có vẻ Cảnh sát đã nhiều lần “lướt” qua hung thủ, thậm chí là bắt được y nếu họ tích cực hơn, nhạy bén hơn, hoặc may mắn hơn. Trường hợp này cũng vậy. Tại các khu dưỡng lão, một kẻ nào đó đã quấy rối bà Marjorie Moseley vào ngày 6-6-1989 tại Wesley Gardens, Belrose, nơi cách khá xa Mosman. Bà Moseley đã trình báo vụ việc này rằng có một kẻ nào đó đã thọc tay vào quần bà, tuy nhiên nạn nhân không nhớ được hình dạng của thủ phạm. Đến ngày 26-4, kẻ bệnh hoạn lại mò tới khu dưỡng lão Caroline Chisholm ở Lane Cove gần đó. Hắn lặng lẽ lên tầng, tốc váy một cụ bà và sờ soạng. Ở căn phòng bên cạnh, y kéo tụt váy ngủ một cụ bà khác. Những người phụ nữ này gào khóc kinh hoàng và kẻ này đã bị các nhân viên an ninh thẩm vấn sau đó nhưng lại chuồn mất. Dù Cảnh sát có tới điều tra song không gắn kết chúng với những vụ giết người ở Mosman.

Cảm thấy “bất khả chiến bại”, ngày 8-8-1989, hung thủ lại tiếp tục hành động, y đánh đập cụ Effie Carnie tàn nhẫn tại một khu phố vắng vẻ ở Lindfield, cách không xa Mosman và cướp túi xách của bà. Ngày 6-10, hắn đóng giả làm bác sĩ và quấy rối tình dục đối với Phylis McNeil, một bệnh nhân tại khu dưỡng lão Wybenia ở vịnh Neutral, lân cận Mosman. Đến ngày 18-10, y tìm cách gợi chuyện với cụ bà Doris Cox, 86 tuổi, khi bà trên đường về nhà ở phố Spit, Mosman. Hắn cùng đi với bà vào khu dưỡng lão, dùng toàn sức lực của mình để đập đầu bà Cox vào tường gạch. Nạn nhân đổ sụp ngay lập tức. Sau khi phát hiện trong túi xách của bà Cox không có tiền, y bỏ mặc nạn nhân nằm đợi chết và trở về nhà.

Tuy nhiên, điều kì diệu đã xảy ra khi nạn nhân đã sống sót sau vụ tấn công. Song, do mắc chứng Alzheimer nên bà Cox đã mô tả mơ hồ nhân dạng của thủ phạm, bà khai rằng kẻ tấn công là một thanh niên và thậm chí còn vẽ một bức chân dung thủ phạm. Thông tin sai lệch này đã khiến Cảnh sát gần như đi nhầm đường, đặc biệt là lời khai này phù hợp với phác thảo chân dung thủ phạm của các nhà tâm lý học, rằng kẻ sát nhân khả năng ở tuổi vị thành niên có tâm lý ghét người già. Chính vì thế, toàn bộ lực lượng tập trung vào việc truy tìm một thanh niên có hành động kì lạ hoặc có những mối liên hệ nào đó với các nạn nhân.

"Ác quỷ vùng Mosman" lại tiếp tục gây hoang mang khi ra tay giết bà Margaret Pahud, 85 tuổi, ngày 2-11-1989. Nạn nhân bị đập vào sau gáy bằng một vật rắn khi đang trên đường về nhà trên phố Longueville vắng vẻ. Các bằng chứng pháp y cho thấy, vụ tấn công chỉ kéo dài có vài giây và lực từ các cú đánh đã khiến nạn nhân bị nứt sọ và chết ngay. Hung thủ lấy túi xách của bà Pahud, nhét nó vào trong áo khoác cùng với cây búa gây án và lặng lẽ rời bỏ hiện trường. Không hề có nhân chứng nào dù thi thể của bà Pahud đã được một nữ sinh phát hiện sau đó vài phút. Khi Cảnh sát và xe cứu thương hối hả hú còi tới hiện trường.

57 thám tử kinh nghiệm nhất bang New South Wales được triệu tập và đặt dưới sự chỉ đạo của Thám tử Hagan. Ngày 2-11 là thời điểm tồi tệ nhất trong sự nghiệp Cảnh sát hơn 30 năm của Thám tử Hagan. Sau khi dành nhiều giờ kiểm tra hiện trường vụ án mạng bà Pahud, Hagan quá mệt mỏi sau nhiều ngày mất ngủ. Kết quả là ông đã gần như khuỵu xuống khi nghe báo rằng, họ đã tìm thấy một thi thể khác. Cảnh sát phải xử lý 2 vụ giết người mang đặc trưng của “tên sát nhân người già” trong vòng chưa đầy 24 giờ. Nạn nhân thứ 4 có tên Olive Cleveland, 81 tuổi, sống tại trại dưỡng lão Wesley Gardens ở Belrose. Hung thủ đập đầu bà Cleveland nhiều lần vào tường bê tông, trước khi tụt quần lót nạn nhân để siết cổ. Sau đó, hắn bỏ đi với chỉ 60USD trong túi xách của nạn nhân.

Cảnh sát cảm thấy bất lực

Mọi người đều được huy động để tiến hành lục soát từng cái cây, ngọn cỏ trong khu dưỡng lão cũng như tiến hành thẩm vấn bất kì ai có thể về thông tin liên quan đến kẻ giết người. Thậm chí, họ còn gửi cả hồ sơ liên quan tới Cơ quan điều tra Liên bang Mỹ (FBI) với hy vọng có được một manh mối nào đó. Song, tất cả đều vô vọng. Bờ biển phía Bắc của Sydney không khí nặng như chì. Mọi người tránh đi lại trên đường. Các cụ bà chỉ dám ra đường bằng xe hơi. Tiến bộ thực sự đầu tiên tới từ bộ phận phân tích, quá trình kiểm tra chéo lời khai cuối cùng cũng rút ra một thông tin chung, trong nhiều vụ tấn công, một số nạn nhân nhớ lại đã thấy một người đàn ông trung niên, to lớn bệ vệ với mái tóc muối tiêu. Mãi đến lúc này, Cảnh sát mới thấy rằng họ đang truy tìm lầm đối tượng, kẻ giết người sở dĩ gây cảm giác “thoắt ẩn thoắt hiện” là bởi hắn thuộc mẫu người không mấy thu hút sự chú ý của người khác. Thế nhưng, kẻ tình nghi còn chưa bắt được thì xác chết lại liên tiếp xuất hiện.

Vụ sát nhân thứ ba trong tháng

Ngày 23-11, tên sát thủ phát hiện cụ bà 92 tuổi, Muriel Falconer đang chật vật đi trên phố với một túi đồ nặng. Hắn ngay lập tức quay xe, lấy búa, găng tay và bám theo nạn nhân đến tận trước cửa nhà. Do bà Falconer bị điếc và lòa nên đã không nhận ra có người xuất hiện ở phía sau mình. Ngay khi cửa được mở, hắn đã dùng một tay bịt mồm, còn tay kia đập nhiều nhát vào đầu nạn nhân cho đến khi bà ngã khuỵu. Y khép cửa, lục soát ví tiền và ngôi nhà rồi bỏ đi với 100USD. Phải đến tận chiều tối hôm sau, thi thể nạn nhân mới được phát hiện khi người hàng xóm tới thăm hỏi. Và lẽ ra đây là nạn nhân cuối cùng.

Gây án quá dễ dàng, rốt cục hung thủ cũng đã phạm sai lầm

Ngày 11-1-1990, có một kẻ đột nhập vào một phòng bệnh trọng của Bệnh viện Greenwich, nơi có 4 cụ bà ốm yếu nằm trên giường. Y bước đến giường và sàm sỡ cụ Daisy Roberts, một bệnh nhân ung thư thời kỳ cuối. Nạn nhân hốt hoảng bấm chuông báo động ở đầu giường. Một nữ y tá đã chạy đến. Kẻ đột nhập vội vã bỏ trốn nhưng cô này đã kịp ghi số xe của thủ phạm. Đáng ngạc nhiên là phải 3 tuần sau, thông tin này mới tới tai của tổ chuyên án. Tuy nhiên, dù sao người ta cũng tìm ra tên của nghi phạm: John Wayne Glover, nhân viên bán bánh, đã lập gia đình, có hai con gái, sống ở khu Mosman, ngoại ô Sydney và ngoại hình hoàn toàn phù hợp với mô tả của các nạn nhân.

Các thám tử bắt đầu tiến hành thẩm vấn Glover. Hắn phủ nhận việc mình là “sát thủ đồ lót”, do không có bằng chứng vững chắc để buộc tội nên nhóm điều tra quyết định lựa chọn phương án chờ đợi cho đến khi Glover hồi phục và tự lộ mặt, một quyết định mà sau này đã cho thấy là hoàn toàn sai lầm. Các thám tử được cử theo dõi Glover 24/24.

Sáng 19-3, Glover đến nhà bà Joan Sinclair lúc 10 giờ. Cảnh sát theo dõi nghĩ đây là một cuộc viếng thăm bình thường và quyết định chờ đợi bên ngoài. Tuy nhiên, thời gian trôi qua mà không hề có bất kì dấu hiệu nào cho thấy Glover rời khỏi nhà. Vì thế đến 18 giờ, lo lắng có điều gì đó bất ổn đã xảy ra, Trưởng nhóm điều tra Hagan quyết định cho cấp dưới vào nhà. Đáng buồn là Cảnh sát phát hiện thi thể bà Sinclair. Đầu nạn nhân bị đánh bằng búa, được bọc lại bằng những tấm khăn bông. Bà ta bị lột trần từ lưng trở xuống và chiếc quần lót quấn quanh cổ. Rõ ràng đây là hành động giết người của "Ác quỷ vùng Mosmon". Một người đàn ông bệ vệ với mái tóc bạc, trần truồng nằm bất tỉnh trong bồn tắm. Cổ tay bị rạch và không khí sặc mùi rượu, nôn mửa. Hắn chính là John Wayne Glover. Tự sát bất thành, hắn đã thú nhận về mọi hành vi phạm tội của mình. Vợ con của Glover đều gần như chết sững khi biết tin chồng và cha mình đã bị buộc tội giết sáu cụ bà. Họ không thể tin được Glover lại là "kẻ giết người già" khét tiếng.
 

hoahongden12

Active Member

Cảnh sát London (Anh) không giấu nổi sự ghê sợ khi nhìn hiện trường nơi một cậu bé người châu Phi bị tra tấn và sát hại bởi một lý do như thời Trung cổ - nghi là phù thủy. Kinh khủng hơn, kẻ thủ ác chính là chị gái lớn (chị ruột) của cậu cùng với bạn trai là một kẻ bị ám ảnh bởi phép phù thủy.

Cậu bé Kristy Bamu đã bị chính chị gái mình, Magalie Bamu và bạn trai Eric Bikubi tra tấn suốt 4 ngày đêm rồi bị dìm xuống nước cho đến chết vì chúng nghĩ cậu bé có phép thuật phù thủy. Hai nạn nhân khác thoát chết nhưng bị đánh bầm dập cũng đều là anh chị em ruột, Kelly Bamu, 21 tuổi và một em khác không được nêu tên chỉ mới 11 tuổi. Mọi chuyện bắt đầu vào ngày 16-12, khi Kelly cùng Kristy và 3 người anh chị em khác từ Paris tới London để nghỉ Giáng sinh với chị gái. Mọi chuyện tốt đẹp cho đến khi Eric và Magalie buộc tội Kelly, Kristy và một cô em gái là phù thủy chỉ vì chiếc quần lót của hắn ta bỗng nhiên bị ướt.

Trong 4 ngày, cả ba liên tục bị hành hạ, đặc biệt là cậu em út Kristy. Cậu bị đánh đập bằng đủ loại hung khí, từ búa, đục, kìm đến gậy sắt để xua đuổi linh hồn ma quỷ. Sau nhiều trận đòn dã man, không cho ngủ và ăn uống gì cả, Kristy sợ hãi nói bừa mình là phù thủy nhưng mọi chuyện vẫn không thay đổi. Cuối cùng, Kristy phải van xin được chết để khỏi tiếp tục chịu đau đớn thể xác.

“Magalie và Eric nói rằng chiếc quần đã bị yểm bùa", Kelly nói trước phiên tòa. "Tôi đã nhắc đi nhắc lại rằng chúng tôi không phải là phù thủy. Chúng tôi đến đây để quây quần bên gia đình vào dịp Giáng sinh. Tôi không biết họ nghĩ gì nữa. Họ bị ám ảnh bởi suy nghĩ chúng tôi đến đây để giết họ". Ba chị em bị buộc phải cầu nguyện suốt ngày đêm bằng tiếng Lingala để giải bùa chú. Họ không được ăn, ngủ hay thậm chí đi vệ sinh. Kelly cho biết, Magalie đã đấm vào mặt cô và hoàn toàn dửng dưng trước việc đứa em út bị đánh đập. "Chị ta không hề nhận ra những điều sai trái mình đã làm. Kristy liên tục cầu xin được tha thứ nhưng Magalie hoàn toàn không làm gì, chị ta thậm chí không nhấc một ngón tay. Tôi chắc chắn cho đến giờ, chị ta vẫn tin rằng chúng tôi là phù thủy”.

Cuối cùng, vào đúng ngày Giáng sinh năm 2010, Kristy đã bị Bikubi dìm trong bồn tắm đầy nước cho đến chết. Khám nghiệm tử thi cho thấy, Kristy bị tổng cộng khoảng 101 vết thương chí mạng khắp người với những vết cắt sâu và mất vài cái răng. Mặc dù đã được Kristy báo tin qua điện thoại nhiều lần song cha mẹ cậu bé chỉ bay đến London sau lễ Giáng sinh vài hôm và tất cả đã quá muộn. Thậm chí, Bikubi cũng có nói với cha của nạn nhân Kristy rằng con trai của ông là phù thủy nên sẽ bị giết chết nếu ông không mau chóng đến đón cậu bé. Khi Kristy đã ngừng thở, Kelly nói Bikubi có cố hô hấp nhân tạo và gọi cứu thương nhưng cậu bé đã chết trước khi nhân viên y tế đến nơi.

Trước Tòa, Bikubi nhận tội đã giết chết Kristy song lại tự bào chữa rằng hắn mắc chứng bệnh tâm thần phân liệt dẫn đến hoang tưởng nên đã "ngộ sát". Tuy nhiên, bồi thẩm đoàn nhận định rằng Bikubi không hề điên loạn khi ra tay giết chết cậu bé. Theo hồ sơ của Cảnh sát, ngay từ khi còn nhỏ, Bikubi đã bị ám ảnh bởi chuyện phù thủy và luôn sống trong nỗi sợ hãi rằng mình sẽ bị phép thuật giết chết. Lúc lên 7 tuổi, Bikubi nhập cư vào nước Anh và khi lớn lên hắn ta tin bản thân có nhiệm vụ chiến đấu chống lại phù thủy. Kể từ đó, Bikubi hay cầu nguyện căng thẳng hơn, nghiên cứu về phù thủy trên Internet và thường xuyên viếng thăm cộng đồng linh mục Cơ Đốc giáo chính thống người Nigeria ở Bắc London.

Terry Sharpe, sỹ quan Cảnh sát thuộc Dự án Violet - Đội điều tra được thành lập để giải quyết những vụ việc liên quan tệ nạn phù thủy ở Anh cho biết, Cảnh sát London đã tiến hành điều tra 83 vụ bạo hành trẻ em xuất phát từ niềm tin sai lạc này trong 10 năm qua, trung bình khoảng 8 vụ/năm. Chính quyền Anh bắt đầu quan tâm đến vấn đề này vào năm 2000 sau vụ tra tấn dã man rồi sát hại một cậu bé 8 tuổi người Nigeria nhập cư vào Anh. Nguyên nhân vụ việc là người dì và bạn trai của cô ta tin rằng Climbie là phù thủy. Các chuyên gia cho rằng những vụ được Cảnh sát điều tra thật ra mới chỉ là bề nổi, bởi vì còn rất nhiều vụ trẻ em bị xâm hại thân thể một cách tàn bạo xảy ra mà không được báo với Cảnh sát hay chính quyền địa phương. Tiến sĩ Richard Hoskins, chuyên gia về châu Phi có 25 năm kinh nghiệm nghiên cứu tệ nạn phù thủy nhận định khi được mời làm chứng tại Tòa rằng, mức độ trầm trọng của vấn đề là điều mà chính quyền Anh cần phải thừa nhận trước khi có hành động thiết thực để giải quyết. Song song với đó, Debbie Ariyo, lãnh đạo Tổ chức Liên hiệp người châu Phi chống bạo hành trẻ em (AFRUCA) đã lên tiếng kêu gọi chính quyền Anh hành động mạnh tay hơn nữa để giải quyết triệt để vấn đề niềm tin phù thủy đang ngày càng rộ lên ở nước này.
 

hoahongden12

Active Member

Dorothy Jane Scott là bà mẹ đơn thân 32 tuổi, làm việc trong vai trò thư ký của một công ty ở thành phố Anaheim, tiểu bang California, Mỹ. Công ty này chỉ cách Disneyland nổi tiếng một dãy phố.

Dorothy là người trầm tính, ít nói. Cô theo đạo, không thích hẹn hò và hầu như không rời khỏi nhà vào dịp cuối tuần. Cô làm việc chăm chỉ, tử tế và tận tâm.

Những cuộc gọi bí ẩn

Trong vài tháng trời liên tục, Dorothy bị một kẻ lạ mặt gọi điện quấy rối. Cuộc gọi đến vào lúc đêm hoặc lúc Dorothy đi làm. Dù nghe giọng rất quen nhưng bà mẹ đơn thân không nhận ra đó là ai. Đôi lúc kẻ lạ mặt nói rất tình cảm và ấm áp; lúc khác hắn nổi khùng và giận dữ.

Kẻ lạ mặt nói rằng hắn đang theo dõi Dorothy và sẵn sàng cung cấp thông tin chi tiết về gia đình cô để chứng minh lời mình nói là sự thật. Quá lo lắng, Dorothy bắt đầu học karate và các lớp tự vệ. Cô cân nhắc mua một khẩu súng đề phòng tình huống bất trắc ập đến.

Một đêm ngày 28.5.1980, Dorothy để đứa con 4 tuổi tên Shawn ở nhà bố mẹ đẻ rồi tới một buổi họp tại công ty. Trong phiên họp, đồng nghiệp Conrad Bostron bất ngờ có vết mẩn đỏ trên da và tình thế ngày càng nguy cấp. Dorothy quyết định đưa Conrad vào viện. Một đồng nghiệp khác tên Pam Head cũng đi cùng.

Ba người có mặt ở viện và bác sĩ chẩn đoán Conrad bị một con nhện góa phụ đen đốt. Trước khi xuất viện, Pam ở lại cùng Conrad để hoàn tất một số giấy tờ và lấy đơn thuốc. Dorothy ra ngoài lấy xe. Cô biến mất từ đó không một dấu vết.

Pam và Conrad lo lắng khi thấy bạn mình không quay trở về lúc giấy tờ đã làm xong xuôi. Một lúc lâu sau, họ thấy chiếc xe của Dorothy xuất hiện nhưng lao với vận tốc chóng mặt. Nó xoay đầu đột ngột và biến mất vào màn đêm.

Pam và Conrad đuổi theo chiếc xe, vẫy tay gọi Dorothy nhưng không được. Đèn pha chiếc xe tắt đột ngột. Hai đồng nghiệp cho rằng con trai của Dorothy gặp sự cố nên họ đợi thêm 2 tiếng nữa. Khi gọi cho bố mẹ của Dorothy, họ nói rằng con gái mình vẫn chưa về nhà sau khi để con trai ở lại.

Mọi người gọi cho cảnh sát. Vài tiếng sau, chiếc xe của Dorothy được phát hiện đang cháy ngùn ngụt gần đó. Không có dấu hiệu của Dorothy trong xe. Mọi chuyện ngày càng kì quái.

Một tuần sau, bà Vera, mẹ của Dorothy nhận được điện thoại. Đầu dây bên kia là một giọng nam giới, hỏi: “Bà có biết Dorothy Scott không?”. Bà Vera trả lời có. Người lạ mặt đáp: “Tôi bắt được cô ta rồi” và cúp máy giữa chừng.

Cảnh sát biết tin và yêu cầu nhà Dorothy không nói với báo chí. Tuy nhiên, sau đó vài tuần dấu vết của Dorothy vẫn biệt tăm, ông Jacob đã gửi thông tin sự biến mất kì bí của con gái cho báo địa phương.

Vào ngày tờ báo địa phương đăng tin, chủ bút Pat Riley nhận được một cuộc điện bất thường: “Tao giết nó rồi. Tao đã giết Dorothy Scott. Nó là người yêu của tao. Tao phát hiện nó ngoại tình với thằng khác. Nó phủ nhận và thế là tao giết luôn”.

Kẻ lạ mặt cung cấp thông tin về đặc điểm nhận dạng Dorothy trong ngày cô biến mất để chứng minh mình nói đúng. Hắn nói rằng Dorothy đã gọi cho hắn từ bệnh viện. Dù vậy, đồng nghiệp Pam khẳng định không hề thấy Dorothy gọi điện cho bất kì ai cho tới lúc đi lấy xe hơi.

Thứ Tư hàng tuần

Trong 4 năm sau đó, cứ vào thứ Tư hằng tuần, bố mẹ Dorothy lại nhận được các cuộc gọi bí ẩn. Kẻ gọi điện hỏi Dorothy có nhà không và đều khẳng định đã giết bà mẹ trẻ. Hoặc đơn giản, hắn nói gọn lỏn: “Tao bắt nó rồi”. Các cuộc gọi luôn xuất hiện lúc bà Vera ở nhà một mình. Cảnh sát cố gắng theo dõi điện thoại và truy tìm dấu vết kẻ tình nghi nhưng hắn chỉ gọi trong vài dây rồi cúp máy.

Cuộc gọi cuối cùng là vào tháng 4.1984. Khi đó, người nghe máy là ông bố Jacob. Có lẽ kẻ lạ mặt cho rằng gia đình nhà Dorothy đã chuyển đi nên không gọi tiếp.

Tháng 8.1984, tại một vùng núi đá trập trùng ở phía bắc Anaheim, một công nhân xây dựng phát hiện ra một mảnh xương. Ban đầu, anh này nghĩ rằng đó là xương chó nhưng càng đào sâu bên dưới, những chi tiết của bộ xương người càng hiện rõ.

Bà Vera nhận được điện thoại từ cảnh sát và thông báo rằng đó chính là bộ xương của con gái bà, Dorothy. Bên cạnh thi hài là chiếc đồng hồ và chiếc nhẫn. Đồng hồ ngừng ở lúc 12 giờ 30 phút trưa ngày 29.5.1980, một ngày sau khi Dorothy mất tích.

Sau khi xương của Dorothy được tìm thấy, gia đình bà Vera nhận thêm hai cuộc điện thoại nữa với cùng nội dung: “Nó có nhà không?”. Sau đó, kẻ lạ mặt không gọi thêm bất kì cuộc nào. Điều tra chìm vào bí ẩn suốt 36 năm qua.
 

hoahongden12

Active Member
Những Vụ Án Trên Thế Giới
Chương 8: Hai người đàn ông đeo mặt nạ chì

Xác người tìm thấy mỗi ngày và có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn tới những cái chết như vậy. Tuy nhiên, hầu hết đều là tự sát, bị giết, bệnh tật hoặc tai nạn. Vụ án mặt nạ chì ở Brazil là một trong những trường hợp cực kì lạ lùng đến nay chưa có lời giải thỏa đáng.

Ngày 17.8.1966, hai người đàn ông Brazil rời khỏi cửa hàng Campos dos Goytacazes với ý định mua xe hơi và phụ tùng. Điều này lí giải vì sao họ cầm rất nhiều tiền trong tay. Họ vào một quán bar uống nước trước khi rời đi. Nhân viên pha chế rất chú ý tới hai người này vì họ tỏ rõ sự vội vã và lúc nào cũng nhìn đồng hồ. Đó là lần cuối cùng anh nhìn thấy họ còn sống.

Ngày 20.8.1966, một cậu bé đang chơi thả diều ở đồi Vintem, ngoại ô thành phố Rio de Janeiro thì bắt gặp 2 người đàn ông nằm úp mặt xuống đất. Cậu bé báo ngay với cảnh sát địa phương nhưng tới ngày hôm sau công an mới tiếp cận được hiện trường do trước đó mưa lớn. Khi họ tới nơi, cảnh tượng vô cùng hãi hùng.

Hai người đàn ông mặc những bộ vest sang trọng nhưng phủ ngoài bởi áo mưa. Tuy nhiên, đáng chú ý là cả hai đều đeo mặt nạ chì che kín mặt. Một số người giải thích rằng mặt nạ chì để tránh phóng xạ. Số khác cho rằng nó là một mốt thời trang.

Hai người đàn ông được xác định là Manoel Pereira da Cruz và Miguel Jose Viana. Cạnh hai thi thể này, cảnh sát tìm thấy vỏ chai nước, hai khăn tắm và một quyển sổ tay. Toàn bộ số tiền họ mang bên người đã biến mất.

Quyển sổ tay chứa nhiều thông tin liên quan tới nghề nghiệp của họ - kĩ sư điện tử. Một trang chứa những dòng thông tin bí ẩn có thể giải đáp cái chết bí ẩn: “16 giờ 30 ở địa điểm đã hẹn. 18 giờ 30 uống thuốc. Sau khi có tác dụng đợi tín hiệu”.

Không hề có dấu hiệu nào của sự đánh đập, tra tấn, bắn giết với hai thi thể đàn ông lạ mặt. Dù sổ tay ghi là uống thuốc nhưng khám nghiệm tử thi không hề cho thấy họ có dấu hiệu bị đầu độc. Một nhân viên pháp y cho rằng họ qua đời vì làm việc quá sức.

Cuộc điều tra được các nhà báo chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư thực hiện cho thấy họ là thành viên của một tổ chức chuyên thực hiện các nghi lễ tà giáo.Với những người là kĩ sư điện tử, họ rất ngưỡng mộ tổ chức này. Một tài liệu có ghi trước đó 4 năm, một kĩ sư từng tử nạn trên đồi với lí do bí ẩn tương tự. Lúc chết, người này đeo mặt nạ chì màu đen.

Một người bạn của hai người này nói rằng tổ chức tôn giáo này thích làm các nghi thức siêu nhiên hoặc viễn tưởng. Họ từng lắp đặt một chiếc máy trong vườn nhà một thành viên để thực hiện nghi thức này.

Khi cảnh sát lục soát nhà của hai người đàn ông ở Vintem, họ phát hiện các dụng cụ cần thiết để chế mặt nạ chì và một quyển sách nói về công trình “nguồn siêu sáng” mà họ đang mong mỏi đạt được. Có thể công trình “nguồn siêu sáng” này lí giải phần nào việc họ đeo mặt nạ chì kín mắt.

Lí do thực sự là gì thì cái chết của họ đến nay vẫn là bí ẩn chưa thể giải mã. Dù họ dùng thuốc quá liều hay đã liên lạc với một thực thể nào đó ngoài trái đất, bí ẩn họ để lại là quá sức giải đáp của con người.
 

hoahongden12

Active Member

Là một trong số những tên giết người hàng loạt khét tiếng nhất nước Mỹ vào những năm 1960, kẻ mang bí danh Zodiac (cung hoàng đạo) vẫn là một ẩn số với nước Mỹ cho tới tận bây giờ.

Hơn 5 thập kỷ đã trôi qua kể từ ngày nước Mỹ bị chấn động bởi câu chuyện của tên sát thủ Zodiac (cung hoàng đạo), người ta vẫn chưa biết kẻ sát nhân máu lạnh giết chết 37 mạng người trong vòng gần 10 năm kia là ai. Trên thực tế, dù Zodiac đã viết thư gửi tới các tờ báo và xác nhận mình là hung thủ của 37 vụ giết người, cảnh sát mới xác nhận được 7 vụ với 5 nạn nhân tử vong.

Có lẽ giờ đây, Zodiac đã nằm sâu dưới đất nhưng tội ác của hắn vẫn được người ta quật lên với nhiều tình tiết rùng mình liên quan tới các vụ giết người.

Các vụ giết người rùng rợn

Vụ án đầu tiên được cho là gây nên bởi tên sát nhân Zodiac diễn ra vào ngày 30/10/1966 với nạn nhân là nữ sinh Cheri Jo Bates (18 tuổi). Cô đã bị giết hại dã man trong khuôn viên trường Cao đẳng thành phố Riverside, bang California.

Khám nghiệm pháp y không phát hiện các dấu hiệu của hãm hiếp. Cảnh sát cũng không thấy đồ đạc quý giá nào bị mất cả. Cheri bị đâm 3 nhát dao vào ngực, 1 ở lưng và 7 nhát vào cổ. Theo cảnh sát, vết thương nghiêm trọng ở cổ khiến đầu của nạn nhân gần như đứt lìa.

Một tháng sau, trong khi cảnh sát vẫn chưa tìm ra được hung thủ là ai thì một lá thư "thú tội" được gửi tới với những lời miêu tả cụ thể chi tiết vụ giết người. Kèm trong thư là một lời thách thức: "hãy cẩn thận. Ta sẽ đi theo để rình mò các cô gái của các ngươi ngay bây giờ."

Sau đó, các vụ giết người của tên sát nhân Zodiac tiếp tục diễn ra. Ngày 8/8/1969, một vụ giết hai sinh viên đã xảy ra tại thị trấn Napa, California. Nạn nhân cũng bị giết theo những cách tương tự: đâm nhiều nhát dao vào người. Hắn ta đã vẽ lại ký hiệu tròn và chữ thập trên xe của nạn nhân rồi mới bỏ đi.

Khoảng 7:40 tối cùng ngày, cảnh sát khu vực lại nhận được một cuộc điện thoại thông báo về vụ giết người. Kẻ sát nhân đã thông báo qua điện thoại địa điểm gây án đồng thời nhận mình chính là hung thủ khi được hỏi.

Những vụ giết người liên tiếp diễn ra sau đó với 5 nạn nhân nữa được xác định tại các địa điểm khác nhau như Benicia, Vallejo, hồ Berryessa, và San Francisco. Nhiều nạn nhân có kết cục thê thảm khi bị đâm nhiều nhát tới nỗi không nhận ra gương mặt. Nhiều vụ giết người sau đó không thể xác nhận và khẳng định là của sát thủ Zodiac vì công nghệ điều tra và pháp y thời bấy giờ. Tuy nhiên, nhiều người tin rằng con số 37 nạn nhân mà Zodiac cung cấp là hoàn toàn có cơ sở.

Cùng một cách thức giết người rồi gọi điện thông báo kèm theo những mật thư khiến cảnh sát đau đầu, Zodiac đã reo rắc nỗi sợ hãi lên toàn nước Mỹ.

Mật thư không lời giải

Điều đặc biệt và cũng là ẩn số của tên sát nhân chính là những bức mật thư Zodiac để lại cho cảnh sát và giới báo chí. Zodiac cho biết nếu có thể giải thành công những bức mật thư đó, họ sẽ biết hắn ta là ai.

Sau vụ giết người thứ 2, Zodiac đã gửi 3 phần thư đến 3 tờ báo của Mỹ. 3 bức thư lần lượt được công bố trên 3 tờ Vallejo Times Herald, San Francisco Chronicle, và San Francisco Examiner. Năm 1969, cảnh sát đã giải mã được thông điệp từ bức mật thư này với động cơ giết người của Zodiac.

"Tôi thích giết người vì nó thú vị hơn đi săn động vật... Khi tôi lên thiên đường sau khi chết, họ sẽ trở thành những nô lệ phục vụ cho tôi..." (một phần trong bức mật thư 408 từ đầu tiên của Zodiac).

Tuy nhiên, đó là mật thư duy nhất mà cảnh sát có thể giải mãi cho tới nay. Sau đấy, Zodiac còn gửi thêm nhiều lá thư về kế hoạch các vụ gây án, địa điểm diễn ra, đối tượng bị giết. Lúc nào cũng vậy, Zodiac không quên kèm theo biểu tượng hình tròn và chữ thập bên trong.

Ngày 8/11/1969, một bức mật thư 340 từ nữa được gửi tới nhưng đến nay, vẫn chưa ai có thể giải được bài toán này và tìm ra hung thủ thật sự là ai. Dù nhiều lời giải thích đã được đưa ra nhưng xem chừng vẫn chưa hợp lý và chính xác.

Cuộc truy quét trên 2.500 đối tượng

Trong một vụ giết người, tên sát nhân Zodiac đã bị nhận diên với lời miêu tả của nhân chứng: "tên sát thủ này là một thanh niên da trắng, khoảng 25-30 tuổi, cao khoảng 1,8 m, trông y rất khỏe mạnh, để tóc ngắn màu nâu và đeo một cặp kính gọng to".

Ngay sau đó, cảnh sát đã lùng hung thủ gắt gao với hơn 2.500 nghi phạm tiềm năng nhưng tất cả đều thất bại. Nhiều người sau đó cũng tự xưng là Zodiac, nhận mình chính là hung thủ của các vụ trọng án đó nhưng cảnh sát cho biết đều không phải. Kẻ sát nhân thực sự vẫn không thể bị lùng ra và vụ án mãi trở thành câu chuyện bí ẩn của thế kỷ 20.

Tuy nhiên, điều đó chưa chấm dứt cho tới tận bây giờ...

Ám ảnh mang tên "Zodiac"

Ngày 21/6/2008, một thi thể bị sát hại dã man đã được tìm thấy tại một khách sạn thành phố Fayetteville, bang Colorado, Mỹ. Khi nhân viên khách sạn thông báo tới cảnh sát, họ đã phát hiện một phụ nữ đang nằm sõng soài trong bồn cầu không một mảnh vải che thân. Theo điều tra pháp y, cô gái đã chết được vài ngày.

Trong khi khám nghiệm hiện trường, cảnh sát đã chú ý tới một chiếc gương mà kẻ nào đó đã dùng son để vẽ lên dấu hiệu hình tròn và dấu cộng, dấu hiệu nổi tiếng của tên sát nhân Zodiac gần 40 năm về trước. Sau đó, cảnh sát cũng nhận được những bức thư, lời nhắn thú nhận tội trạng y hệt tên sát nhân Zodiac năm nào.

Dù khả năng kẻ giết người năm 2008 đó không phải sát nhân Zodiac của gần 40 năm về trước, nhiều người vẫn lo sợ về tầm ảnh hưởng của sát thủ Zodiac tới tâm lý người dân và những kẻ phạm tội khác, người muốn mượn danh Zodiac để nổi tiếng theo cách đầy ám ảnh và rùng rợn.
 

hoahongden12

Active Member
Những Vụ Án Trên Thế Giới
Chương 10: Vụ án Hello Kitty

Năm 1999, vụ án giết người Hello Kitty trở nên chấn động tại Hong Kong khi nạn nhân là một nữ tiếp viên 23 tuổi bị tra tấn, giết hại dã man. Điều khiến nhiều người kinh sợ là chi tiết chiếc đầu của nạn nhân được giấu bên trong một con thú nhồi bông Hello Kitty.

Với nhiều người, Hong Kong vẫn được coi là thành phố an toàn khi an ninh luôn được thắt chặt và nhiều tầng lớp dân trí thức. Do vậy, các vụ việc giết người, cướp của gần như không mấy khi xảy ra tại thành phố này. Tuy nhiên, năm 1999, vụ án bắt cóc, tra tấn và giết hại dã man một cô gái 23 tuổi đã gây chấn động toàn bộ đặc khu Hong Kong, Trung Quốc.

Vụ án được vén màn khi một cô gái 14 tuổi tên A Fang, bạn gái của một trong 3 kẻ giết người đã kể với nhân viên xã hội về việc cô hay gặp ác mộng với những hình ảnh lặp đi lặp lại về một cô gái đòi lại đầu.

Ngày 24/5/1999, vụ việc được các nhân viên xã hội báo cho cảnh sát nhưng cảnh sát cho rằng đó là một câu chuyện hoang đường. Tuy nhiên, trước sự quyết liệt của A Fang, cảnh sát Hong Kong cũng thử đến hiện trường và những chi tiết kinh hoàng về vụ giết người đã được hé lộ.

Những dấu vết của vụ án giết người đã được xác định trong căn hộ với nhiều phần thi thể của nạn nhân được giấu trong tủ lạnh. Trên hết, khi cảnh sát phát hiện ra một con thú nhồi bông Hello Kitty có chiếc đầu người bên trong, tất cả đã hết sức kinh ngạc. Từ chi tiết rùng rợn đó, vụ án đã được đặt tên "vụ giết người Hello Kitty".

Ngay sau đó, cảnh sát đã vào cuộc điều tra để đưa ba kẻ giết người man rợ ra ánh sáng và nhiều tình tiết khác của vụ án đã được tiết lộ.

Lật lại vụ án chấn động

Ngày 17/3/1999, một nhóm 3 người đàn ông đã bắt cóc Fan Man-Yee, hay còn được biết đến với cái tên Ah Map. Cô gái 23 tuổi này làm nghề gái mại dâm và là mẹ của cậu con trai 1 tuổi. Trong khi đang làm việc tại một nhà thổ khu Kowloon, Hong Kong, cô đã gặp một tay anh chị tên Chan Man-lok. Sau này, Chan trở thành khách quen của cô và 2 người thường xuyên qua lại.

Một lần, Ah Map đã thực hiện một việc làm sai lầm khi ăn trộm ví tiền của Chan với 20,000 HKD (khoảng 60 triệu VNĐ). Tuy nhiên Ah Map đã không biết rằng, cô phải trả số tiền đó bằng cả mạng sống của mình.

Khi Chan yêu cầu cô trả số tiền đó và cả lãi suất, Ah Map đã không thể trả được. Chan đã ra lệnh cho hai đệ tử là Leung Shing-cho 27 tuổi và Leung Wai-lun 21 tuổi đến bắt cóc cô tại nhà rồi đưa đến căn hộ số 31, đường Granville, khu Tiêm Sa Chủy, Hong Kong. Đây là nơi cô đã bị giam cầm trong một tháng. Lúc đầu, Chan Map dự định sẽ bắt cô làm gái kiếm tiền để trả nợ cho mình, cho tới khi khoản nợ được trả hết.

Tuy nhiên sau đó, hắn đã thay đổi quyết định và bắt cô đem ra làm trò tiêu khiển, tra tấn. Một tháng ác mộng của cô gái trẻ bắt đầu từ đó.

Địa ngục trong căn hộ số 31

Việc dùng ma túy và "đá" đã khiến những kẻ bắt cóc không kiểm soát được hành động của mình và Ah Map bị lôi ra tra tấn mỗi ngày, như một cách để thỏa mãn chúng. Cô gái 23 tuổi bị đánh đập bằng gậy sắt và ống nước. Thỉnh thoảng chúng còn sử dụng dây điện để trói cô lại, sau đó treo lên trần, đánh đập. Có khi Ah Map bị giữ như vậy suốt đêm.

Chuỗi ngày bị tra tấn vẫn chưa hết; chúng đổ nhựa nóng chảy xuống chân cô cho tới khi da cô đỏ ửng, bỏng rát rồi sau đó tiếp tục đổ tương ớt vào các vết thương. Ba kẻ bắt cóc còn bắt cô uống dầu, đi đại tiện trên mặt cô bắt cô ăn phân sống của bạn gái 14 tuổi của một trong ba gã. Nếu cô không nuốt hay phản kháng, chúng sẽ đánh đập cô dã man. Kinh khủng hơn, nếu Ah Map không giả vờ tỏ ra vui vẻ hay hạnh phúc, chúng sẽ tiếp tục tra tấn tới khi cô ngất đi.

Sau khi bị tra tấn trong một thời gian dài với nhiều vết thương trên cơ thể, Ah Map đã qua đời vào cuối tháng 4. Xác của cô được đặt trên sàn nhà tắm trong vài ngày trước khi ba kẻ giết người quyết định sẽ xử lý thế nào. Cuối cùng, Chan chặt đầu cô còn hai gã còn lại cắt các bộ phận trên người Ah Map cho vào túi rồi để vào tủ lạnh.

Dường như chưa đủ thỏa mãn, những kẻ giết người nhồi phần đầu của Ah Map vào trong một con thú nhồi bông Hello Kitty trong nhà còn những phần cơ thể khác bị vứt đi.

Phiên tòa xử án

Vụ án sau đó đã được đưa ra ánh sáng xét xử với nhiều người đứng ra làm chứng cho nạn nhân. Wu Zhi Yuan, bạn của nạn nhân cho biết sau ngày 13/3/1999 đã không nhìn thấy nạn nhân nữa. Nhiều người sống quanh căn hộ số 31 cũng cho biết thỉnh thoảng họ nghe thấy những âm thanh la hét từ trong căn nhà đó.

Ngay sau khi được đưa ra công luận, vụ án đã khiến nhiều người dân Hong Kong vô cùng bức xúc. "The Hello Kitty murder" xuất hiện nhiều trên mặt báo, trở thành tâm điểm chú ý của dư luận và mọi người đều chờ tin tức ngày xét xử 3 kẻ giết người. Cuối cùng, cả 3 kẻ giết người đều bị chịu mức án ít nhất là 20 năm tù giam.

Dù hơn 15 năm đã trôi qua nhưng khi nhắc lại, những người dân Hong Kong vẫn không khỏi rùng mình trước "vụ giết người thế kỷ" tại thành phố này.
 

hoahongden12

Active Member

Tên sát nhân thường đục cửa bếp, giết hại nạn nhân dã man bằng rìu rồi biến mất không dấu tích.

Những vụ giết người bắt đầu

Người Rìu lần đầu xuất hiện ngày 23.5.1918 và giết hại dã man Joseph Maggio và vợ trong căn hộ. Bên dưới căn hộ là cửa hàng tạp hóa cả hai làm chủ. Cảnh sát phát hiện ra một phần cửa sau bị đục và chiếc rìu dính đầy máu nằm chỏng chơ trên giường. Không có ai trong căn nhà bị giết hại ngoài hai vợ chồng. Dấu hiệu để lại duy nhất là một thông điệp viết bằng phấn trắng gần nhà của nạn nhân: “Bà Joseph Maggio sẽ ngồi đây tối nay. Hãy viết là bà Toney”.

Khi cuộc điều tra diễn ra, cảnh sát phát hiện nhiều trường hợp các chủ tiệm tạp hóa người Italia bị giết từ năm 1911. Các vụ giết người này giống hệt trường hợp của nhà Maggio: sát nhân khoét cửa và giết họ bằng rìu cầm tay. Cảnh sát nghi ngờ có sự liên hệ với mafia. Sau đó một tháng, kẻ thủ ác lại tiếp tục hành trình tội ác.

Louis Bossumer và vợ Annie Lowe được phát hiện dính đầy máu trên người và bị những vết thương khắp cơ thể do rìu gây ra. Kẻ sát nhân vứt lại chiếc rìu trong phòng ngủ. Một phần cửa bếp bị đục thủng và không thứ gì bị lấy cắp.

Annie Lowe sau khi được điều trị ở viện nói rằng kẻ sát nhân là một người đàn ông da màu trẻ tuổi. Nhưng sau đó, cô nói rằng kẻ sát hại cô chính là chồng mình. Cảnh sát cho rằng câu chuyện cô đưa ra là vô lý vì không có người nào tự dùng rìu bổ vào mặt mình. Kẻ sát nhân vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.

Nạn nhân tiếp theo của Người Rìu là bà Edward Schneider, người thoát nạn thần kỳ và mô tả thủ phạm cao, gầy như bóng ma. Joseph Romano, chủ tiệm tạp hóa người Italia bị tấn công vào tháng 8 nhưng không may mắn. Ông qua đời vì vết thương quá nặng trên người.

Các vụ tấn công khiến người dân vô cùng hoảng loạn. Họ bắt đầu nhìn thấy hình bóng của Người Rìu ở bất kì ngõ ngách nào. Một vài người nói rằng hắn cao, gầy. Số khác cho rằng hắn mặc quần áo phụ nữ. Một số người khẳng định tên giết người là phụ nữ, hoặc là đàn ông nhưng rất lùn. Nhiều nghi vấn đặt ra quanh lỗ nhỏ trên cửa quá bé để sát nhân chui vừa. Thuyết âm mưu cho rằng hắn tới từ…hành tinh khác.

Người Rìu đột nhiên dừng việc giết chóc trong tháng 9. Một số cư dân ở thành phố New Orleans cho biết xuất hiện nhiều vụ đột nhập vào nhà hoặc thông báo đã bắn một số kẻ rình rập trong bóng tối. Sau tháng 9, không có thêm bất kì vụ việc nào. Đột nhiên, Người Rìu mất tích không dấu vết.

Bẵng đi một thời gian, ngày 10.3.1919, Người Rìu trở lại và gây ra vụ thảm sát kinh khủng gần khu vực Retna, thành phố New Orleans. Kẻ thủ ác mặc áo tối màu tấn công nhà Cotmigtilia. Ông bố Charles đã đánh nhau với thủ phạm, tuy nhiên qua đời vì vết thương thương nặng. Người Rìu sau đó giết hại Rosie và con gái 2 tuổi Mary. Dù Rosie cầu xin nhưng kẻ thủ ác vẫn xuống tay man rợ, giết hại đứa con 2 tuổi. Rosie may mắn thoát chết dù bị thương khắp người.

Lá thư từ địa ngục

Vụ tấn công đẫm máu làm cho toàn bộ thành phố khiếp sợ, sau đó tờ Thời báo Picayune của New Orleans nhận được bức thư kì bí vào ngày 14.3.1919 với nội dung: “Nó sẽ không thể nào bắt được tao. Chúng nó không thể nhìn thấy tao vì tao vô hình. Tao không phải là con người mà là quỷ dữ từ địa ngục. Tao là Người Rìu mà lũ cảnh sát và người dân New Orleans chúng mày gọi tên”.

Tên sát thủ nói rằng mình rất thích nhạc jazz và “thề với tất cả quỷ dữ trên trái đất này, nếu sắp tới kẻ nào khước từ mở nhạc jazz sẽ bị một rìu vào mặt”. Cuối tuần đó, cả thành phố New Orleans mở nhạc jazz như thể đây là món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân. Nhiều người không tin vào lời nói của kẻ thủ ác và vẫn bình yên.

Joseph Davilla, một nhạc công địa phương soạn bản nhạc có tên “Điệu nhạc jazz của Người Rìu bí ẩn” bất ngờ gây được tiếng vang lớn trong thành phố. Đêm đó không ai chết dưới tay của Người Rìu. Nhiều tháng sau đó, không thấy vụ giết người man rợ nào diễn ra. Có vẻ như Người Rìu đã nguôi giận phần nào.

Tiếp tục chém giết

Cho tới ngày 3.8.1919, một gã điên tấn công cô gái tên Sarah Laumann ở nhà của cô. Sarah may mắn sống sót nhưng vụ việc này cho thấy sự thay đổi trong kiểu cách tấn công của Người Rìu. Cô không hề bán tạp hóa hay là người Italia. Toàn bộ thành phố New Orleans lại choáng váng một lần nữa vì không ai có thể an toàn trước lưỡi rìu của kẻ thủ ác.

Một lần nữa, hắn tấn công vào tháng 8 và tháng 9 nhưng bị một người đàn ông có súng ngăn chặn. Vụ tấn công cuối cùng diễn ra vào tháng 10 khi Người Rìu giết hại Mike Pepitone ở trên giường, trong khi vợ và 6 đứa con của ông an toàn ở phòng bên cạnh.

Cảnh sát tìm thấy chữ kí quen thuộc của Người Rìu nhưng không có bằng chứng để xác nhận danh tính. Tới nay, vẫn chưa ai biết Người Rìu là ai.

Có một dấu hiệu được cho là cơ sở liên quan tới Người Rìu. Một năm sau vụ giết hại cuối cùng, người đàn ông tên Joseph Mumre bị bà Esther Albano bắn chết ở vùng Pacific Coast. Bà khẳng định Mumre giết chồng bà và tham gia vào một nhóm những kẻ tống tiền cộng đồng người Italia ở nước Mỹ. Hắn bị đẩy vào tù năm 1911, ít lâu sau vụ giết người đầu tiên của Người Rìu.

Tên này ra tù năm 1918, trùng thời điểm các vụ giết người xảy ra. Mumre rời khỏi khu vực sinh sống vào khoảng thời gian các vụ giết hại chấm dứt. Dù thời gian trùng nhau, không hề có bằng chứng nào cho thấy Mumre có mặt ở hiện trường. Cái chết bất ngờ của Mumre khiến cảnh sát không thể hỏi cung và tìm hiểu thêm tình tiết. Sau đó 2 năm, Người Rìu bị dân New Orleans quên lãng hoàn toàn. Dù vậy, đây vẫn được xem là kẻ sát nhân man rợ và bí ẩn nhất lịch sử nước Mỹ.
 

hoahongden12

Active Member

Trong thời kì mà Jack “Đồ tể” hoạt động mạnh, có 11 vụ giết người xảy ra ở vùng East End, London, Anh. Những vụ giết người diễn ra từ ngày 3.4.1888 tới ngày 13.2.1891. Người ta thường gọi đây là vụ án mạng Whitechapel, theo tên chuyên án điều tra của cảnh sát thành phố London. Cảnh sát cho rằng Jack “Đồ tể” là thủ phạm của 5 trong tổng số 11 nạn nhân bị giết hại.

Nhóm Canonical Five là 5 cô gái bị giết theo cùng một cách thức. Tất cả 5 nạn nhân này đều là gái mại dâm ở khu East End, có đặc điểm chung là vết thương kết liễu rất giống hệt nhau. Họ đều bị cắt cổ, cơ quan sinh dục và mổ bụng. Một số nạn nhân khác bị tra tấn dã man nhưng không có trường hợp nào phương thức giống như Canonical Five.

5 nạn nhân bị giết lúc trời rạng sáng, khi mặt trời chưa lên. Tất cả các vụ giết người đều xảy ra vào cuối tuần hoặc cuối tháng.

Mary Ann Nichols

Thi thể của Mary Ann Nichols được phát hiện vào ngày 31.8.1888, lúc khoảng 3 giờ 40 phút bởi hai người đàn ông trên đường tới công ty. Cô được tìm thấy gần một chuồng ngựa. Hai người đàn ông Charles Cross và Robert Paul vô tình bắt gặp nạn nhân lúc trời nhá nhem. Khi đó, Polly nằm trên đất và váy kéo lên tới hông.

Ban đầu, hai người không biết Polly ngất vì say rượu hay đã chết. Khi lại gần, sờ lên tay và mặt của Polly, họ nhận ra hơi lạnh tới rợn người. Cả hai chạy đi báo ngay cho cảnh sát. Vài phút sau John Neil cũng nhìn thấy cô gái khi ông băng qua chuồng ngựa. Ông giơ đèn lồng vào người Polly và nhìn thấy đôi mắt vô hồn, trắng dã của cô đang nhìn lên trời.

Cổ họng Polly bị cắt làm đôi – gần như đứt lìa khỏi cổ - và ruột bị moi ra ngoài. Tên sát thủ cũng cắt xẻ nhiều vết trên bụng của cô với cùng con dao gây án. Các bác sĩ tới hiện trường, khám nghiệm tử thi và xác định rằng cô đã chết từ trước đó 30 phút.

Annie Chapman

Một nhân chứng nhìn thấy Annie Chapman nói chuyện với một người đàn ông bên ngoài số 29 đường Hanbury lúc 5 giờ 30 phút sáng. Albert Cadosh, người sống ở số 27 cho biết nghe thấy người phụ nữ nói “Không” rất lớn. Sau đó là tiếng va đập của cơ thể vào hàng rào. Khoảng 20 phút sau, thân thể bị biến dạng của cô được John Davis tìm thấy ở sân sau số nhà 29.

Cổ họng của Annie bị cắt giống cách mà Ann Nichols bị giết hại. Bụng của Annie mở toang, ruột lòi ra ngoài và được đặt lên vai phải. Khám nghiệm tử thi sau đó cho thấy tên sát thủ còn cắt cơ quan sinh dục của Annie.

Elizabeth Stride

Tên Jack “Đồ tể” đã đoạt mạng 2 nạn nhân trong sáng sớm ngày 30.9.1888. Người đầu tiên là Elizabeth Stride. Thi thể của cô được tìm thấy ở Dutfield, cạnh đường Berner, lúc khoảng 1 giờ sáng. Tên sát nhân đã cắt họng, động mạch chủ của nạn nhân nhưng không có vết rạch thường thấy trên ổ bụng.

Do không có sự xuất hiện của vết rạch trên bụng nên nhiều người nghi ngờ liệu sát thủ có phải là Jack “Đồ tể” hay không. Một số ý kiến cho rằng Stride không bị rạch ổ bụng do thời gian quá gấp nên hắn rời khỏi hiện trường do sợ bị phát hiện.

Catherine Eddowes

45 phút sau vụ giết người đầu tiên, thi thể của gái điếm Catherine Eddowes được tìm thấy ở quảng trường Mitre. Cổ họng của Catherine cũng bị rạch và ruột lòi ra ngoài. Thận bên trái bị cắt bỏ, cùng một vết rạch lớn ở cơ quan sinh dục. Ngay trước khi cơ thể đầy vết thương của Catherine được tìm thấy, một nhân chứng cho biết nhìn thấy một người đàn ông cao 1m70, ngoài 30 tuổi, ngoại hình tầm thước, da trắng và để râu quai nón. Bộ trang phục người này giống hệt một thủy thủ tàu viễn dương.

Mary Jane Kelly

Vụ giết hại Mary Jane Kelly là tồi tệ nhất trong các vụ án mạng Whitechapel. Cô được tìm thấy trong tình trạng bị tấn công man rợ tại căn hộ số 13 đường Miller’s Court. Người ta phát hiện ra cô vào ngày 9.11.1888.

Người cho thuê nhà là Thomas Bowyer đến thu tiền nhà vì Mary chậm trả tiền nhiều tuần. Khi cô gái không trả lời cửa, Thomas đã nhìn với qua cửa sổ và chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng.

Cơ thể của Mary bị rạch tơi tả đến mức không thể nhận ra. Toàn bộ ruột của cô bị lôi ra ngoài, ngực bị cắt, lục phủ ngũ tạng đặt bên dưới đầu và trên giường. Khuôn mặt của Mary bị biến dạng, tim moi ra ngoài và bị lấy mất khỏi hiện trường. Đây được xem là nạn nhân có cái chết đau đớn nhất.

Sau cái chết của Mary Kelly, người ta tin rằng Jack “Đồ tể” không còn ra tay sát hại thêm ai nữa. Những vụ giết người và gái mại dâm sau đó không có đặc điểm tương tự 5 vụ án xảy ra trong năm 1888. Hung thủ cũng không được xác định chính xác là ai sau hơn 100 năm.
 

hoahongden12

Active Member

"Quái vật 21 khuôn mặt" dẫn cảnh sát vào một cuộc điều tra chưa từng thấy và đã trở thành một trong những tội ác chưa được giải quyết khó hiểu nhất trong lịch sử Nhật Bản.

Trong rất nhiều những vụ án nổi tiếng ở Nhật Bản thì vụ án mang tên "Quái vật 21 khuôn mặt" là một vụ án ly kì và hết sức lạ lùng, khiến ngày nay mỗi khi có một người dân Nhật nào nhắc đến là lại khiến những người xung quanh phải rùng mình. Vụ án đã không trực tiếp gây ra một án mạng nào nhưng lại khiến một người cảnh sát phải tự thiêu và liên tục khiến các nhà chức trách phải đặt ra câu hỏi.

"Quái vật 21 khuôn mặt" là cái tên được lấy cảm hứng từ một bộ truyện trinh thám nổi tiếng của Edogawa Rampo. Dưới mỗi bức thư, tên tội phạm bí ẩn này đều lấy bí danh là "quái vật 21 khuôn mặt" và trong suốt 17 tháng vào giữa những năm 1980, hắn đã gây khủng hoảng tinh thần cho người dân Nhật và khiến cảnh sát phải nhiều phen "lao tâm khổ tứ". "Quái vật" dẫn cảnh sát vào một cuộc điều tra chưa từng thấy và đã trở thành một trong những tội ác chưa được giải quyết khó hiểu nhất trong lịch sử Nhật Bản.

Một vụ bắt cóc tống tiền không thành công

Mọi chuyện bắt đầu từ ngày 18/3/1984, khi ông Katsuhisa Ezaki, Giám đốc điều hành của công ty kẹo Glico bị hai gã đàn ông đeo mặt nạ bắt cóc và yêu cầu đòi tiền chuộc là 1 tỷ yên. Tuy nhiên, việc trao đổi tiền chuộc chưa kịp diễn ra thì ông Ezaki đã may mắn trốn thoát.

Vụ việc sau đó đã được đưa tin rất nhiều, một phần là vì nạn nhân là một nhân vật cấp cao có tiếng tăm, một phần là vào thời điểm đó, một vụ bắt cóc dữ dội như vậy gần như chưa từng thấy ở Nhật và nó đã gây hoang mang cho rất nhiều người. Cảnh sát đã không có bất kì manh mối nào để tìm kiếm ra kẻ đứng đằng sau vụ việc.

Những vụ khủng bố liên tiếp và các lá thư nặc danh

Vài tuần sau, vào tháng 4/1984, một vài chiếc xe trong bãi đậu xe của trụ sở công ty Glico đã bị đốt cháy và khu vực xung quanh cũng bị phá hủy một cách bí ẩn. Không lâu sau đó, vào ngày 10/5/1984, một lá thư đe dọa được tìm thấy trên một chai axit clohydric với chữ kí "Quái vật 21 khuôn mặt", bức thư tuyên bố rằng hắn đã tẩm chất độc kali xyanua vào gói kẹo của Glico và đã đem bày bán trên khắp các cửa hàng tạp hóa. Ngay sau đó, công ty Glico đã phải thu hồi lại toàn bộ số kẹo trên thị trường và điều đó khiến công ty này chịu một khoản lỗ 20 triệu đô, cùng với 400 công nhân bị sa thải.

Bằng chứng duy nhất mà cảnh sát có được là một cảnh quay trong camera an ninh cho thấy một người đàn ông mờ ám đang đặt những gói kẹo Glico bị đầu độc lên kệ một cửa hàng, người đàn ông đội mũ bóng chày và khó xác định được khuôn mặt. Đoạn video được nhiều người cho rằng hắn đã cố tình để camera quay lại nhằm mục đích giễu cợt và trêu đùa với cảnh sát.

Thời gian sau đó, "Quái vật" liên tục khủng bố cảnh sát bằng những bức thư nặc danh và trong đó nội dung đa phần là nhạo báng họ: "Thưa các sĩ quan cảnh sát ngu ngốc. Đừng nói dối nữa. Chẳng phải tất cả các tội ác đều bắt đầu bằng một lời nói dối, các người không thấy sao? Có vẻ như các người đang chịu thua rồi. Vậy tại sao không để chúng tôi giúp một tay? Chúng tôi sẽ cung cấp cho các người một đầu mối, chúng tôi đã vào nhà máy bằng cổng trước, máy đánh chữ chúng tôi sử dụng là PAN-reader và các thùng nhựa được sử dụng là rác ở ngoài đường. Ký tên: Quái vật 21 khuôn mặt."

Vụ án khiến cả nước Nhật Bản chìm trong khủng hoảng. Doanh số bán kẹo giảm mạnh. Bất ngờ, vào ngày 26/6/1984, "Quái vật" gửi đến một bức thư ghi rõ rằng "Chúng tôi tha thứ cho Glico", nhưng những lý do đằng sau toàn bộ sự việc này thì không được nhắc đến. Và hơn hết, điều này chỉ đánh dấu sự kết thúc cho việc quấy rối Glico, chứ không phải là dấu chấm dứt của việc khủng bố. Tổ chức tội phạm này nhanh chóng chuyển hướng mục tiêu sang các công ty thực phẩm lớn khác như Morinaga, Marudai Ham và House Food Corporation...

Vào tháng 10 năm 1984, quái vật gửi đến giới truyền thông một bức thư tuyên bố rằng hắn đã đầu độc 20 gói kẹo và đặt chúng lên kệ cửa hàng tạp hóa. Cảnh sát đã phải huy động lực lượng khắp cả nước để tìm ra những gói kẹo giả mạo. Tất cả những gói kẹo thu hồi đều thực sự có chứa chất độc, nhưng một điều thú vị là các gói kẹo giả mạo đều được dán nhãn cảnh báo "Nguy hiểm: Chứa chất độc".

"Người đàn ông mắt cáo" và cái chết của một vị cảnh sát

Ít lâu sau, Quái vật tuyên bố sẽ chấm dứt các hoạt động khủng bố của mình nếu nhận được 50 triệu yên. Tiền sẽ được ném xuống từ một chuyến tàu cao tốc chạy vào thành phố Kyoto, địa điểm ném tiền sẽ được xác định bằng một lá cờ trắng. Một viên cảnh sát đã được giao cho nhiệm vụ này, anh đã không nhìn thấy lá cờ trắng nào trên tuyến đường nhưng anh đã phát hiện ra một nam nhân có hành động khả nghi trên tàu. Anh mô tả người đàn ông này có dáng cao lực lưỡng và có một đôi mắt giống như mắt cáo. Sau đó cảnh sát đã nỗ lực theo dõi nhân vật tình nghi này nhưng đã để mất dấu hắn.

Tháng 11 năm 1984, Quái vật lại một lần nữa đòi 100 triệu yên để ngừng lại các hoạt động khủng bố. Hắn yêu cầu tiền phải được thả vào một cái thùng có mảnh vải trắng trên đường cao tốc Meishin. Cảnh sát đã mai phục tại đây và phát hiện ra "người đàn ông mắt cáo" lần nữa nhưng lại tiếp tục để mất dấu hắn ta.

Vào tháng 1 năm 1985, dựa trên đoạn phim video trước đó và mô tả về người đàn ông trên chuyến tàu ở Kyoto, cảnh sát đã vẽ phác họa lại khuôn mặt kẻ tình nghi và đem dán khắp nơi để truy nã. Tuy nhiên, một thời gian dài sau họ vẫn chưa thể tìm ra được manh mối nào.

Vụ việc trở thành một "rạp xiếc" truyền thông, thu hút nhiều sự chú ý của các cơ quan báo chí cả trong nước và quốc tế, và ngoài ra cũng chiếm được trí tưởng tượng của người dân Nhật. Tháng 8 năm 1985, do tuyệt vọng vì vụ án đi vào bế tắc và sự giận dữ của truyền thông, ông Yamamoto - lãnh đạo cảnh sát quận Siga, đã tự thiêu. Sau khi tin tức về vụ tự tử kinh hoàng được báo cáo, quái vật đã gửi một bức thư cuối cùng cho giới truyền thông, trong đó có ghi rằng: "Cảnh sát quận Siga đã chết. Thật là ngu ngốc. Những gì mà cảnh sát đã làm trong suốt năm tháng qua là gì? Đây sẽ là một bài học cho các người. Chúng tôi quyết định sẽ không hành hạ các công ty thực phẩm nữa. Từ bây giờ, nếu có bất kì ai tống tiền các công ty thực phẩm, thì đó không phải là chúng tôi mà là một ai đó đã giả mạo chúng tôi."

Đó cũng là bức thư cuối cùng của nhóm tội phạm khét tiếng này. Sau đó cũng không có thêm bất kì tiến triển nào trong việc điều tra truy tìm phủ phạm. Vậy là sau 17 tháng gây ám ảnh cho người dân và cảnh sát Nhật Bản, tên tội phạm đã "biến mất như một làn khói mỏng".

Vụ việc đã chính thức khép lại. Ngay cả khi "Quái vật" bị phát giác ngày hôm nay, thì hắn cũng không thể bị truy tố do vụ án đã hết hiệu lực.
 

hoahongden12

Active Member

Nước Mỹ có rất nhiều vụ án bí ẩn chưa thể giải đáp và một trong số đó chính là danh tính cậu bé chết trong thùng carton.

Thùng carton chứa thi hài cậu bé

Vụ án bí ẩn được toàn thế giới biết đến vào ngày 25.2.1957, khi một người khách du lịch tình cờ phát hiện một thùng carton ở đường Susquehanna, thành phố Philadelphia. Thùng carton có in kí tự màu đỏ bên ngoài: “Đồ nội thất dễ vỡ. Đừng mở nó bằng dao”. Đây là thùng dùng để đựng cũi tre cho trẻ em.

Bên trong chiếc thùng không phải là búp bê như mọi người tưởng mà là một cậu bé không mặc quần áo đã chết. Cậu bé cao chừng 1m, nặng khoảng 13kg được quấn bằng chiếc khăn hiệu Navaho. Thể hình này là tương đối nhỏ so với một đứa trẻ bình thường.

Cậu bé trong thùng carton từ 3-6 tuổi, móng tay cắt tỉa gọn gàng nhưng tóc để bờm xờm. Trên người cậu bé có 7 vết sẹo dường như gây ra sau các cuộc phẫu thuật. Bác sĩ chẩn đoán cậu bé mắc bệnh kinh niên sau khi thấy đôi mắt mở trừng trừng.

Trong thực quản, người ta tìm thấy những thứ màu đen nhưng trước đó 3 giờ cậu bé không hề ăn gì. Vết thâm tím trên người được cho là bị đánh đập. Các chuyên gia pháp y cho rằng cậu bé chết vì bị đập mạnh vào đầu.

Quá trình điều tra bế tắc

Có rất nhiều đầu mối để theo đuổi vụ án này. Ban đầu, cảnh sát định tìm tung tích cậu bé nhưng không ai hoặc trại trẻ nào thông báo mất con. Bệnh viện lấy dấu vân chân, vân tay nhưng không tìm thấy người phù hợp. Hàng ngàn tờ rơi, poster được gửi đi, dán khắp siêu thị, cửa hàng rượu nhưng không có dấu vết nào được tìm thấy.

Trong cơn tuyệt vọng, cảnh sát trang điểm lại cậu bé đã chết và mặc cho cậu bộ quần áo mới. Sau đó, họ chụp ảnh lại, dán khắp phố để hy vọng bố mẹ cậu sẽ nhận ra. Tuy nhiên mọi thứ vẫn chỉ rơi vào ngõ cụt.

Địa chỉ của chiếc hộp tới J.C.Penney nhưng không chỉ dấu điều gì. Người mua trước đó đã trả tiền và rời đi, không để lại manh mối gì.

Một người đàn ông khác kể lại vào ngày trước khi xác chết được tìm thấy. Ông nhìn thấy một người phụ nữ và con trai đứng cạnh chiếc ô tô, tìm kiếm gì đó ở khoang sau. Nghĩ rằng họ có vấn đề, ông đi chậm lại và hỏi có cần giúp đỡ hay không. Người phụ nữ nói không và ra hiệu cho tài xế đi tiếp.

Cảnh sát, điều tra viên tìm kiếm các gia đình nghèo khó, những hộ có nhiều con và một số trại trẻ gần khu vực xảy ra vụ án. Nhiều thông tin được gửi về cho cảnh sát nhưng đều không khớp.

Một người mẹ với 9 đứa con ở bang Colorado bị nghi ngờ vì trước đây bà ta từng vứt xác con gái vào thùng rác sau khi con bà qua đời. Dù vậy, những thông tin và phỏng đoán này không mang lại kết quả.

Tháng 7.1957, cảnh sát chi trả tiền cho đám tang của cậu bé. Trên bia mộ cậu bé là dòng chữ: “Chúa lòng lành, hãy phù hộ cho cậu bé vô danh. 25.2.1957”.

Vụ việc chìm sâu vào quên lãng nhưng với điều tra viên Remington Bristow thì ông không thể nào quên được. Ông tự bỏ tiền túi và kêu gọi nhiều bác sĩ khác điều tra vụ việc. Ông hy vọng tìm ra danh tính cậu bé trong thùng carton bí ẩn.

Bristow tin rằng cậu bé chết trước đó trong một trại trẻ nhưng không có bằng chứng nào. Bristow mất năm 1993 và mang theo thắc mắc này xuống mồ.

Khám nghiệm lại tử thi

Việc tìm kiếm cậu bé chết trong thùng carton là trường hợp điều tra hình sự lâu nhất được thực hiện ở Philadelphia. 5 năm sau, các nhóm chuyên gia nghiên cứu tội phạm với tên gọi “Tổ chức Vidocq” đã thực hiện khám nghiệm lại tử thi. Xác cậu bé được đào lên và khám nghiệm DNA. Sau đó cậu bé được chôn trong một khu mộ khác.

Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy không hề có dấu hiệu nào khác thường so với nửa thế kỷ trước. Kết quả DNA cũng không hé lộ điều gì, bất chấp nhiều nguồn tin được cung cấp cho cảnh sát. Vụ án này cũng từng xuất hiện trong chương trình “American’s Most Wanted” nhưng cũng rơi vào vô vọng.

Năm 2002, một bác sĩ ở Ohio liên lạc với cảnh sát Philadelphia nói rằng một trong những bệnh nhân của ông biết vì sao cậu bé chết, người phụ nữ giấu tên này đã tiết lộ với cảnh sát rằng mẹ cô chính là người đã “mua” cậu bé từ một gia đình khác hồi năm 1954.

Trong thời gian chung sống, đứa trẻ ngày nào cũng bị mẹ cô bạo hành và đánh đập không thương tiếc.

Vào một bữa tối, cậu bé nôn mửa trong nhà tắm sau khi ăn đậu nướng khiến người mẹ giận dữ. Bà dùng tay đập mạnh vào đầu khiến đứa bé ngã xuống, đập đầu vào sàn nhà rồi chết.

Cảnh sát quyết định tin lời bà M vì họ đã tìm thấy những hạt đậu nướng trong dạ dày và phát hiện các đầu ngón tay của cậu bé có dấu hiệu bị ngâm nước trong thời gian dài.

Những thông tin này trước đó hoàn toàn không được công bố.

Nhân viên điều tra còn phấn khích hơn khi bà M miêu tả cậu bé từng có mái tóc dài. Điều này hoàn toàn trùng khớp với suy đoán của cảnh sát rằng đứa trẻ đã bị kẻ sát nhân cắt tóc sau khi ra tay sát hại.

Thế nhưng, điều tra về thân thế của bà M, người ta còn phát hiện bà có tiền sử mắc bệnh tâm thần nặng.

Hỏi thăm người thân, bạn bè và hàng xóm của bà M, ai cũng nói rằng họ chưa từng nhìn thấy bất kỳ đứa nhỏ nào như mô tả xuất hiện trong nhà bà.

Câu chuyện tưởng như là manh mối quan trọng cuối cùng lại trở thành lời nói đùa vui của một người tâm thần.

Còn rất nhiều giả thiết khác được đưa ra song tất cả đều có chung kết cục. Bất kể bao nhiêu năm trôi qua, cảnh sát Mỹ vẫn không từ bỏ hy vọng.

Nhiều chương trình truyền hình của Mỹ thỉnh thoảng vẫn thường nhắc lại vụ án “cậu bé trong hộp” với mong muốn xác định được danh tính của đứa trẻ và những gì đã xảy ra với em.

Đây là một trong những vụ giết người bí ẩn chưa có lời giải đáp trong lịch sử hình sự nước Mỹ
 

hoahongden12

Active Member

Seiichi Kawamura là một kĩ sư 35 tuổi sống gần công viên Inokashira ở thủ đô Tokyo, Nhật Bản. Công việc bận rộn khiến Seiichi hầu như không có thời gian nghỉ ngơi. Mỗi dịp cuối tuần hoặc rảnh rỗi lúc tối, anh thường thơ thẩn ở công viên hoặc chạy vài vòng quanh hồ điều hòa.

Ngày 21.4.1994, Seiichi không quay về nhà và cũng không có bất kì lời nhắn nào gửi cho cha mẹ. Bố mẹ Seiichi cho biết con trai mình là người rất chu đáo, trước khi đi đâu, làm gì cũng báo tin rất cẩn thận. Đây là lần đầu tiên Seiichi bặt vô âm tín. Và cũng là lần cuối cùng. Gia đình Seiichi lập tức báo cảnh sát.

Ngày 23.4, một công nhân ở độ tuổi trung niên vẫn đều đặn thực hiện công việc hằng ngày của mình ở công viên Inokashira. Khi tiến tới một chiếc thùng rác và bỏ túi ra ngoài, người này phát hiện dấu hiệu khả nghi. Lúc mở túi ra nhìn vào bên trong, công nhân vệ sinh không thốt nên lời vì hình ảnh quá khủng khiếp: những phần thi thể đang phân hủy bị nhét đầy túi rác.

Sau khi gọi cảnh sát tới hiện trường, vụ án ngay lập tức được điều tra. Tổng cộng 24 phần thi thể được tìm thấy đang ở trong tình trạng bốc mùi hôi thối. Nhiệt độ mùa hè ở Tokyo khiến tốc độ phân hủy của thi thể nhanh hơn. Đáng lưu ý, 24 miếng thi thể này đều có cùng độ dài 20cm. Chúng bị tên sát nhân chặt khúc đều chằn chặn như dùng thước đo.

Cảnh sát cho rằng thi thể nạn nhân bị cắt bằng cưa máy. Những bó cơ được lấy ra rất cẩn thận. Tất cả máu đều được rửa sạch. Cơ quan chức năng nghi ngờ chỉ có bác sĩ phẫu thuật trình độ cao mới thực hiện được điều này.

Khám nghiệm pháp y không thấy dấu hiệu nạn nhân dùng thuốc, ma túy hay chất kích thích. Nguyên nhân cái chết của nạn nhân cũng không được làm rõ.

Duy chỉ có phần đầu, ngực và cơ quan sinh dục của nạn nhân là không được tìm thấy. Chính điều này khiến việc tìm kiếm tung tích nạn nhân gặp rất nhiều khó khăn. Một điểm nữa khiến cảnh sát hãi hùng là tất cả máu trong người nạn nhân đã bị rút sạch trước khi chặt xác. Nhiều ý kiến cho rằng lúc chặt xác nạn nhân vẫn sống sót dù giả thuyết này không được kiểm chứng.

Sau 3 ngày xét nghiệm DNA, kết quả giám định khẳng định đây là thi thể của kĩ sư Seiichi Kawamura. Một số nhân chứng nói rằng có thấy hai người đàn ông khuân một túi to vào công viên Inokashira trong đêm Seiichi mất tích. Tuy nhiên, tung tích của hai người lạ mặt này không thể xác định.

Một số người đồn đoán rằng Seiichi là một thành viên của một tổ chức tôn giáo dị biệt mang tên Aum Shinrikyo. Khi tìm cách rời bỏ tổ chức, Seiichi đã bị giết hại dã man. Aum là tổ chức gây ra vụ tấn công bằng khí độc sarin vào ga tàu điện ngầm ở Tokyo năm 1995. Giả thuyết khác cho rằng Seiichi bị bắt cóc lên ô tô, chặt xác tại chỗ rồi vứt vào túi.

Cảnh sát đã điều tra, thẩm vấn 37.000 người nhưng vụ án vẫn trong vòng luẩn quẩn. Tất cả bạn bè và thân nhân của Seiichi được thẩm vấn, điều tra chi tiết nhưng cũng không mang lại kết quả. Cơ quan chức năng cũng bế tắc khi tìm kiếm nhà Seiichi.

Ngoài thông tin hai người đàn ông cầm theo túi lớn vào công viên Inokashira, nhân chứng khác kể lại một vụ đâm xe diễn ra đêm 22.4. Họ cho rằng Seiichi bị đâm chết đêm hôm đó và tài xế đã chặt xác anh để phi tang.

Thông thường, một vụ án hình sự ở Nhật sẽ điều tra trong 15 năm. Quá thời hạn này, vụ án sẽ chìm vào quên lãng. Đến nay, 23 năm trôi qua nhưng vụ án kĩ sư Seiichi bị chặt khúc đều nhau vẫn là bí ẩn rất lớn với người Nhật.
 

hoahongden12

Active Member

Đến nay, sau 24 năm, bí ẩn về cái chết của “Hoa hậu nhí” vẫn là nỗi ám ảnh lớn của nước Mỹ.

JonBenét Patricia Ramsey là một cô bé rất nổi tiếng ở Mỹ vì nhan sắc của mình dù em mới lên 6. JonBenét có mái tóc vàng và đôi mắt xanh tuyệt đẹp. Hầu như ở mọi cuộc thi, “hoa hậu nhí” này đều giành chiến thắng.

Nhiều người kì vọng JonBenét lớn lên sẽ trở thành một minh tinh hoặc nghệ sĩ nổi tiếng. Đáng tiếc, cuộc đời em chỉ kéo dài vỏn vẹn 6 năm.

Ngày định mệnh

Patsy Ramsey, mẹ của JonBenét cho biết sáng sớm ngày 26.12.1996, bà phát hiện ra một bức thư nặc danh để trong bếp. Nội dung bức thư là yêu cầu 118.000 USD tiền chuộc để đổi lấy sự an toàn của JonBenét. Bức thư nói rằng chừng nào nhà JonBenét đưa tiền thì em sẽ trở về nhà an toàn.

Điều khiến nhiều chuyên gia hình sự thấy lạ là số tiền đòi hỏi gần bằng số tiền JonBenét thắng giải sau một cuộc thi hoa hậu. Gia đình rút tiền ngay sau đó và chuẩn bị đưa cho kẻ lạ mặt thì tai họa xảy đến.

Trưa cùng ngày, cảnh sát Linda Arndt cùng gia đình khám xét căn nhà và bắt đầu từ tầng hầm. Tại đây, ông John Ramsey thấy con gái mình nằm dưới đất, phủ lên người tấm chăn trắng, dây thừng quấn cổ, tay trói ngược lên trên và miệng dính băng keo. JonBenét đã chết từ trước đó khá lâu.

Kết quả điều tra sơ bộ cho thấy JonBenét bị bóp cổ chết và chấn thương sọ não. Em chết do bị ngạt thở. Trong căn phòng nơi xảy ra vụ việc, cảnh sát thấy một bát dứa còn cả thìa ở trong. Khám nghiệm pháp y tìm thấy dấu vân tay của anh trai Burke trên bát dứa. Dù vậy, gia đình JonBenét khẳng định con trai họ đang ngủ khi vụ việc xảy ra.

Sợi dây siết cổ nạn nhân có những nút thắt đặc biệt mà chỉ người có chuyên môn mới mở được. Sợi dây làm từ thừng nhỏ với hai đầu là phần thân cọ vẽ. Phần nối giữa thân cọ và lông cọ được tìm thấy trong hộp đựng dụng cụ của bà Patsy.

Bí ẩn vụ án vẫn chưa thể giải đáp vì nguyên nhân được cho là để quá nhiều người vào hiện trường và làm xáo trộn đồ vật. Giả thuyết ban đầu cho rằng chính gia đình nhà JonBenét đã giết hại em cũng được đưa ra nhưng không có bằng chứng xác nhận.

Cả thế giới dõi theo

Ngày 1.1.1997, thế giới được biết tới vụ việc chấn động và thương tâm này. Ban đầu, cảnh sát hướng điều tra về John và Patsy. Họ cho rằng bà mẹ Patsy là người rất dễ nổi nóng vì trước đây bà từng nhiều lần đánh con. Có thể trong một phút nóng giận vì JonBenét tè ra giường, bà đã ra tay. Dù vậy, bằng chứng vẫn là thứ không tồn tại.

Cậu anh trai 9 tuổi tên Burke cũng nằm trong danh sách tình nghi. Họ cho rằng cậu bé đã ngộ sát em gái và bố mẹ JonBenét đã giúp che giấu tội ác của con trai.

Không lâu sau bi kịch, gia đình JonBenét chuyển tới Atlanta và vụ việc chìm sâu vào quên lãng. Tháng 9.2008, cơ quan chức năng tiểu bang Colorado chính thức gửi thư xin lỗi công khai gia đình JonBenét về những đàm tiếu không cơ sở họ phải chịu suốt nhiều năm qua.

Kết luận mới nhất

Kênh CBS tháng 9.2016 công bố kết luận mới nhất về vụ án “hoa hậu nhí”, trong đó khẳng định thủ phạm không ai khác chính là người anh Burke Ramsey.

Một chuyên gia từ trung tâm Boulder cho biết giờ khắc định mệnh xảy ra vào lúc 10 giờ tối khi hai em vừa về nhà sau một chuyến đi chơi. Hai anh em tranh giành hoa quả và khiến cậu anh Burke nổi giận. Anh trai đã dùng đèn pin đập vào đầu em gái khiến JonBenét chết tại chỗ.

Điểm nghi vấn nhất của vụ việc chính là thái độ không hợp tác của gia đình nhà Ramsey. Họ không hề muốn truy tìm thủ phạm vụ việc. Một chi tiết khiến kết luận mới nhất của đài CBS càng đáng chú ý là cuộc gọi điện của bà Patsy và cảnh sát 911 trong đêm định mệnh.

Trước khi cúp máy, cảnh sát nghe thấy hai ông bà nói chuyện với nhau. John nói: “Chúng ta không thể nói chuyện này của các con” trong khi Patsy hốt hoảng: “Con đã làm gì vậy? Chúa ơi cứu con tôi”. Đoạn ghi âm này được xem là bằng chứng bằng vàng tố cáo hành vi ngộ sát của Burke.

Nhưng hung thủ thật sự là ai?

Đó chính là... Gary Oliva

Theo đó, Gary Oliva, 54 tuổi, hiện đang thụ án 10 năm về việc sở hữu các hình ảnh lạm dụng trẻ em đã viết một lá thư trong nhà tù ở Colorado, thừa nhận tội lỗi cách đây hơn 20 năm của mình.

"Tôi chưa bao giờ yêu ai như JonBenet Ramsey và tôi đã để cô bé trượt ngã, bị vỡ hộp sọ. Tôi đã nhìn thấy cô bé chết. Đó là một tai nạn", lời thừa nhận của Gary Oliva trong một lá thư của hắn.

Trong một bức thư khác, Gary Oliva miêu tả vẻ đẹp rạng rỡ của hoa hậu nhí và thừa nhận đã gây ra những vụ tấn công, lạm dụng tình dục nhiều trẻ em khác. "Tôi thừa nhận đã giết JonBenet cũng như gây ra những cuộc xâm hại tình dục khác với nhiều trẻ em", Gary Oliva viết trong thư.

Những bức thư này đã được gửi đến nhà xuất bản âm nhạc Michael Vail, người từng là bạn học cấp ba của Oliva.

Theo Vail, những lá thư của Oliva chính là bằng chứng đắt giá đủ để kết luận Oliva chính là kẻ gây ra cái chết cho hoa hậu nhí cách đây hơn 22 năm. Hiện Cảnh sát Boulder đang điều tra những lá thư này.

Đã có rất nhiều nghi phạm được điều tra nhưng không một ai bị bắt giữ vì không đủ bằng chứng. Với chi tiết mới nhất này, nhiều người hy vọng vụ án sát hại hoa hậu nhí từng ám ảnh cả thế giới sẽ sớm có câu trả lời xác đáng nhất sau nhiều năm vô vọng.
 

hoahongden12

Active Member

Các vụ án mạng xảy ra từ năm 1971 đến năm 1973 trong khu vực Rochester, New York (Mỹ). Điều kỳ lạ là tất cả nạn nhân đều bị bóp cổ, hãm hiếp và tên nạn nhân đều có chữ cái đầu trùng với địa điểm gây án.

Theo hồ sơ vụ án, 3 nạn nhân đều là những cô bé nhỏ tuổi. Sau khi xem xét tất cả các trường hợp, cảnh sát nhận ra một chi tiết lạ lùng đó là Carmen Colon bị giết gần Churchville, thi thể Wanda Walkowicz được phát hiện tại Webster, và Michelle Maenza ở thị trấn Macedon.

Như vậy, nạn nhân có chữ cái ở tên, họ giống nhau và trùng khớp với địa danh phát hiện thi thể.

Carmen Colon ở Churchville

Carmen (11 tuổi) sống cùng ông bà của mình ở Rochester. Cô bé mất tích ngày 16/11/1971. Lần cuối cùng có người nhìn thấy nạn nhân là ở một hiệu thuốc trên phố West Main. Carmen đến đó để lấy toa thuốc.

Đến ngày 18/11/1971, thi thể Carmen được phát hiện ở một con suối, cô bé nằm trên tảng đá. Khu vực này cách nhà khoảng 20km và được xác định gần thị trấn Churchville. Như vậy, Carmen Colon và Churchville, tất cả đều bắt đầu bằng chữ C, song lúc này cảnh sát chưa chú ý tới chi tiết bí ẩn đó.

Qua khám nghiệm tử thi cho thấy, nạn nhân bị bóp cổ và xâm hại tình dục, sau đó hung thủ đã ra tay giết chết cô bé. Trên thi thể vẫn in hằn vết tay ở vùng cổ và những vết thương khác trên người.

Một số nguồn tin cho biết, đã trông thấy cô bé trong tình trạng bán khỏa thân chạy trên đại lộ Interstate 490 và ngay đằng sau là một chiếc xe màu xanh lơ đang rượt đuổi.

Wanda Walkowicz ở Webster

Wanda Walkowicz (10 tuổi), một cô bé với mái tóc tomboy cá tính màu đỏ đã mất tích ngày 2/4/1973. Ngay ngày hôm sau, thi thể Wanda được tìm thấy ở Webster.

Được biết, cô bé đến siêu thị Conkey Avenue để mua hàng và sau đó không ai còn trông thấy Wanda nữa. Tương tự như nạn nhân đầu tiên, Wanda bị bóp cổ, hãm hiếp và sát hại.

Một số nhân chứng xác nhận trông thấy Wanda bị kéo vào một chiếc xe màu nâu gần siêu thị Conkey Avenue. Song chiếc xe này không trùng khớp với chiếc đã bắt cóc Carmen.

Michelle Maenza ở Macedon

Michelle (10 tuổi) mất tích ngày 26/11/1973 ngay ở con phố trước nhà. Hai ngày sau đó, thi thể nạn nhân được phát hiện ở đoạn đường hẻo lánh thuộc ngôi làng Macedon. Khu vực này cách Rochester 15 km.

Lần cuối cùng có người trông thấy Michelle là ở trong tiệm pizza của chú cô bé. Người này đã nói rằng muốn đưa cô bé về nhà an toàn, song Michelle từ chối.

Sau khi nhận được thông báo mất tích, cảnh sát đã vào cuộc điều tra. Một phụ nữ thông tin rằng cô trông thấy bé gái giống Michelle ngồi trên chiếc xe hơi gần cửa hàng thức ăn nhanh ở Penfield. Có một người đàn ông lạ đi cùng, ông ta trở lại ô tô với túi thức ăn trên tay.

Qua khám nghiệm tử thi, điều tra viên cũng phát hiện Michelle đã ăn hamburger trước khi bị hãm hiếp và giết hại.

Cũng trong buổi tối 26/11, một nhân chứng khác nhìn thấy chiếc xe tình nghi đỗ trên tuyến đường 350 ở Walworth. Chiếc xe này bị nổ lốp nên anh ta đã lại gần và yêu cầu giúp đỡ, song người đàn ông kỳ lạ từ chối. Nhân chứng này xác nhận trông thấy Michelle ngồi trong xe.

Mặc dù rất nhiều người khác đứng ra làm nhân chứng và vô số lập luận được đưa ra, song hung thủ chưa bao giờ lộ diện.

Các hướng điều tra

Từ chứng cứ có được và sự giống nhau trong các vụ án, cảnh sát cho rằng kẻ thủ ác làm trong ngành dịch vụ xã hội. Một hướng tiếp cận khác đưa ra là sát nhân biết rất rõ nơi các cô bé theo học, biết tường tận về gia đình và đường đi lối lại hằng ngày. Dù vậy, sự phỏng đoán này không đưa ra lại kết quả khả quan. Lí do kẻ thủ ác ra tay vẫn là một bí ẩn lớn.

Hàng trăm đối tượng tình nghi đã được cơ quan điều tra triệu tập và thẩm vấn. Kẻ bị nghi ngờ lớn nhất tự sát 6 tuần sau khi cô bé Michelle được tìm thấy. Tuy nhiên xét nghiệm DNA năm 2007 khẳng định người này trong sạch.

Cậu ruột của cô bé Colon cũng bị nghi ngờ và ông này treo cổ vào năm 1991. Một kẻ khác bị đặt dấu hỏi lớn là Kenneth Bianchi vì y từng dính tới vụ mất tích của hai thiếu nữ ở bang Washington.

Theo cảnh sát, Bianchi là một tú ông đích thực. Nạn nhân đầu tiên của Bianchi là một gái mại dâm không nghe lời. Bianchi tra tấn cô gái trước khi xuống tay giết hại. Khi bị bắt, tên này cố tình giả chứng rối loạn nhân cách để thoát tội. Dù vậy, bằng chứng giữa Bianchi và 3 vụ giết người kinh hoàng theo tên không được tìm thấy và khẳng định.

Một kẻ khác bị đưa vào diện tình nghi là Joseph Naso, sống ở Rochester, New York. Naso từng kết hôn với một phụ nữ và có một người con tên Charles. Sau này hai người li dị, Naso chuyển tới nhiều nơi sinh sống và làm nhiếp ảnh gia.

Trong quá trình điều tra, cảnh sát tìm thấy hàng ngàn bức ảnh phụ nữ mặc đồ lót trong nhà của Naso. Ngày 13.4.2010, Naso bị truy tố về tội giết hại 4 người phụ nữ ở bang California. Tuy nhiên, sự liên quan của Naso không được tìm thấy trong 3 vụ án kì lạ ở New York.

Hàng trăm người đã trải qua thẩm vấn để xác định nghi phạm, song cơ quan điều tra chưa bao giờ tìm được hung thủ thật sự. Một trong những kẻ tình nghi từng bị điều tra là Dennis Termini, ông là lính cứu hỏa. Chiếc xe của Dennis có chi tiết gần giống với mô tả của nhân chứng.

Đến năm 2007, Dennis được cho là vô tội bởi kết quả xét nghiệm DNA không trùng khớp với hung thủ

Đến nay sau 43 năm, danh tính của kẻ thủ ác vẫn là điều bí ẩn với nước Mỹ.

Những chi tiết rợn người

Sau 3 vụ án liên tiếp trong 3 năm, cảnh sát bắt đầu nhận ra sự tương đồng trong cách giết người của hung thủ. Hắn có sở thích tìm kiếm nạn nhân nhỏ tuổi, có tên và họ trùng chữ cái đầu tiên, sau đó sẽ vứt thi thể nạn nhân ở địa danh có chữ cái tương tự.

Bên cạnh đó, 3 chữ cái đó khi ghép lại sẽ lần lượt là C, W, M, đây có khả năng là cụm viết tắt của COME WITH ME (Tạm dịch: Hãy đến với tôi)
 

hoahongden12

Active Member

Cơ quan điều tra biết chắc thủ phạm là ai nhưng họ cũng không thể đưa ra kết luận cuối cùng do thiếu chứng cứ.

Dù đã bị lãng quên khá lâu nhưng vụ án bí ẩn năm 1922 mang tên Hall-Mills vẫn là một trong những kì án gây tranh cãi nhất lịch sử nước Mỹ. Trong hơn 20 năm kể từ khi vụ án được biết tới, đây luôn là một trong những thông tin thu hút sự chú ý của người Mỹ nhất.

Sáng sớm hôm ấy, như thường lệ, một chàng trai và một cô gái yêu nhau đi dạo thong dong ở vùng thôn quê yên bình ở bang New Jersey. Bỗng nhiên, họ phát hiện ra một cảnh tượng kinh hoàng: xác của một người đàn ông và một người phụ nữ nằm trên cánh đồng. Dấu hiệu bên ngoài cho thấy họ bị bắn chết.

Tay người đàn ông xấu số đặt lên ngực cô gái, chân của cô gác lên đùi người kia. Cả hai đều bị bắn bằng những viên đạn đường kính 0.32. Người đàn ông bị bắn một lần, người phụ nữ bị bắn ba lần. Đáng chú ý, xung quanh họ rải đầy thư tình do cả hai viết trao nhau.

Người đàn ông sau đó được cảnh sát xác định là Reverend Hall, một mục sư ở New Brunswick. Cô gái tên Eleanor Mills, một ca sĩ trong dàn hợp xướng nhà thờ. Cả hai có quan hệ tình cảm với nhau được một thời gian dù đã kết hôn với người khác.

Vợ của Reverend là Frances Hall, một người phụ nữ giàu có, luống tuổi. Nhiều người tin rằng Reverend lấy người phụ nữ này vì lí do tiền bạc. Chồng của Eleanor là James Mills, một thầy giáo ở trường tiểu học địa phương. Mills-Hall yêu nhau và tất cả mọi người đều biết. Khi thi thể hai người được phát hiện, hàng ngàn người có mặt ở hiện trường.

Những người hiếu kỳ khiến bằng chứng ở khu vực xảy ra án mạng bị phân tán. Thậm chí họ còn chuyền tay nhau những lá thư tình của Hall-Mills hoặc đọc to thành tiếng.

Một lí do nữa khiến vụ việc này càng trở nên bí ẩn chính là thi thể của nạn nhân. Ngoài bị bắn ba phát vào đầu, Mills bị cắt họng và xét nghiệm tử thi cho thấy thanh quản của cô bị rút ra ngoài. Dù Hall vẫn đeo kính và đội mũ hiệu Panama, đồng hồ trên tay của anh ta đã biến mất bí ẩn.

Chính quyền cho rằng động cơ của vụ giết người là ghen tuông và nghi ngờ dồn hết vào vợ của Hall và hai em trai của bà. Gia đình nhà bà Hall là một trong những gia tộc nổi tiếng và giàu có nhất vùng New Brunswick. Tháng 11.1926, bà vợ của Hall đưa vụ việc ra tòa khiến báo chí càng thêm “đổ dầu vào lửa”.

Những tờ báo nổi tiếng như Thời báo New York và New York Daily Mirror dành nhiều số với không gian rất rộng để đưa tin về vụ việc. Thậm chí họ còn đặt biệt danh cho những nạn nhân xấu số, chẳng hạn như Eleanor Mills bị gọi là “cô gái đẹp tuyệt trần của dàn hợp xướng”. Một nhân chứng sống gần nơi xảy ra vụ việc bị các tờ báo gọi là “quý bà lợn”.

Vụ án xét xử kéo dài 30 ngày. Dù bà Hall và em trai của bà có đầy đủ động cơ và thủ đoạn để giết người nhưng điều quan trọng nhất là bằng chứng thì không tìm thấy. Chính cảnh tượng hỗn loạn của hàng ngàn người hiếu kỳ lúc phát hiện ra cái xác đã làm việc thu thập bằng chứng trở thành công cốc. Sau khi trắng án, bà Hall thậm chí còn kiện ngược tờ New York Daily Mirror vì dám quy chụp bà là thủ phạm.

Dù hầu hết các sử gia và điều tra viên tin rằng bà Hall và em trai là thủ phạm nhưng vụ án không thể khép lại do thiếu bằng chứng. Vụ án Hall-Mills được xem là nguyên mẫu và được đưa một phần vào tác phẩm kinh điển “Gatsby vĩ đại”.
 

hoahongden12

Active Member

Hắn có thể xuất hiện ở bất kì đâu. Một khu vực nhỏ bé ở London chìm sâu trong nỗi sợ tên sát nhân sẽ xuất hiện một lần nữa. Các cô gái điếm sợ rằng mình sẽ là nạn nhân tiếp theo. Những nạn nhân của sát thủ đều là gái mại dâm, bị giết hại vô cùng dã man và quăng xác khắp London. Kẻ đồ tể được đặt biệt danh “Jack đồ sát”

Cũng giống như kẻ cuồng sát nước Mỹ tên Jack, kẻ thủ ác người Anh đã giết ít nhất 6 nạn nhân. Hai trường hợp còn lại hiện vẫn nằm trong nghi ngờ vì không cùng cách thức với 6 vụ ban đầu.

Tất cả các nạn nhân đều được tìm thấy quanh quận Hammersmith hoặc dọc sông Thames nổi tiếng. Họ không có quần áo và bị giết rất tàn độc. Vụ việc kéo dài trong quãng thời gian 12 tháng từ năm 1964.

Các nạn nhân xấu số

Hannah Tailford sinh ra trong một gia đình làm nghề khai mỏ ở Lancashire. Xác của cô được tìm thấy ở cầu Hammersmith ngày 2.2.1964. Cô bị nhổ mất vài chiếc răng và mồm bị nhét quần lót. Nạn nhân chết do treo cổ.

Nạn nhân tiếp theo là Irene Lockwood được tìm thấy hai tháng sau vào ngày 8.4. Địa điểm tìm thấy xác của Irene cách không xa nơi phát hiện thi thể của Hannah. Cảnh sát xác nhận hai vụ án này do cùng một kẻ thực hiện. Nạn nhân thứ ba tên Elizabeth Figg được tìm thấy sau đó không lâu cũng bị giết theo cùng cách thức.

Kenneth Archibald, một người chăm sóc người già, tự nhận mình là thủ phạm giết Irene. Tuy nhiên, cảnh sát đã bác bỏ thông tin này.

Ngày 24.4, xác của Helen Barthelemy được tìm thấy khi cô mới 22 tuổi. Thi thể của Helen bị vứt chỏng chơ ở đường Brentford. Đây là vụ án đầu tiên các thám tử có được chút ít manh mối. Những vết sơn nhỏ tìm thấy gần thi thể được xác định là dùng trong sơn mô tô. Điều tra viên tin rằng thủ phạm là một thợ sơn.

Khi xác của gái mại dâm Mary Flemming được tìm thấy vào ngày 14.7 tại một con phố ở vùng Chiswick, cư dân địa phương nghe thấy tiếng xe cộ rú ga rồi bỏ chạy. Nhiều dấu sơn cũng được phát hiện tại nơi Mary bị giết hại.

Frances Brown được nhìn thấy lần cuối cùng là vào ngày 23.10 bởi cô bạn Kim Taylor. Một tháng sau vào ngày 25.11, xác của Brown được tìm thấy ở đường Kensington. Taylor có thể miêu tả chính xác đặc điểm người đàn ông đã đón bạn mình cũng như chiếc xe mà anh ta đi. Theo Taylor, đó là một chiếc Ford Zephyr hoặc Zodiac.

Nạn nhân cuối cùng bị giết bởi “Jack đồ sát” là Bridget O’Hara, hay còn gọi là Birdie. Xác của cô được tìm thấy trong một nhà kho với rất nhiều dấu sơn ở hiện trường. Có vẻ như thi thể của cô đã được cất trong một môi trường ấm hơn bình thường rồi mới vứt ra ngoài.

Vụ giết hại Elizabeth Figg được cho là liên quan tới một vụ án diễn ra vào năm 1959. Nạn nhân ngày hôm đó cũng bị nhổ răng và chết vì treo cổ. Điều tra viên cho rằng chính “Jack đồ sát” đã thực hiện vụ việc đầu tiên năm 1959 dù chưa có bằng chứng xác thực.

Một nạn nhân khác bị tình nghi do Jack giết hại là Gwynneth Rees. Cô cũng bị mất răng và bị treo cổ tới chết. Xác của cô được tìm thấy trong thùng rác nằm không xa sông Thames năm 1963.

Vụ án hai gái mại dâm chết ở khu Hammersmith không được giải đáp nhưng có một tình tiết đáng lưu ý. Hannah Tailford và Frances Brown đều liên quan tới bê bối tình dục mang tên “Profumo Affiar” năm 1963.

Những nạn nhân khác đều đóng phim khiêu dâm hoặc biết nhau từ trước. Có lẽ họ cũng biết hung thủ nhưng không ngờ bị giết.

Những nghi ngờ không lời đáp

Điều tra trưởng John Du Rose là người phụ trách hồ sơ vụ án. Trong quá trình truy tìm hung thủ, 7.000 người tình nghi đã bị thẩm vấn. Trong một cuộc họp báo, John nói rằng số lượng nghi phạm bị rút xuống còn 20 người và sau đó là 3 người. Sau cuộc họp báo đầu tiên, nỗi ám ảnh về “Jack đồ sát” chấm dứt vì hắn không còn ra tay nữa.

John nghi ngờ một người nhiều hơn cả trong số 3 kẻ bị tình nghi. Trong cuộc phỏng vấn với đài BBC năm 1970, John nói rằng người bảo vệ tên Mungo Ireland bị tình nghi nhiều nhất.

Trước đó, John không nêu danh tính Ireland mà chỉ gọi người này là “John lớn”. John cho biết ngay sau vụ án Bridget O’Hara bị giết hại, Ireland đã bị nghi ngờ.

Dựa vào dấu sơn, John biết rằng Ireland có liên quan tới một tập đoàn bất động sản trong khu vực. Sau đó, Ireland tự sát và trăng trối rằng “tôi không thể chịu thêm được nữa”.

Dù Ireland tự sát nhưng bằng chứng sau này cho thấy thời điểm Bridget bị giết, người này đang ở Scotland.

Nhiều nghi phạm khác cũng nằm trong diện tình nghi, đáng chú ý có nhà vô địch quyền anh hạng lông Freddie Mills. Người này tự sát năm 1965, trùng thời điểm chuỗi giết người hàng loạt của Jack chấm dứt.

Giả thuyết cuối cùng được đưa ra liên quan tới Harold Jones, một thiếu niên bị buộc tội giết người vì ám hại hai bé gái năm 1921. Do là thiếu niên nên Harold thoát án tử. Sau 20 năm trong tù và cải tạo tốt, Harold được tự do. Vụ án năm 1921 do Harold gây ra và “Jack đồ sát” thực hiện đều có điểm chung: nạn nhân không bị tấn công tình dục nhưng bị hành hạ cực kì dã man
 
Bên trên