Kẻ Đầu Tiên Phải Chết

hoahongden12

Active Member
Thể loại : Trinh Thám
Tác Giả : James Patterson
Người dich: Nguyễn Mạnh Cường

Bạn sắp đọc cuốn sách có nội dung giật gân và ly kỳ bậc nhất của James Patterson.
Tại San Francisco, những cặp vợ chồng mới cưới đã bị săn đuổi và giết hại dã man. Và bốn người phụ nữ không thể nào quên đã xuất hiện, họ là bạn bè…
Lindsay – nữ thanh tra những vụ giết người trong Sở cảnh sát thành phố…
Claire – một bác sỹ pháp y tài năng…
Jill – một trợ lý ủy viên công tố…
Và Cindy – một nhà báo vừa mới khởi nghiệp trên trang viết về tội phạm của tờ Tin tức Thời sự San Francisco.
Họ cùng tập trung sức lực, chung đúc tài năng, lòng can đảm và trí tuệ với cùng mục đích: Tìm kiếm, giăng bẫy và đánh lừa kẻ sát nhân hiểm ác kinh khủng nhất không ai có thể tưởng tượng nổi.
Những lời bình đặc sắc dành cho James Patterson và cuốn sách bán chạy số một của Thời báo New York Times:
Patterson làm sôi sục cảnh tượng với những chi tiết biết nói, những yếu tố xác định tính cách hoặc làm cho cốt truyện chuyển động. Điều đó khiến câu chuyện được chiếu rọi trong tâm trí người đọc. – Micheal Connelly, tác giả cuốn Tối hơn đêm.
Ông là bậc thầy trong thể loại truyện này. Những người hâm mộ đều có chung một mong muốn là: Ông hãy viết nhanh hơn. – Larry King, USA Today
Tình tiết thông minh với đủ những hé lộ ở phút cuối khiến cho người đọc phải phỏng đoán liên tục. – Entertainment Weekly
Nếu bạn muốn thở dốc lên hay sợ đến quẫn trí, hãy đọc cuốn tiểu thuyết trinh thám mới nhất này của Patterson. – First Lauderdale Sun, Sentinal
Lại một lần nữa Patterson chứng tỏ mình là bậc thầy để sáng tạo ra những kiệt tác… Thật là một cuốn sách tuyệt vời: mỗi lần bạn nghĩ mình đã nắm được chút đầu mối nào đó thì bạn lại nhận ra rằng kẻ sát nhân vẫn còn ở đâu đó phía trước… – Providence Sunday Journal
Đông đảo những độc giả hâm mộ Patterson sẽ rất hài lòng với cuốn tiểu thuyết mở đầu cho seri truyện trinh thám về bốn người phụ nữ can đảm và thông minh này. – Roanoke Times
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 1

Đó là một đêm ấm áp khác thường vào tháng 7, nhưng tôi vẫn rùng mình khi đứng trên sân thượng đá xám lớn bên ngoài căn hộ của mình. Tôi nhìn bao quát thành phố San Francisco hoa lệ với một khẩu súng dí vào thái dương.

- Chết tiệt – Tôi lẩm bẩm, chỉ là cảm tính thôi, nhưng hợp lý và chính xác. Tôi nghĩ vậy.

Tôi nghe thấy tiếng con chó Martha đáng yêu đang rên ư ử. Tôi quay người lại và thấy nó đang nhìn mình qua cửa kính dẫn thẳng ra sân thượng. Nó biết có gì đó không ổn.

- Ổn cả mà. Nằm xuống đi, Martha – Tôi nói với qua cánh cửa.

Martha không nhúc nhích và cũng không nhìn đi chỗ khác. Nó là một người bạn tốt và trung thành – người luôn ấp ủ cho tôi yên giấc trong suốt sáu năm qua.

Khi nhìn vào mắt con chó giống Border xứ Ê-cốt ấy, tôi đã nghĩ mình nên vào trong gọi mấy cô bạn gái. Claire, Cindy, và Jill sẽ có mặt gần như ngay lập tức sau khi tôi gác máy. Họ sẽ nắm chặt tay tôi, ôm ghì tôi và nói tất cả những điều tốt lành như: Cậu thật đặc biệt, Lindsay. Mọi người đều mến cậu, Lindsay.

Có điều chắc chắn rằng tôi sẽ biến khỏi đây vào đêm mai hoặc đêm ngày kia. Tôi chỉ không thấy đường ra khỏi đống hỗn độn này thôi. Tôi đã nghĩ hàng trăm lần. Tôi có thể suy nghĩ cực kỳ hợp lý, nhưng rõ ràng cũng rất dễ xúc động – đó là điểm mạnh của tôi với tư cách là một thanh tra cảnh sát thuộc Sở cảnh sát San Francisco. Một sự kết hợp hiếm có, và tôi cho rằng đấy là lý do giúp tôi thành công hơn bất kỳ người đàn ông nào ở Homicide. Tất nhiên, chẳng có ai ở đấy sẵn sàng lấy súng tự bắn tung đầu mình ra. Tôi lướt nhẹ nòng súng ổ quay xuống má, rồi lại đưa lên thái dương. Lạy chúa tôi, tôi nhớ tới bàn tay Chúa, của Đấng cứu thế, khiến tôi muốn hét lên.

Những hình ảnh lướt nhanh trong tâm trí tôi đến mức không thể nắm bắt được. Những kẻ giết người trong tuần trăng mật kinh hoàng làm cho cả thành phố khiếp sợ, hòa lẫn với hình ảnh rất gần của mẹ tôi và thậm trí cả một vài hình ảnh lóe sáng về bố tôi. Và những cô bạn gái tốt bụng của tôi: Claire, Cindy, và Jill – một câu lạc bộ điên rồ. Tôi thậm trí còn mường tượng thấy chính mình theo đúng kiểu mà trước đây tôi từng thế. Chẳng có ai nghĩ rằng tôi trông giống một thanh tra, một nữ thanh tra duy nhất trong toàn Sở cảnh sát San Francisco. Các bạn của tôi luôn nói tôi phần nhiều trông giống Helen Hunt đã kết hôn với Paul Reiser trong Mad About You (Điên dại vì em). Tôi đã từng kết hôn một lần. Tôi không phải là Helen Hunt và chồng tôi chắc chắn cũng không phải là Paul Reiser. Điều này thật khó khăn, tồi tệ và sai trái. Không giống tôi chút nào. Tôi vẫn cứ xem xét về David và Melania Brandt, cặp vợ chồng đầu tiên bị giết tại Phòng cao cấp ở Khách sạn Grand Hyatt. Tôi nhìn thấy căn phòng khách sạn khủng khiếp ấy, nơi họ phải chết một cách vô nghĩa.

Câu chuyện mới chỉ bắt đầu.

Những đóa hồng rực rỡ tràn ngập các dãy phòng khách sạn – một món quà tuyệt vời.

Mọi thứ đều hoàn hảo.

Liệu có một gã may mắn hơn ở đâu đó trên hành tinh này không, David Brandt đã nghĩ như vậy khi vòng tay ôm Melanie, cô dâu mới của mình. Nơi nào đó ở Yemen – có thể đó là một anh chàng nông dân thể hiện lòng tôn thờ thánh Ala bằng con dê thứ hai của mình. Nhưng chắc chắn tất cả việc đó không xảy ra ở San Francisco.

Đôi vợ chồng trông ra ngoài từ phòng khách cao cấp ở Grand Hyatt, họ có thể thấy ánh sáng của Berkeley ở phía xa xa, Alcatraz, những đường nét duyên dáng của cây cầu Cổng Vàng.

- Không thể tin được. Em sẽ chẳng đổi ngày hôm nay lấy bất cứ thứ gì – Melanie tươi cười rạng rỡ.

- Anh cũng thế. Vậy, có khi chúng ta không nên mời bố mẹ anh tới – Anh chồng thì thầm vậy và họ phá lên cười vui vẻ.

Chỉ vài phút trước họ còn phải chào từ biệt những vị khách cuối cùng trong số ba trăm khách của cả hai họ trong phòng khiêu vũ ở khách sạn. Lễ cưới cuối cùng cũng kết thúc với bữa tiệc thịnh soạn, khiêu vũ, rượu tràn ly và những nụ hôn bên chiếc bánh cưới. Giờ chỉ còn hai người với nhau. Họ đã 29 tuổi và cả cuộc đời còn dài phía trước.

David với lấy chai sâm banh, rót hai ly mà anh đã đặt trên bàn quét sơn bóng nhoáng.

- Nâng cốc chúc mừng người đàn ông may mắn thứ hai nào?

- Thứ hai sao? – Cô dâu mỉm cười hỏi lại với giọng giả vờ sốc – Thế ai là thứ nhất?

- Một gã nông dân với hai con dê. Anh sẽ kể em nghe sau – Và họ vòng tay nhau, cùng uống một hơi dài.

- “Anh có cái này dành cho em”. Đột nhiên David nhớ ra.

Anh đã tặng Melanie một chiếc nhẫn kim cương năm cara hoàn hảo mà anh biết rằng cô đeo nó chỉ để làm hài lòng họ hàng và bạn bè thân thuộc của anh. Anh đi tới chiếc áo vét tuxedo đang vắt trên lưng ghế cao rồi quay trở lại với một chiếc hộp từ Bulgari.

- Không, David. Anh chính là món quà dành cho em rồi – Melanie phản đối.

- Cứ mở ra xem đi. Là thứ em thích đấy.

Cô mở chiếc hộp. Bên trong hộp nhỏ bằng da lộn là một đôi khuyên tai, với những vòng bạc lớn bao quanh hình mặt trăng kỳ lạ làm bằng kim cương.

- Chúng thể hiện tấm lòng của anh với em.

Melanie ướm thử đôi khuyên tai. Rất hợp với cô, thật hoàn hảo như chính cô vậy.

- Em yêu – David thì thầm.

Họ trao nhau những nụ hôn, và anh bắt đầu lần kéo chiếc phécmơtuya nơi bộ váy của cô, khiến chiếc cổ áo rơi xuống đến vai. Anh hôn lên cổ, lên ngực cô dâu.

Có tiếng gõ cửa.

- Rượu sâm banh đây ạ - Tiếng từ bên ngoài vọng vào.

Trong phút chốc, David đã định la lên “Cứ để đấy”. Cả buổi tối, anh đã nóng lòng muốn tháo bỏ lớp quần áo ra khỏi đôi vai trắng mịn của vợ.

- Ôi, ra nhận đi nào. Em sẽ đeo khuyên tai nhé – Melanie thì thầm, đu đưa đôi khuyên tai trước mặt anh.

Cô thoát ra khỏi vòng tay ghì chặt của chồng, đi về phía phòng tắm, một ánh cười hiện trong đôi mắt nâu ướt. Chúa ơi, anh yêu đôi mắt ấy.

Khi bước ra cửa, David đã nghĩ rằng anh sẽ không đổi địa vị này với bất cứ ai trên thế giới.

Thậm trí không với cả con dê thứ hai.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 2

Phillip Campbell đã mường tượng thấy hình ảnh đẹp đẽ này rất nhiều lần. Hắn biết chắc chắn chú rể sẽ ra mở cửa. Hắn bước vào phòng.

- Xin chúc mừng - Campbell nói khẽ khi đưa cho chú rể chai sâm banh.

Hắn nhìn chằm chằm vào người đàn ông trong chiếc áo sơ mi mở tung khuy ở cổ và chiếc cà vạt đen lòng thòng quanh cổ.

David Brandt hầu như không có đủ thời gian để quan sát hắn vì anh đang mải kiểm tra chiếc hộp có thắt ruy băng sáng. Krug. Clos du Mesnil, 1989.

- Điều gì tồi tệ mà một người đã từng làm? Ta có thể làm thế không? Ta có lựa chọn khác không? – Campbell cứ lẩm bẩm một mình như thế.

- Có thiếp gì không? – David hỏi, móc tay vào túi quần lấy tiền boa.

- Chỉ có cái này thôi, thưa ngài.

Campbell sấn tới và cắm phập con dao vào ngực chú rể, chỗ giữa chiếc xương sườn thứ ba và thứ tư, nơi gần tim nhất.

- Dành cho kẻ có tất cả mọi thứ - Campbell nói.

Hắn vào sâu trong phòng, nhanh chân đá sập cửa lại. Hắn xoay tròn người David Brandt, đẩy anh dựa vào cửa, và chọc lưỡi dao vào sâu hơn.

Chú rể cứng người lại trong cơn đau co giật. Những âm yết hầu thốt ra từ lồng ngực, hơi thở yếu, tắc nghẹn. Mắt mở to trong sự hoài nghi.

Thật tuyệt vời – Campbell nghĩ. Hắn thực sự có thể cảm thấy nguồn sinh lực của chú rể đang chảy ra. Người đàn ông vừa mới trải qua một trong những khoảnh khắc hạnh phúc nhất của đời mình mấy phút trước, nay đã đang hấp hối.

Campbell bước lùi lại và thân hình chú rể đổ sụp xuống sàn nhà. Chú rể bắt đầu quằn quại như một chiếc thuyền chòng chành. Rồi mọi chuyện trở nên mau lẹ và xảy ra cùng lúc. Campbell cảm thấy như đang xem một cuốn phim thời sự nhiễu sóng nhập nhằng. Kỳ lạ. Chẳng có gì giống những điều hắn mong đợi. Campbell nghe thấy tiếng cô vợ và nảy ra ý nghĩ rút lưỡi dao ra khỏi lồng ngực David Brandt.

Hắn lao tới chặn đứng Melania khi cô bước vào phòng ngủ trong bộ váy ren dài.

- David? – Nụ cười mong đợi nhanh chóng biến thành cú sốc sợ hãi khi cô quay lại và nhìn thấy Campbell – David đâu? Ông là ai?

Cô đưa mắt nhìn gã lạ mặt với sự sợ hãi, rồi dán mắt vào khuôn mặt hắn ta, lưỡi dao, và cuối cùng là cơ thể chồng mình trên sàn nhà.

- Chúa ơi! David! – Cô hét lên.

Campbell thích ghi nhớ khoảnh khắc này của cô. Cái nhìn mở to, bất động. Những lời hứa, những hy vọng chói sáng mới đây thôi giờ đã tiêu tan hoàn toàn.

- Cô muốn biết vì sao ư? Tôi cũng vậy – Hắn thốt lên.

- Ông đã làm gì? – Melania lại hét lên.

Cô cố gắng hiểu rõ sự việc. Đôi mắt sợ hãi của cô đảo quanh phòng tìm đường thoát thân.

Bất thình lình, cô lao tới cửa phòng khách nhưng Campbell đã chụp được khuỷu tay cô và dí lưỡi dao đẫm máu lên cổ Melania.

- Đừng, xin đừng giết tôi – Cô rên rỉ, mắt dại đi.

- Melania, sự thực tôi ở đây là để cứu cô – Hắn mỉm cười trước khuôn mặt run rẩy của cô.

Campbell hạ thấp lưỡi dao thọc vào cơ thể Melania. Cơ thể mảnh dẻ của cô bật nảy lên với tiếng thét đột ngột, kinh hoàng. Đôi mắt cô vằn đỏ như một bóng đèn điện yếu. Một tiếng nấc hấp hối xuyên qua người cô. Tại sao? Ánh mắt cô van xin. Tại sao?

Hắn lấy lại sức trong vòng một phút. Mùi máu của Melania Brandt nồng sực lên trong lỗ mũi hắn. Hắn gần như không tin được những gì đã làm.

Hắn mang thi thể cô dâu trở lại phòng ngủ và đặt lên giường.

Cô rất đẹp với những đường nét thanh tú và còn rất trẻ. Hắn nhớ lại thời điểm lần đầu tiên nhìn thấy cô, rồi bị cô hấp dẫn như thế nào. Cô đã nghĩ rằng cả thế giới đang bày trước mặt mình.

Hắn vuốt nhẹ lên má trên khuôn mặt dịu dàng của cô, chạm vào chiếc khuyên tai – hình mặt trăng cười.

Điều gì tồi tệ nhất mà một người từng làm? Phillip Campbell tự hỏi mình lần nữa, tim đập thình thịch trong lồng ngực.

Gì thế này? Có phải hắn vừa làm thế không? Chưa đâu, giọng nói trong tâm tưởng hắn trả lời. Không hẳn là chưa.

Rất từ từ, hắn kéo bộ váy cưới trắng lộng lẫy của cô dâu ra.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 3

Đó là khoảnh khắc ngắn ngủi trước 8:30 phút một buổi sáng thứ hai vào tháng 6, một trong những buổi sáng mùa hè xám xịt và lạnh lẽo của thành phố San Francisco. Tôi bắt đầu một tuần tồi tệ, lướt qua những trang tạp chí Người New York cũ trong khi đợi bác sĩ tâm lý của tôi, Tiến sĩ Roy Orenthler, có thời gian tiếp tôi.

Tôi thường gặp Tiến sĩ Roy, như tôi vẫn thi thoảng gọi ông, ngay từ khi còn học chuyên ngành xã hội học tại trường Đại học San Francisco và tới nhờ ông kiểm tra mỗi năm một lần. Đó là thứ ba tuần trước. Trước sự ngạc nhiên của tôi, ông gọi tôi và yêu cầu tôi rẽ vào trước giờ làm việc ngày hôm nay.

Một ngày làm việc bận rộn đang chờ đón tôi: hai vụ kiện đang để ngỏ và một vụ cung tại tòa án quận. Tôi hy vọng có thể tới văn phòng lúc 9 giờ.

Cuối cùng, nhân viên lễ tân cũng gọi đến tôi:

- Cô Boxer, tiến sĩ muốn gặp cô.

Tôi theo chân cô nhân viên vào văn phòng của tiến sĩ.

Như lệ thường, Orenthler chào đón tôi với những câu chọc ngoáy cố ý về tính hài hước của cảnh sát đại loại như: “Nếu cô ở đây thì ai sẽ ở ngoài đường để đuổi bắt tội phạm?”

Tôi đã 34 tuổi, là trưởng thanh tra về nhóm tội phạm giết người của Phòng Tư pháp đã hai năm.

Tuy nhiên hôm nay ông có vẻ cứng rắn và chỉ nói một từ rất nghiêm trang: “Lindsay”. Ông ra hiệu cho tôi ngồi xuống cái ghế đặt chéo bàn làm việc của ông.

Cho tới lúc này, triết lý của tôi về các ngài tiến sĩ khá đơn giản: Khi họ nhìn bạn một cách bí hiểm, âu lo và bảo bạn ngồi xuống ghế thì có ba điều. Và chỉ một trong số đó là tin xấu. Họ sẽ yêu cầu bạn ra ngoài, chuẩn bị sẵn sàng để thông báo một vài tin xấu, hoặc vừa mới bỏ ra cả đống tiền để bọc lại đồ đạc trong phòng.

- Tôi muốn cho cô xem cái này – Orenthler bắt đầu. Ông cầm một tấm phim chiếu lên ánh sáng.

Ông chỉ vào một vài vết bẩn như những khối cầu ma quỷ nhỏ xíu theo dòng những cục tròn nổi nhỏ hơn.

- Đây là ảnh phóng to vết máu tôi lấy từ cô. Những cục to hơn là hồng cầu. Các tế bào máu đỏ.

- Chúng có vẻ rất hạnh phúc – Tôi lo lắng bông đùa.

- Đúng thế, Lindsay. Vấn đề ở chỗ, cô không có nhiều hồng cầu – Tiến sĩ nói mà chẳng nở một nụ cười.

Tôi nhìn chằm chằm vào mắt ông, hy vọng nó sẽ giãn ra và chúng tôi sẽ chuyển sang vấn đề gì đó kém quan trọng hơn, như “Tốt hơn là cô nên giảm thời gian làm việc đi Lindsay”.

Nhưng ông vẫn tiếp tục:

- Lindsay, đấy là một loại bệnh. Thiếu hồng cầu Negli. Rất hiếm gặp. Về cơ bản, nó có nghĩa là cơ thể cô không sản sinh ra hồng cầu nữa.

Ông cầm một bức ảnh lên:

- Hoạt động của máu bình thường sẽ như thế này.

Trong bức ảnh này, phần nền đen trông giống như điểm giao nhau giữa phố Market và Powel lúc 5 giờ chiều, cảnh tắc nghẽn thực sự của các khối cầu mãnh liệt và bị dồn nén. Những sứ giả tốc độ, đưa ôxy tới mọi bộ phận nuôi cơ thể.

Ngược lại, các khối cầu trong tôi trông đông đúc như một trụ sở chính trị sau hai giờ khi các ứng cử viên thừa nhận rằng mình thua.

- Bệnh này có thể chữa được phải không? – Tôi hỏi ông, đúng hơn là đang nói với ông.

- Có thể chữa được, Lindsay. Orenthler ngừng một lát rồi tiếp – Nhưng rất nghiêm trọng.

Một tuần trước tôi đến đây chỉ đơn giản bởi mắt tôi cứ gờn gợn và chảy nước mắt và tôi phát hiện thấy mình ra máu, rồi ngày nào cũng thế, đến ba giờ tôi đột nhiên cảm thấy như thể có vài gã quỷ lùn thiếu sắt trong người hút hết sinh lực của tôi. Tôi – một người của công việc ca kíp và 1 tiếng làm việc một ngày, nghỉ phép đổ dồn vào sáu tuần.

- Nghiêm trọng đến mức nào? – Giọng tôi như nghẹn lại.

- Hồng cầu có tầm quan trọng sống còn đối với quá trình hình thành hồng cầu trong tủy xương.

- Tiến sĩ Roy, đây không phải là sự tham chiếu về mặt y học. Tôi muốn hỏi chúng ta đang nói đến mức độ nghiêm trọng nào?

- Cô muốn biết điều gì, Lindsay? Chẩn đoán hay khả năng?

- Tôi muốn biết sự thật.

Orenthler gật đầu. Ông đứng dậy, đi vòng qua cái bàn và cầm tay tôi.

- Vậy đây là sự thật, Lindsay. Bệnh của cô rất hiểm nghèo.

- Hiểm nghèo ư? – Tim tôi ngừng đập. Cổ họng khô như một miếng da.

- Vấn đề sống còn đấy Lindsay.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 4

Âm thanh của những từ lạnh lẽo, cộc lốc giáng vào tôi như quả đạn pháo bắn thẳng vào giữa mắt.

Vấn đề sống còn đấy, Lindsay.

Tôi đợi để Tiến sĩ Roy nói rằng tất cả chỉ là trò đùa, rằng ông đã lẫn những xét nghiệm của tôi với của ai khác. Nhưng ông vẫn tiếp tục nói:

- Lindsay, tôi muốn đưa cô tới bác sĩ chuyên khoa huyết học. Cũng như các bệnh khác, bệnh này có nhiều giai đoạn khác nhau. Giai đoạn một là khi các tế bào tan máu nhẹ. Việc này có thể điều trị bằng truyền máu mỗi tháng. Giai đoạn thứ hai là thiếu hồng cầu trong toàn bộ cơ thể. Giai đoạn ba buộc phải nằm điều trị tại bệnh viện để cấy ghép tủy. Khả năng là phải cắt lá lách.

- Thế tôi đang ở giai đoạn nào? – Tôi hỏi và hít đầy thứ không khí tù túng.

- Lượng hồng cầu của cô chỉ đo được 200/1cc máu, tức là cô đang ở mức đỉnh rồi.

- Mức đỉnh là sao?

- Mức đỉnh giữa giai đoạn hai và ba.

Có những thời khắc trong mỗi đời người khi bạn nhận ra số tiền cược đột nhiên thay đổi. Chuyến xe thảnh thơi của cuộc đời bạn đâm sầm vào một bức tường đá; tất cả những năm tháng thanh xuân sắp qua đi; cuộc sống đang đưa bạn tới nơi bạn muốn bỗng đột nhiên kết thúc. Đối với công việc, tôi có thể mường tượng thấy cảnh mọi người sẽ phải làm việc nhiều hơn.

Chào mừng đến với thế giới của tôi.

- Thế điều này có nghĩa gì? – Tôi cất giọng hỏi yếu ớt. Căn phòng lúc này như đang quay tròn.

- Lindsay, điều này có nghĩa là cô sẽ phải theo một chế độ ăn uống kéo dài theo phương pháp điều trị tăng liều.

Tôi lắc đầu.

- Điều này có nghĩa lý gì đối với công việc của tôi kia chứ?

Tôi đã làm việc cho Phòng Điều tra các vụ giết người được sáu năm, và hai năm qua tôi là Chánh thanh tra về tội phạm hình sự. Nhờ chút may mắn nào đấy, khi Trung úy của tôi được thăng cấp, thì tôi được bổ nhiệm lên thay. Phòng hình sự cần những người phụ nữ mạnh mẽ. Họ có thể tiến xa. Cho tới giờ phút này tôi vẫn nghĩ rằng tôi có thể tiến xa.

- Ngay lúc này, tôi không nghĩ điều này có vấn đề nghiêm trọng. Miễn là cô cảm thấy khỏe trong khi điều trị thì cô có thể tiếp tục công việc. Trên thực tế, đó thậm trí còn là một liệu pháp tốt là đằng khác.

Đột nhiên tôi cảm thấy các bức tường như đang tiến gần tôi hơn khiến tôi thấy ngạt thở.

- Tôi sẽ cho cô biết tên bác sĩ chuyên khoa huyết học ấy – Orenthaler nói.

Ông tiếp tục nói về năng lực của vị bác sĩ ấy, nhưng tôi chẳng còn nghe thấy gì nữa. Tôi đang mải nghĩ, tôi sẽ thông báo việc này với ai trước đây? Mẹ tôi đã mất cách đây 10 năm vì ung thư vú. Bố tôi đã mất khi tôi mới 13 tuổi. Tôi có một cô em gái tên là Cat nhưng cô ấy đang sống một cuộc sống dễ chịu và giản dị ở Newport Beach, và cô ấy mới đánh được một quả kha khá trong thời điểm khủng hoảng vừa qua.

Tiến sĩ đẩy lá thư giới thiệu về phía tôi.

- Tôi biết, Lindsay. Cô sẽ giả vờ như đấy là một việc mà cô có thể giải quyết được bằng cách làm việc chăm chỉ cần mẫn. Nhưng cô không thể, đây là bệnh hiểm nghèo. Tôi muốn cô gọi cho ông ấy ngay ngày hôm nay.

Máy nhắn tin của tôi đổ chuông. Tôi lần mò trong túi xách và nhìn số nhắn. Đó là tin nhắn của Jacobi.

- Tôi cần gọi điện thoại.

Orenthaler ném về phía tôi cái nhìn khiển trách mà tôi có thể đọc được là: Tôi đã bảo cô rồi đấy, Lindsay.

- Theo đúng lời ông nói đấy, liệu pháp mà – Tôi cố nở một nụ cười lo lắng.

Tiến sĩ hất đầu về phía chiếc điện thoại trên bàn làm việc của ông rồi đi ra khỏi phòng. Tôi quay số gọi cộng sự của mình. Giọng Jacobi cộc lốc phát ra từ đường dây.

- Cuộc vui hết rồi, Boxer. Chúng ta có việc ở phòng đôi 180, khách sạn Grand Hyatt.

Đầu tôi quay cuồng với những lời của tiến sĩ. Trong sự bối rối hoang mang, tôi đã không trả lời.

- Cô có nghe thấy không, Boxer. Giờ làm việc. Cô đang trên đường tới à?

- Đúng vậy – Cuối cùng tôi cũng nói được.

- Và phải mặc cái gì trông dễ thương một tý. Giống như tới dự một đám cưới ấy – Cộng sự của tôi càu nhàu.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 5

Tôi không thể nhớ nổi làm thế nào tôi ra khỏi văn phòng tiến sĩ Orenthaler, đi ra Noe Valley và tới Hyatt ở Quảng trường Liên bang.

Tôi vẫn cứ nghe thấy lời tiến sĩ dội vang trong đầu. Trong những trường hợp nghiêm trọng, căn bệnh Negli có thể là nguy cơ sống còn.

Tất cả những gì tôi biết là hai mươi phút sau cuộc gọi của Jacobi, chiếc Bronca 10 tuổi của tôi phanh kít lại trước sảnh ngoài của khách sạn.

Con phố bừng bừng lên với những hoạt động của cảnh sát. Chúa ơi, chuyện quái quỷ gì diễn ra thế?

Toàn bộ khu nhà giữa Sutter và Quảng trường Liên bang đã bị vây quanh bằng dây và chướng ngại vật màu xanh trắng. Trong sảnh khách sạn, một đám người mặc đồng phục đứng đó, kiểm tra người ra người vào, xua đám người hiếu kỳ đứng xem.

Tôi giơ phù hiệu ra để vào được tiền sảnh. Tôi nhận ra hai cảnh sát mặc đồng phục đang đứng ở phía trước là Murray bụng phệ và anh chàng cộng sự Vasquez trẻ hơn. Tôi yêu cầu Murray đưa tôi đi cho nhanh.

- Những gì tôi được thông báo là có hai vị khách rất quan trọng bị ám sát trên tầng 30. Tất cả các nhân viên tinh nhuệ đều đang ở đó.

- Ai chịu trách nhiệm việc này? – Tôi hỏi, cảm thấy sức lực lại tràn trề.

- Bây giờ thì tôi đoán là cô đấy, thanh tra.

- Trong trường hợp ấy, tôi yêu cầu đóng tất cả lối ra vào ngay lập tức. Và lấy danh sách tất cả khách và nhân viên từ người quản lý. Không ai được ra vào trừ khi đã được lên danh sách.

Vài phút sau, tôi đã trên thang máy lên tầng 30.

Cả đám cảnh sát và các nhân viên chính thức đưa tôi tới phòng lớn dẫn tới một cánh cửa đôi ghi dòng chữ “Phòng cao cấp”. Tôi chạy tới chỗ Charlie Clapper, đội trưởng đội khám nghiệm hiện trường đang kéo lê hai chiếc thùng nặng những thiết bị kỹ thuật. Bản thân Clapper có mặt ở đây cũng là điều lớn lao rồi.

Qua cánh cửa mở rộng, đầu tiên tôi nhìn thấy những bông hoa hồng ở khắp mọi nơi. Sau đó tôi thấy Jacobi.

- Cẩn thận chân cô đấy, thanh tra – Anh ta kêu to trong phòng.

Cộng sự của tôi nay đã 47 tuổi, nhưng trông già hơn đến 10 tuổi, tóc đã bạc và bắt đầu hói. Khuôn mặt dường như lúc nào cũng chực nở một nụ cười ngớ ngẩn đối với những câu nói đùa vô vị. Anh ta và tôi đã làm việc với nhau được hai năm rưỡi. Tôi là nhân viên cao cấp, thanh tra – thiếu úy, tuy anh ta có 7 năm hơn tôi trong phòng tội phạm hình sự này nhưng anh luôn phải báo cáo với tôi tất cả mọi sự việc.

Khi bước vào căn phòng, tôi gần như bước qua chân của thi thể ghi số một – chú rể. Anh ta nằm ngay trước cửa, co thành một đống, trong bộ quần áo tuxedo tháo cúc. Máu bết ở phần lông trên ngực. Tôi hít một hơi thở sâu.

- Tôi xin được giới thiệu, ông David Brandt – Jacobi nói với một nụ cười méo mó.

- Bà David Brandt nằm ở trong này. Hãy đoán xem mọi thứ xảy đến với họ nhanh đến mức nào. – Ông chỉ về phía phòng ngủ.

Tôi quỳ xuống và nhìn kỹ thi thể chú rể. Anh chàng khá bảnh bao, với mái tóc ngắn, đen, hơi rối và đường quai hàm mềm mại; nhưng đôi mắt mở to, hằn đỏ và đường máu khô ở trên cằm làm hỏng những đường nét đẹp. Đằng sau anh ta là chiếc áo vét tuxedo nằm trên sàn.

- Ai phát hiện ra họ? Tôi vừa hỏi vừa kiểm tra túi quần chú rể để tìm chiếc ví.

- Viên phụ tá quản lý. Họ dự định bay tới Bali sáng hôm nay. Hòn đảo thôi, không phải sòng bạc đâu, Boxer. Đích thân viên phụ tá quản lý tới đánh thức họ dậy.

Tôi mở xem chiếc ví: một giấy phép lái xe New York với khuôn mặt tươi cười của chú rể. Thẻ bạch kim và các tờ phiếu hàng trăm đô la.

Tôi đứng dậy và nhìn xung quanh căn phòng. Căn phòng được thiết kế theo phong cách bảo tàng nghệ thuật phương Đông: những con rồng màu ngọc bích, ghế và đivăng được trang trí cảnh cung điện hoàng gia. Hoa hồng, tất nhiên rồi. Tôi thích phong cách nghỉ đêm kèm theo bữa sáng ấm cúng hơn, nhưng nếu bạn định đưa ra một nhận định quan trọng nào thì đây chính là nhận định quan trọng mà bạn có thể đưa ra về căn phòng này.

- Hãy tới xem cô dâu nào – Jacobi lên tiếng.

Tôi đi theo anh ta qua cánh cửa đôi mở toang vào phòng ngủ chính và dừng lại. Cô dâu nằm ngửa trên một chiếc giường có màn trướng lớn.

Tôi đã từng tới hiện trường hàng trăm vụ giết người và có thể quan sát thi thể người chết nhanh như bất kỳ ai, nhưng lần này tôi đã không sẵn sàng cho điều ấy. Hình ảnh gợi cho tôi một cảm giác thương cảm chạy dọc sống lưng.

Cô dâu vẫn còn mặc áo cưới.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 6

Bạn chẳng bao giờ chứng kiến nhiều nạn nhân bị giết đến mức khiến bạn không còn thấy đau đớn nữa, nhưng lần này thì khó mà nhìn nổi.

Cô dâu còn quá trẻ và xinh đẹp: điềm tĩnh, yên bình và không bị xáo động ngoại trừ ba bông hoa đỏ màu đỏ thẫm trên khuôn ngực trắng. Cô trông như thể một nàng công chúa đang nằm ngủ đợi hoàng tử của mình đến, nhưng tiếc thay hoàng tử của cô lại nằm ở phòng bên kia, ruột gan phơi bày cả trên sàn nhà.

- Họ muốn gì khi trả 3.500 đô la cho một đêm khách sạn? – Jacobi nhún vai – Một câu chuyện thần tiên à?

Câu nói lấy đi tất cả những gì tôi đang cố kiềm chế để tập trung vào những việc phải làm. Tôi liếc nhìn chua cay như thể muốn hạ gục Jacobi.

- Boxer, chuyện gì thế? – Khuôn mặt anh xịu xuống – Chỉ đùa thôi mà.

Mặc dù tôi đang khó chịu nhưng những cử chỉ trẻ con, hối lỗi của anh ta khiến tôi trở lại trạng thái bình thường. Cô dâu đeo một chiếc nhẫn kim cương lớn ở bàn tay phải và một khuyên tai rất đẹp. Dẫu động cơ của kẻ giết người là gì, thì đây cũng không phải là một vụ trộm cắp.

Một chuyên viên của phòng khám nghiệm y tế chuẩn bị khám nghiệm bước đầu. Anh ta nói:

- Trông như có ba vết đâm. Cô ấy chắc hẳn đã vật lộn dữ dội. Hắn ta giết chú rể chỉ với một nhát đâm. Điều chợt lóe lên trong tâm trí tôi là đến 90% các vụ giết người là vì tiền hoặc tình. Vụ này có vẻ như không phải vì tiền.

- Lần cuối cùng mọi người nhìn thấy họ là khi nào? – Tôi hỏi.

- Khoảng sau 10 giờ tối qua. Đó là khi nhân viên lễ tân xuống dưới tầng.

- Và không nhìn thấy nữa khi nào sau đó?

- Tôi biết đây chính xác không phải lĩnh vực của cô, Boxer – Jacobi toét miệng cười – Nhưng mọi người thường không gặp cô dâu và chú rể sau buổi tiệc.

Tôi mỉm cười yếu ớt, rồi đứng dậy quay lại nhìn căn phòng rộng xa hoa.

- Tôi rất ngạc nhiên đấy, Jacobi. Ai thanh toán cho một căn phòng như thế này?

- Bố của chú rể có một vài cửa hàng lớn tại phố Wall ở mặt phía đông. Ông ta và vợ ở phòng 12. Tôi được báo cáo đấy là bữa tiệc rất náo nhiệt. Trên đây cũng thế, nhìn đám hoa hồng mắc dịch này mà xem.

Tôi quay trở ra phía chú rể và để ý tới một cái gì trông như hộp quà sâm banh trên một thanh đỡ đá cẩm thạch gần cửa ra vào. Có một đường máu xung quanh nó.

- Viên phụ tá đã để ý thấy nó. Tôi đoán là kẻ giết người đã mang vào theo.

- Họ có nhìn thấy ai quanh đây không?

- Có, rất nhiều người mặc bộ đồ tuxedo. Đám cưới mà, phải không?

Tôi đọc nhãn chai sâm banh. “Krug. Clos du Mesnil, 1989”.

- Có nói lên điều gì không? – Jacobi hỏi tôi.

- Chỉ biết được là kẻ sát nhân rất sành sỏi.

Tôi nhìn vào bộ vét tuxedo nhuốm máu. Có một vết rách duy nhất ở một bên nơi con dao định mệnh đâm một đường qua đó.

- Tôi đoán là tên giết người này chắc phải cởi cái áo ra sau khi đâm anh ta – Jacobi nhún vai:

- Hắn ta đã làm cái quỷ gì thế không biết nữa? Tôi lẩm bẩm nghe khá rõ.

- Ai mà biết được. Chúng ta sẽ phải tra khảo hắn ta.

Charlie Clapper đưa mắt nhìn tôi từ hành lang ra ý hỏi xem anh ta bắt đầu công việc của mình được chưa. Tôi gật đầu ra hiệu đồng ý. Sau đó tôi quay trở lại với cô dâu.

Tôi có linh cảm xấu về vụ việc này. Nếu không phải vì tiền, thì chỉ có thể là vì tình.

Tôi nhấc lớp vải lót mềm trên bộ váy cô dâu. Một điều khẳng định lạnh lùng nhất, cay đắng nhất khiến tôi rùng mình.

Chiếc quần lót của cô dâu đã bị kéo ra, nằm lòng thòng ở một bên chân.

Sự tức giận mãnh liệt dội lên trong ngực tôi. Tôi nhìn vào mắt cô dâu. Mọi thứ đang ở trước mắt cô, mọi niềm tin và giấc mơ. Giờ thì cô chỉ còn là một xác chết thảm hại, đã bị làm vẩn đục và có thể đã bị cưỡng hiếp trong chính đêm tân hôn của mình.

Khi tôi đứng đấy, chăm chăm nhìn vào khuôn mặt cô dâu, tôi đột nhiên nhận ra mình đang khóc. Tôi nói với Jacobi giọng nấc lên:

- Jacobi, tôi muốn anh nói chuyện với bố mẹ chú rể. Tôi muốn thẩm tra tất cả những ai có mặt ở tầng này đêm hôm qua. Nếu họ đã ra về, thì phải theo dấu họ. Và cả danh sách tất cả nhân viên khách sạn trực đêm qua nữa.

Tôi biết nếu tôi không ra khỏi đây ngay bây giờ, tôi sẽ không thể cầm lòng được nữa.

- Ngay bây giờ, Jacobi. Làm luôn đi.

Tôi tránh ánh mắt của Jacobi khi đi vòng ra khỏi căn phòng.

- Có chuyện gì với thanh tra Boxer thế? – Charlie Clapper hỏi.

- Anh biết rồi đấy, phụ nữ mà. Họ luôn luôn khóc trước các lễ cưới – Tôi nghe thấy Jacobi trả lời vậy.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 7

Phillip Campbell đang đi dọc theo phố Powell về phía Quảng trường Liên bang và khách sạn Hyatt. Cảnh sát đã phong tỏa con phố và đám đông bên ngoài khách sạn đã tăng lên nhanh chóng. Những tiếng còi xe cảnh sát và xe cứu thương vang dội không gian. Đó thật chẳng giống thành phố San Francisco văn minh và đẹp đẽ tí nào. Hắn yêu thành phố này.

Campbell gần như không thể tin được rằng hắn đang quay lại hiện trường vụ án. Hắn chỉ không thể kiểm soát được mình. Có mặt ở đó một lần nữa có thể khiến hắn hồi tưởng lại đêm hôm trước. Khi hắn tiến lại Powell gần hơn, gần hơn nữa, chất adernalin trong người hắn dâng cao, tim hắn đập thình thịch, gần như không thể kiểm soát nổi.

Hắn chen vào đám đông tụ tập ở khối nhà cuối cùng bên ngoài khách sạn Hyatt. Hắn dỏng tai nghe những tin đồn thổi xoáy cuộn trong đám đông hầu hết là các doanh nhân ăn mặc chỉnh tề, khuôn mặt họ nhăn nhó vì kinh sợ và đau đớn.

Có rất nhiều tin đồn về một vụ hỏa hoạn trong khách sạn, về một người nhảy xuống, về phòng tội phạm hình sự, về vụ tự sát, nhưng chẳng có gì gần với nỗi sợ hãi về sự việc thực cả.

Cuối cùng, hắn tới gần hơn để có thể quan sát được cánh cảnh sát San Francisco đang làm việc. Hai người trong số họ đang điều tra trong đám đông, tìm kiếm hắn ta. Hắn không hề lo lắng về việc bị phát hiện, không một chút nào. Chỉ là không thể xảy ra. Hắn may mắn nằm ở trong năm phần trăm số người mà cảnh sát có thể nghi ngờ. Điều đó làm hắn hài lòng và xúc động thật sự.

Chúa ơi, hắn đã làm thế, hắn là nguyên nhân của tất cả mọi việc đang diễn ra ở đây, và hắn chỉ mới bắt đầu. Hắn chưa bao giờ trải nghiệm bất kỳ thứ gì như thứ cảm xúc này, cũng như chính thành phố San Francisco.

Một thương gia đang đi từ khách sạn Hyatt ra, theo sau là đám phóng viên và những người khác đang quấn quýt hỏi như thể anh ta là nhân vật nổi tiếng. Anh ta độ khoảng ngoài 30 tuổi và nở nụ cười hiểu biết. Anh ta có tất cả những gì họ muốn và anh ta biết điều đó. Anh ta đang ra oai với tất cả mọi người, hưởng thụ khoảng khắc nhỏ mọn của sự nổi tiếng.

- Một cặp vợ chồng bị giết trên tầng mái. Họ đi nghỉ tuần trăng mật. Buồn thảm quá, phải không? – Hắn có thể nghe thấy anh ta nói vậy.

Đám đông xung quanh Phillip Campbell há hốc miệng vì kinh ngạc, và trái tim hắn ta bay vút lên.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 8

Đúng là một cảnh tượng đáng nể! Cindy Thomas rẽ đám đông hiếu kỳ đang xúm đông xúm đỏ bàn tán xung quanh khách sạn Grand Hyatt. Rồi cô làu bàu khi nhìn thấy những sợi dây chắn đường của cảnh sát.

Chắc phải có đến hàng trăm người xem vây chặt quanh lối vào: khách du lịch cầm máy quay, thưong nhân trên đường đi làm, những người khác đưa ra giấy ủy quyền báo chí, phóng viên đang hò hét, cố gắng để được vào trong. Bên kia đường là những chiếc xe tải tin tức truyền hình được thiết lập cùng với cơ sở ở mặt tiền khách sạn.

Sau hai tiếng đồng hồ dành để quan tâm tới lợi ích địa phương tại bàn làm việc Metro của tờ Thời sự, Cindy nhận thấy rằng câu chuyện này đến cô cũng phải sợ dựng tóc gáy.

- Có vụ giết người ở Grand Hyatt – Anh chàng biên tập Sid Glass đã thông báo cho cô sau khi một nhân viên khác bắt được đường truyền của cảnh sát. Suzie Fitzpatrick và Tom Stone, hai phóng viên hình sự thường trực của tờ Thời sự, đều được giao nhiệm vụ.

- Đi ra đấy đi – Ông chủ quát tháo trước sự ngạc nhiên của cô. Ông chẳng phải nói đến lần thứ hai.

Nhưng lúc này, đứng bên ngoài khách sạn Hyatt, Cindy cảm thấy sự may mắn ngắn ngủi của mình sắp chấm dứt.

Đường phố đã bị chặn lại. Thêm loạt dân săn tin đang tạo thành vòng thứ hai. Nếu cô không nảy ra sáng kiến gì ngay bây giờ, Fitzpatrick hay Stone sẽ nẫng mất câu chuyện này. Điều cô cần là phải vào được bên trong. Và rồi cô ở đây, ngay ngoài hàng rào.

Cô để ý thấy một dãy xe limo và bước tới chiếc xe đầu tiên – một chiếc màu be lớn. Cô gõ vào cửa sổ xe.

Người lái xe ngước mắt nhìn ra khỏi tờ báo, tờ Thời sự, tất nhiên rồi, và hạ cửa xe xuống khi cô bắt gặp cái nhìn của anh ta.

- Anh đang đợi Steadman phải không?

- À, ừ, Eddleson – Anh ta trả lời.

- Xin lỗi, xin lỗi – Cô vẫy tay, nhưng cười thầm trong bụng. Đó là cách cô vào.

Cô không nấn ná một giây phút nào trong đám đông ấy nữa, rẽ đám đông tiến về phía trước. Một cảnh sát tuần tra trẻ chặn cô lại.

- Xin lỗi, trông cô rất vội vã.

- Tôi có một cuộc hẹn trong khách sạn.

- Cô cho biết tên.

- Eddleson. Ông ta đang chờ tôi.

Anh chàng cảnh sát gác cổng dò cái tên ấy trong bản in được kẹp vào một bìa kẹp hồ sơ.

- Cô có số phòng chứ?

Cindy lắc đầu:

- Ông ấy nói sẽ gặp ở tại Phòng ăn vào lúc 11 giờ.

Phòng ăn khách sạn Hyatt nổi tiếng với những bữa sáng tuyệt nhất thành phố San Francisco.

Anh chàng cảnh sát cẩn thận xem xét lại một lần nữa. Trong chiếc áo da đen, quần jean, xăng đan mua ở Earthsake, Cindy không giống một người đến vì một bữa giữa buổi.

- Cuộc hẹn của tôi với Eddleson – Cindy nói, gõ gõ vào chiếc đồng hồ đeo tay.

Viên cảnh sát tỏ vẻ giận dữ vẫy tay cho cô vào.

Cô đã vào bên trong. Hành lang ngoài với những bức tường thủy tinh cao, những cột vàng dựng đứng lên tận tầng ba. Nó cho cô cảm giác hả hê vì tất cả những tài năng đánh giá và những khuôn mặt nổi tiếng vẫn đang mắc lại ở ngoài đường.

Và Cindy Thomas là người đầu tiên vào được. Bây giờ chỉ còn là vạch ra việc cần phải làm.

Nơi này thật sự ồn ào, bận rộn với cảnh sát, thương nhân trả buồng khách sạn, các đoàn khách du lịch, nhân viên khách sạn trong đồng phục màu đỏ sẫm. Tổng biên tập nói đó là vụ giết người. Một vụ đầy tính thách thức khi xét đến danh tiếng nổi bật của khách sạn này.

Cô không biết sự việc xảy ra ở tầng nào, hay khi nào. Cô thậm chí còn chẳng biết liệu sự việc có liên quan tới vị khách nào không.

Có thể cô đã vào được bên trong, nhưng chẳng hề biết một mảy may gì cả.

Cindy để ý thấy một đống hành lý nằm chỏng chơ ở một bên hành lang. Trông như của một đoàn khách du lịch lớn. Một người trực tầng đang kéo nó ra ngoài.

Cô đi tha thẩn quanh đó, quỳ xuống bên một chiếc túi, giả vờ đang lấy một vật gì ra.

Người trực tầng thứ hai đi qua hỏi:

- Cô cần taxi ạ?

Cindy lắc đầu:

- Sẽ có người đón tôi.

Sau đó cô liếc nhìn bao quát toàn bộ quang cảnh hỗn độn và vờ tròn mắt ngạc nhiên:

- Tôi vừa mới dậy. Có chuyện gì xảy ra vậy?

- Cô không biết gì sao? Chắc chỉ có cô là người duy nhất không biết. Chúng tôi có vài chuyện ở khách sạn đêm hôm qua.

Cindy mở to mắt.

- Hai người bị giết ở trên tầng 30. Anh ta hạ giọng như thể đang cho cô biết một trong những bí mật lớn nhất trong cuộc đời mình. Cô có tình cờ thấy đám cưới huy hoàng tối qua không? Đó là chú rể và cô dâu. Một người nào đó đã đột nhập vào phòng họ ở khu Phòng cao cấp.

- Chúa ơi! Cindy thốt lên.

- Cô có chắc là không cần mang hành lý này ra ngoài chứ? Người trực tầng hỏi.

Cindy cố nở một nụ cười:

- Không, cảm ơn. Tôi sẽ đợi trong này.

Bên ngoài hành lang phía xa, cô nhận thấy có một chiếc thang máy mở cửa. Một người trực tầng bước ra, kéo theo xe hành lý. Chắc đấy là thang máy dịch vụ. Từ đó cô có thể thấy cảnh sát không chặn ở lối đi này.

Cô rẽ đám người trong hành lang, tiến tới thang máy đó. Cô nhấn nút, và chiếc cửa vàng sáng bóng mở ra. Tạ ơn Chúa, không có ai cả.

Cindy nhảy vào trong và cánh cửa đóng lại.

Cô không thể tin được những gì cô đang làm.

Cô nhấn nút 30.

Phòng cao cấp

Một vụ giết hai người.

Đó sẽ là câu chuyện của cô.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 9

Khi thang máy dừng lại, Cindy nín thở. Tim cô đập nhanh như một cái động cơ hơi nước. Cô đang ở tầng 30. Cô đã vào trong. Cô thực sự đã làm được điều đó.

Các cánh cửa mở ra hướng tới một góc xa trên tầng. Cô thầm cảm ơn Chúa vì không có viên cảnh sát nào đứng đợi ở trước cánh cửa. Cô nghe thấy tiếng ồn ào, rì rầm hoạt động phát ra từ một góc khác của sảnh lớn. Tất cả những gì cô phải làm giờ đây là đi theo tiếng ồn ào ấy.

Khi cô vội vã đi trong hành lang, những giọng nói trở nên rõ hơn. Hai người đàn ông trong bộ áo jacket màu vàng có dòng chữ “CSU” (đội khám nghiệm hiện trường) bằng các chữ cái lớn màu đen đi ngang qua cô. Ở cuối sảnh, một nhóm cảnh sát và điều tra viên đứng trước một cửa đôi ghi dòng chữ “Phòng cao cấp”.

Cindy không chỉ đã vào được trong mà còn ở ngay chính hiện trường vụ án.

Cindy tiến tới cánh cửa đôi. Các nhân viên cảnh sát thậm trí chẳng thèm nhìn về hướng cô vào, họ đang đưa các nhân viên cảnh sát đến từ thang máy chính.

Cô đã làm được. Phòng cao cấp. Cô có thể nhìn thấy bên trong. Đó là một phòng lớn, sang trọng, với phong cách trang trí xa hoa. Hoa hồng ở khắp mọi nơi.

Rồi tim cô gần như ngừng đập. Cô tưởng có thể nôn oẹ ra khi nhìn thấy chú rể trong chiếc áo tuxedo đẫm máu, nằm trên sàn nhà.

Chân Cindy như sắp khuỵu xuống. Cô chưa bao giờ nhìn thấy một nạn nhân bị giết.

Cô muốn ngả người về phía trước để ghi nhớ mọi chi tiết, nhưng cơ thể cô cứng đờ, không thể cử động.

- Cô là ai? – Một giọng nói cộc cằn đột nhiên vang lên.

Một viên cảnh sát giận dữ, to lớn đang nhìn chằm chằm vào mặt cô.

Bất thình lình, cô bị chụp lấy và dồn mạnh vào tường. Cô thấy đau và sợ hãi, Cindy chỉ về phía cái túi xách và chiếc ví trong đó có giấy ủy nhiệm báo chí.

Viên cảnh sát giận dữ đọc lướt qua thẻ căn cước và thẻ tín dụng của cô như thể đó là đống tài liệu rác rưởi.

- Chúa ơi. Cô ta là phóng viên.

Viên cảnh sát tuần tra cổ dầy quắc mắt với khuôn mặt giống như Doberman vụng về, ủy mị.

- Làm thế quái nào mà cô vào được đây? – Cộng sự của ông ta tới hỏi.

Gã Doberman quát tháo anh ta:

- Đưa cô ta ra khỏi đây. Giữ lấy thẻ căn cước của cô ta. Cô ta sẽ không được tiếp cận cảnh sát trong vòng hai kilômét cho đến năm sau.

Viên cảnh sát cộng sự của ông ta kéo cô ra cửa thang máy chính. Cindy cố liếc nhìn qua vai được lần cuối đôi chân của người chết loe ra gần cửa. Thật khủng khiếp và thê thảm. Cô rùng mình.

- Đưa cô phóng viên này ra cửa ngoài. Ông ra lệnh cho một viên cảnh sát thứ ba đang canh giữ thang máy.

Ông búng nhẹ chiếc thẻ nhà báo của cô như thể nó là một quân bài. Mong là việc mất cái này đáng giá với việc tiếp cận ngày hôm nay. Khi cửa thang máy đóng lại, một giọng nói kêu lên:

- Chờ chút.

Một phụ nữ cao lớn mặc áo phông xanh bụi và chiếc áo gi-lê thêu kim tuyến với chiếc huy hiệu đeo bên thắt lưng bước vào thang máy. Vị nữ cảnh sát này trông khá xinh xắn, với mái tóc hoe vàng màu cát, nhưng rõ ràng là rất buồn thảm. Cô thở dài khi cửa thang máy đóng lại.

- Trong đó khủng khiếp lắm phải không thanh tra? – Viên cảnh sát đồng hành với Cindy cất tiếng hỏi.

- Phải, người phụ nữ nói, thậm trí chẳng quay đầu lại.

Hai tiếng “thanh tra” vang lên trong tâm trí Cindy như một tia chớp.

Cindy không thể tin được điều này. Hiện trường vụ án quá khủng khiếp đến mức một thanh tra phải buồn thảm. Khi thang máy đi xuống, cô cảm thấy 30 tầng chỉ như một cái nháy mắt và nhìn thẳng về phía trước.

Cửa thang máy mở ra, vị nữ thanh tra lao ra rất nhanh. Viên cảnh sát kia nói với Cindy:

- Cô thấy cửa trước rồi đấy. Ra đó đi và đừng có quay trở lại.

Ngay sau khi cửa thang máy đóng lại, cô chạy quanh, cố gắng tìm trong hành lang rộng lớn bóng dáng của vị nữ thanh tra. Cô thấy thanh tra đi vào phòng vệ sinh nữ.

Cindy hối hả đi theo sau. Chỉ có hai người trong đó.

Viên thanh tra đứng trước gương. Cô cao khoảng 1m8, thân hình mảnh dẻ và khá gợi cảm. Trước sự ngạc nhiên của Cindy, rõ ràng là vị nữ thanh tra này đang khóc.

Chúa ơi, Chúa ơi. Cô phải quay trở lại lần nữa. Điều gì đã khiến viên thanh tra này đau khổ đến vậy?

- Cô không sao chứ? – Cuối cùng Cindy cũng cất tiếng hỏi với giọng nhẹ nhàng.

Nữ thanh tra trở nên căng thẳng khi cô nhận ra cô không ở một mình. Nhưng cô đưa mắt nhìn khuôn mặt Cindy như thể cô sắp không kìm được cảm xúc của mình nữa.

- Cô là cô phóng viên đó, phải không? Cô là người đã mò lên tầng đó.

Cindy gật đầu.

- Vậy làm thế nào mà cô lên được tới đó?

- Tôi không biết. Có thể chỉ gặp may thôi.

Nữ thanh tra lấy một chiếc khăn giấy thấm nước mắt.

- Tôi e là may mắn của cô hết rồi, nếu cô muốn moi được điều gì từ tôi.

- Tôi không có ý như vậy. Cô chắc là cô không sao chứ?

Thanh tra quay người lại. Đôi mắt cô như hét lên, tôi chẳng có gì để nói với cô cả, nhưng đôi mắt đã nói dối. Chính xác hơn là đôi mắt ấy nói lên một điều rằng cô đang cần một người nào đó để chia sẻ hơn bất kỳ điều gì trên thế giới này.

Đó là một trong những khoảng khắc kỳ lạ khi Cindy biết được rằng có điều gì đó sau cái vẻ bề ngoài kia. Nếu vai trò được thay đổi, và cô có cơ hội, biết đâu hai người thậm trí còn có thể trở thành bạn.

Cindy sờ túi áo, lôi ra một tấm các và đặt nó trên bồn rửa tay trước mặt nữ thanh tra.

- Nếu bất kỳ khi nào cô muốn nói chuyện…

Sắc hồng đã trở lại trên khuôn mặt xinh đẹp của nữ thanh tra. Cô do dự, nở nụ cười yếu ớt và mong manh về phía Cindy.

Cindy cũng mỉm cười với cô.

- Miễn là tôi còn ở đây …

Cô đi tới bồn rửa mặt, bỏ bộ đồ trang điểm ra, bắt gặp cái nhìn của nữ thanh tra trong gương.

- Áo vét đẹp đấy. Cô nói.
 

hoahongden12

Active Member

Tôi bước ra khỏi Tòa nhà tư pháp. Tòa nhà tư pháp là một khối nhà bằng đá granit xám 10 tầng, đó là nơi đặt trụ sở của Phòng Tư pháp thành phố, nằm ngay phía Tây đường cao tốc, trên phố thứ 6 và Bryant. Nếu chính tòa nhà với những phòng lớn nhạt màu và vô trùng không thể hiện rằng việc thi hành luật pháp thiếu phong cách, thì khung cảnh xung quanh chắc chắn thể hiện rõ điều đó. Ngôi nhà làm các thủ tục bảo lãnh được sơn bằng tay, kho chứa bộ phận ô tô, khu để xe và quán cà phê màu xám xịt.

Bạn có thể tìm thấy bất kỳ điều gì làm bạn đau đớn, khổ não tại chính nơi này. Những tên trộm ô tô, tội phạm tình dục, trộm cướp. Đội luật sư gồm 8 người, với các phòng ngủ nhỏ đầy ủy viên công tố trẻ tuổi. Mỗi tầng có những xà lim nhỏ có thể nhốt được 10 người. Có nơi giam tạm thời những người bị buộc tội, thậm chí chúng tôi có cả nhà xác ở cửa kế bên.

Sau cuộc họp tin tức vội vã và cơ bản nhất, Jacobi và tôi hẹn gặp ở tầng dưới và xem xét lại những gì mà chúng tôi có. Mười hai người chúng tôi đảm trách các vụ giết người trong toàn thành phố cùng chia sẻ một phòng rộng 20 – 30 mét vuông được chiếu sáng bằng các đèn huỳnh quang chói mắt. Bàn làm việc của tôi được ưu tiên lựa chọn, nhìn ra đoạn đường cao dốc lối vào đường cao tốc. Chiếc bàn luôn luôn đầy ắp những cặp tài liệu, giấy tờ phô tô, giấy thả phạm nhân. Một vật duy nhất thuộc về cá nhân là một khối lập phương bằng thủy tinh plexi mà một người cộng sự đầu tiên đã tặng tôi. Nó được khắc dòng chữ: Bạn không thể biết con tàu đã đi hướng nào chỉ bằng cách nhìn các dấu vết.

Tôi tự pha cho mình một tách cà phê và gặp Jacobi ở phòng thẩm vấn I. Tôi kẻ hai cột lên cái bảng vốn đã không có giá đỡ: một cột ghi những điều chúng tôi đã biết, một cột cho những việc chúng tôi phải kiểm tra.

Cuộc gặp gỡ nói chuyện đầu tiên của Jacobi với bố mẹ của chú rể không thu được kết quả gì. Người cha là một doanh nhân thành đạt ở phố Wall, ông sở hữu một công ty chứng khoán quốc tế. Ông cho biết ông cùng vợ ở lại cho tới khi vị khách cuối cùng ra về, và “đi lên lầu cùng bọn trẻ”. Họ không có bất kỳ kẻ thù nào trên thế giới này. Không nợ nần, không nghiện ngập, không những lời đe dọa. Chẳng có gì có thể gây ra một hành động khủng khiếp và không thể tưởng tượng nổi như vậy.

Việc điều tra về các vị khách ở tầng 30 có chút kết quả hơn. Một cặp vợ chồng từ Chicago để ý thấy có một người đàn ông nấn ná ở hành lang gần Phòng cao cấp khoảng 10h30 đêm hôm qua. Họ miêu tả người đàn ông có chiều cao trung bình, tóc ngắn, đen và hắn ta mặc một bộ véc màu đen hoặc có thể là bộ tuxedo. Hắn ta đang cầm trên tay một vật, có thể là một hộp rượu.

Sau đó, hai túi trà lọc đã sử dụng và hai hộp đựng phấn Pepcid rỗng không trên bàn là bằng chứng rõ ràng nhất về việc chúng tôi đã lật đi lật lại các nghi vấn trong nhiều giờ qua. Giờ đã là 7h15. Ca của chúng tôi kết thúc lúc 5h.

- Không có hẹn tối nay chứ Lindsay? – Cuối cùng Jacobi hỏi tôi.

- Tôi đã có tất cả những cuộc hẹn mà tôi muốn rồi, Jacobi.

- Phải, như tôi đã nói – Không có cuộc hẹn nào tối nay.

Chẳng cần gõ cửa, viên trung úy của chúng tôi, Sam Roth, nhưng chúng tôi vẫn thường gọi ông là Cherry – thò đầu vào phòng. Ông ném tờ báo Thời sự buổi chiều lên bàn.

- Đã thấy cái này chưa?

Tít đậm trên trang báo là: “Thảm sát đêm tân hôn tại Hyatt”. Tôi đọc to trang đầu: “Trong khung cảnh tuyệt vời ở vùng vịnh, trong một thế giới chỉ có những người giàu có mới biết, thi thể của một chú rể 29 tuổi nằm co tròn gần cửa phòng khách sạn”.

Trung úy nhíu mày:

- Thế nào, chúng ta có mời cái cô phóng viên ấy tham quan một vòng quanh hiện trường không? Cô ta biết rõ những cái tên, vẽ hẳn ra hiện trường vụ án.

Dòng cuối cùng ghi Cindy Thomas.

Tôi nhớ tới tấm card trong ví của mình, thở dài. Đồ phải gió Cindy Thomas.

- Có thể tôi nên gọi cô ta tới và hỏi cô ta xem nếu chúng ta có bất kỳ đầu mối nào không – Roth tiếp tục.

- Ông muốn đi à? – Tôi hỏi – Nhìn bảng này coi. Chúng tôi có thể giúp đấy.

Roth chỉ đứng đó, bặm môi. Ông toan đóng cửa lại, nhưng rồi lại quay lại:

- Lindsay, 9h15 ngày mai có mặt tại văn phòng tôi nhé. Chúng ta cần bố trí việc này cẩn thận. Bây giờ, việc này là của cô, rồi ông đóng cửa lại.

Tôi ngồi lên chiếc bàn. Một sức nặng ghê gớm dường như đang đè nặng lên tôi. Cả ngày dài đã qua. Tôi chưa có phút nào đối mặt với tin tức của chính tôi.

- Cô ổn chứ? – Jacobi hỏi.

Tôi nhìn anh ta, sắp sửa tuôn ra hết mọi thứ, hoặc có thể òa lên khóc một lần nữa.

- Thật là một tội ác khủng khiếp. Cô nên về nhà tắm rửa hay làm gì thư giãn đi. Jacobi nói với tôi như vậy.

Tôi mỉm cười với anh ta và thầm cảm ơn sự nhạy cảm đột ngột, khác thường.

Sau khi anh ta về, mình tôi đối diện với những cột bảng gần như trắng xóa. Tôi cảm thấy yếu ớt và trống rỗng đến mức gần như không thể đứng dậy nổi. Dần dần, những sự kiện trong ngày, chuyến đi của tôi tới phòng khám của Orenthaler len lỏi trong tâm trí tôi. Đầu tôi quay cuồng với lời cảnh báo của ông: Vấn đề sống còn đấy, Lindsay.

Sự nhận thức giáng một đòn vào tôi. Giờ đã gần 8 giờ.

Tôi chưa bao giờ gọi cho chuyên viên của Orenthaler.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 11

Đêm đó khi tôi về nhà, tôi đã phần nào nghe theo lời khuyên của Jacobi.

Trước tiên, tôi dẫn chú chó Martha yêu quý của mình đi bộ. Hai người hàng xóm của tôi chăm sóc Martha cả ngày, nhưng lúc nào nó cũng sẵn sàng cho những buổi nô đùa hàng đêm của chúng tôi. Sau khi đi bộ, tôi đá bật đôi giày Aerosole mình đang đi, quẳng súng và quần áo lên giường và đi tắm nước nóng, cầm theo một bộ đồ Killian.

Hình ảnh của David và Melanie đã trôi tuột trong đêm đó, họ có thể ngủ yên.

Nhưng vẫn còn có Orenthaler và cả Negli. Và cú điện thoại gọi cho ông chuyên viên mà tôi đã kinh sợ trong suốt cả ngày và chưa bao giờ làm.

Cho dù không biết bao nhiêu lần tôi để khuôn mặt mình ngâm trong dòng nước nóng, nhưng tôi không thể rũ bỏ được cái ngày dài hôm đó. Cuộc sống của tôi đã thay đổi. Tôi không chỉ còn chiến đấu với những kẻ giết người trên đường phố nữa, mà còn đang chiến đấu vì cuộc sống của mình.

Khi ra ngoài, tôi chải đầu sơ qua và nhìn mình thật lâu trong gương. Một ý nghĩ hiếm khi xảy ra chợt hiện về trong tâm trí tôi rằng tôi khá đẹp. Không phải đẹp, nhưng duyên dáng. Cao ráo, gần 1m80, vóc người gọn đối với người thỉnh thoảng uống bia say mèm và ăn kem hạt dẻ có kẹo bơ. Tôi có đôi mắt nâu nhạt đầy sức sống. Tôi đã không chùn bước. Liệu có thể nào tôi lại sắp chết.

Thế nhưng đêm nay mắt tôi đã rất khác, đó là sự sợ hãi. Mọi thứ dường như đều khác hẳn, như thể người đang lướt sóng vậy. Tôi nghe thấy một giọng nói bên trong nói với mình: Hãy đứng cao lên. Cô luôn luôn đứng cao mà.

Cho dù tôi đã cố gắng kiềm chế nhưng câu hỏi vẫn cất lên: Tại sao lại là tôi?

Tôi lau mồ hôi, buộc gọn tóc theo kiểu đuôi ngựa, đi vào bếp để đun nước nấu mì và hâm nóng thứ nước sốt mà tôi đã cất vào tủ lạnh hai đêm trước.

Khi nước sắp sôi thì tôi bật đĩa nhạc Sarah McLachlan và ngồi trong quầy bếp với chiếc ly cũ Bianco màu đỏ. Tôi vuốt ve Martha yêu quý khi tiếng nhạc tỏa khắp không gian. Tôi đã sống một mình kể từ khi cuộc ly hôn kết thúc cách đây hai năm. Tôi ghét sống một mình. Tôi thích mọi người, bạn bè. Tôi đã từng yêu Tom – chồng tôi hơn chính bản thân mình cho đến khi anh ta rời bỏ tôi, nói với tôi rằng: “Lindsay, anh không thể giải thích nổi điều đó. Anh yêu em nhưng anh phải ra đi. Anh cần phải tìm một người khác. Chẳng còn gì để nói cả.”

Tôi đoán anh ta đã nói thật lòng, đó là điều buồn nhất mà tôi từng nghe thấy. Trái tim tôi đã tan nát và giờ đây vẫn còn đau khổ. Vì thế dù ghét sống một mình – ngoại trừ Martha yêu quý ra, tất nhiên là tôi sợ lại sống cùng với ai đó. Điều gì xảy ra nếu anh ta đột nhiên hết yêu tôi? Tôi không thể chấp nhận được điều đó. Vì vậy tôi đã từ chối, hoặc bắn hạ bất cứ người đàn ông nào đến gần tôi. Nhưng lạy Chúa, tôi ghét ở một mình, đặc biệt là đêm nay.

Mẹ tôi đã chết vì ung thư vú khi tôi vừa mới ra trường. Tôi đã chuyển trường từ Berkeley tới thành phố để giúp đỡ bà và chăm sóc cô em gái nhỏ - Cat. Cũng giống như hầu hết mọi thứ trong cuộc sống của bà, thậm chí cả việc đi dạo của bố, mẹ tôi chỉ quan tâm đến bệnh tật của mình khi đã quá muộn.

Tôi chỉ gặp bố tôi có hai lần kể từ khi tôi 13 tuổi. Ông mặc đồng phục trong 20 năm ở miền Trung và nổi tiếng là một tay cớm giỏi. Ông đã từng xuống quán bar này, quán Alibi và ở đó xem tiết mục Những kẻ khổng lồ sau ca trực của mình. Thỉnh thoảng ông đem tôi theo và xem tôi như “điều may mắn nhỏ” để bọn con trai ngưỡng mộ.

Khi nước sốt đã được hâm nóng xong, tôi rưới lên mì fusilli rồi cầm cái đĩa và món salat ra sân thượng. Martha lẽo đẽo theo sau. Nó là cái bóng của tôi vì tôi đã nhận nó từ Hội giải thoát giống chó Êcốt ở biên giới về. Tôi đã sống trên đồi Potrero, trong một ngôi nhà quét sơn xanh mới được sửa chữa tại thị trấn Michaelian với cảnh nhìn ra vịnh. Không phải là một cảnh đẹp tuyệt vời như cảnh nhìn từ một phòng Cao cấp.

Tôi ngồi xuống, gác chân lên chiếc ghế bên cạnh và đặt cái đĩa cân trong lòng mình. Bên kia vịnh những ánh đèn le lói của Oakland giống như ngàn con mắt vô hồn.

Tôi nhìn lên dải ngân hà với ánh sáng đang nóng dần lên, nước mắt trào ra, và đây là lần thứ hai trong ngày hôm đó tôi nhận ra mình đang khóc. Martha dúi mũi vào người tôi một cách nhẹ nhàng, rồi nó chén nốt món mì fusilli còn lại hộ tôi.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 12

Chín giờ kém mười lăm phút sáng hôm sau, tôi gõ cửa sổ phòng làm việc của trung úy Roth tại Trụ sở. Roth thích tôi – giống như một cô con gái khác, ông thường nói. Ông không biết ông có thể hạ mình đến như thế nào. Tôi cũng muốn nói với Ruth rằng tôi thích ông – giống như một người ông.

Tôi đã mong chờ một đám đông, ít nhất là một vài bộ trang phục từ Sở Nội vụ, hoặc có thể là Đại úy Welting, người giám sát Phòng Điều tra – nhưng khi Roth ra hiệu cho tôi vào, tôi chỉ thấy có một người khác ở trong phòng.

Một kiểu người có bề ngoài đáng yêu, mặc áo sơ mi vải thường và cà vạt sọc, mái tóc đen ngắn và đôi vai khỏe mạnh. Anh ta có khuôn mặt điển trai, thông minh, dường như rất sinh động khi tôi bước vào, nhưng điều đó chỉ có một ý nghĩa duy nhất đối với tôi:

Loại đồng thau được đánh bóng. Ai đó từ nhóm báo chí của cảnh sát điều xuống hoặc từ Tòa Thị chính tới.

Tôi có cảm giác khó chịu khi họ nói về tôi.

Trong lúc đi qua anh ta, tôi đã nhẩm lại lập luận bác bỏ đầy thuyết phục về sự vi phạm an ninh báo chí, bản thân tôi đã đến hiện trường muộn như thế nào, và vấn đề chính là tội ác. Nhưng Roth đã làm tôi ngạc nhiên – Nỗi buồn của hồi chuông đám cưới, họ gọi nó như thế. Ông nói và quẳng trước mặt tôi tờ Thời sự vào buổi sáng hôm đó.

- Tôi xem rồi – Tôi đáp lại, giảm bớt căng thẳng để tập trung vào vụ án.

Ông nhìn quý ông ở Tòa Thị chính:

- Chúng ta sẽ đọc điều này theo từng bước đúng cách thức. Cả hai đứa trẻ đều giàu có, học ở các trường danh tiếng. Một phần giống như vụ Kenedy trẻ tuổi và cô vợ tóc vàng của anh ta – bi kịch của họ.

- Họ là ai thì cũng không quan trọng đối với tôi. Nghe này Sam, về chuyện ngày hôm qua…

Ông xua tay ngăn tôi lại:

- Hãy quên chuyện ngày hôm qua đi. Sếp Mercer đã gọi điện cho tôi. Vụ này đã chiếm toàn bộ sự chú ý của ông ấy.

Ông liếc về phía anh chàng ăn mặc bảnh bao ngồi ở góc phòng, rồi tiếp:

- Dù sao, anh ta cũng muốn tới đó để có thể tiếp cận gần hơn nút thắt trong vụ này. Điều đã xảy ra ở các cuộc điều tra khác về các tập dữ liệu cá nhân không thể xảy ra ở đây – Rồi ông trả lời tôi – Chúng ta đang thay đổi luật chơi trong vụ này.

Đột nhiên không khí trong phòng trở nên nặng nề với cảm giác lo lắng, bồn chồn như có một điều gì đó mờ ám bao trùm.

Rồi người đàn ông của Tòa Thị chính bước về phía trước. Tôi nhận ra đôi mắt anh ta chứa chất kinh nghiệm về những người mà anh ta đã cùng làm việc.

- Ngài thị trưởng và sếp Mercer nghĩ rằng chúng ta có thể đảm đương vụ điều tra này với tư cách là một liên minh giữa các phòng với nhau. Chính vì điều ấy, cô được thu xếp để làm việc cùng với một người mới – anh ta nói.

- Mới hả? – Mắt tôi nhìn tới nhìn lui giữa hai người, cuối cùng thì dừng lại ở Roth.

- Hãy gặp người cộng tác mới của cô – Roth thông báo.

Tôi đang bị ép buộc, một giọng nói vang lên trong tôi. Họ sẽ không làm điều này đối với một người đàn ông.

- Chris Raleigh – Quý ngài khéo xử từ Tòa Thị chính nói và chìa tay ra.

Tôi không với ra để bắt lấy. Roth tiếp tục:

- Trong vài năm qua, Đại úy Raleigh đã làm việc với tư cách là sĩ quan liên lạc hành động cộng đồng với văn phòng thị trưởng. Anh phụ trách việc quản lý các vụ nhạy cảm tiềm ẩn.

- Quản lý à?

Raleigh tròn mắt nhìn tôi. Anh ta đang cố gắng tỏ ra khiêm tốn:

- Bao gồm… kiểm soát thiệt hại… sau đó thì chữa lành bất cứ vết thương nào trong cộng đồng.

- Ồ anh đúng là một người đàn ông biết tiếp thị - Tôi đã nói móc lại.

Anh ta mỉm cười. Mỗi phần trong anh ta đều biểu lộ một không khí thực tế, tự tin mà tôi có thể liên tưởng đến loại đàn ông ngồi xung quanh những chiếc bàn lớn ở Tòa Thị chính.

- Trước đó, Chris là đội trưởng một khu vực ở phía Bắc.

- Đó là dãy Đại sứ quán – Tôi hít mạnh.

Mọi người đã giễu cợt khu vực phía Bắc quý tộc đó, chạy từ đồi Nob đến đỉnh Pacific. Vụ việc chủ yếu ở đó là những phụ nữ báo cáo về việc nghe thấy tiếng động bên ngoài nhà họ và những du khách đến muộn bị nhốt bên ngoài các khách sạn nhỏ.

- Chúng tôi cũng phải đối phó với vấn đề giao thông xung quanh khu vực Pháo đài nữa - Raleigh nói đối lại bằng một nụ cười khác.

Tôi mặc kệ anh ta. Tôi quay lại Roth:

- Thế còn Jacobi thì sao? Anh ấy và tôi đã cùng làm mọi vụ án khác nhau trong suốt hai năm qua cơ mà.

- Jacobi sẽ được phân công lại. Tôi đã có một công việc béo bở cho sự khoe khoang của anh ta rồi.

Tôi không thích bỏ mặc người cộng sự của mình, mặc dù anh ta thuộc loại khôn nhà dại chợ. Của đáng tội, Jacobi chính là kẻ thù tồi tệ nhất của mình.

Trước sự ngạc nhiên của tôi, Raleigh hỏi:

- Cô có tán thành với sự chỉ định mới này không, thanh tra?

Tôi thực sự chẳng có lựa chọn nào khác. Tôi gật đầu đồng ý.

- Nếu anh không cản đường. Ngoài ra anh còn đeo cà vạt đẹp hơn cà vạt của Jacobi.

- Đó là món quà trong Ngày của cha.

Anh ta tươi cười. Tôi không thể tin rằng tôi cảm thấy một sự thất vọng chạy qua người. Lạy chúa Jesus, Lindsay. Tôi không nhìn thấy anh ta đeo nhẫn. Lindsay!

- Tôi bỏ qua cho cô tất cả các nhiệm vụ khác – Roth thông báo. Không có nghĩa vụ nào mâu thuẫn cả, Jacobi có thể đảm đương phần còn lại nếu muốn tiếp tục vụ này.

- Vậy ai sẽ phụ trách? Tôi hỏi Cherry. Tôi là cấp trên của Jacobi, tôi đã quen điều hành các vụ của mình rồi.

Roth cười như nắc nẻ:

- Anh ta làm việc với Thị trưởng. Anh ta là cựu đội trưởng khu vực. Cô nghĩ ai sẽ phụ trách?

- Thế còn trong lĩnh vực mà cô lãnh đạo thì sao? Chúng ta làm gì nếu chúng ta thấy đó là việc của tôi – Raleigh gợi ý.

Tôi ngập ngừng, nhìn anh ta chằm chằm đánh giá. Chúa ơi, anh ta quá dẻo mồm.

Roth nhìn tôi:

- Cô muốn tôi hỏi Jacobi xem liệu anh ta có dè dặt tương tự phải không?

Raleigh bắt gặp ánh nhìn của tôi.

- Thôi nào tôi sẽ cho cô biết khi nào chúng ta không thể giải quyết vấn đề.

Đó là một thỏa thuận tốt mà tôi có được. Thỏa thuận đã thay đổi. Nhưng ít ra thì tôi cũng giữ được vụ của mình.

- Vậy tôi phải gọi anh là gì đây, Đại úy à?

Với vẻ thoải mái tự nhiên, Raleigh vắt chiếc áo khoác thể thao màu nâu của mình qua vai và đi ra cửa.

- Cứ gọi tên tôi. Đến giờ tôi là thường dân được 5 năm rồi.

- Tốt thôi, Raleigh – Tôi nói với một nụ cười khó chịu – Anh đã bao giờ nhìn thấy xác chết khi anh làm ở khu vực phía Bắc chưa?
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 13

Chuyện cười ở Phòng điều tra các vụ giết người – Homicide về nhà xác rằng bất chấp bầu không khí tệ hại thì nơi này vẫn tốt cho công việc kinh doanh. Chẳng có thứ gì giống cái mùi formanđêhit nồng nặc hay độ sáng não nề của những gian sảnh lợp ngói của bệnh viện có thể khiến cho công việc săn đuổi những làn đạn chết người cực nhọc dường như giống như một công việc đầy cảm hứng.

Nhưng như người ta nói, đó là nơi để các xác chết.

Không có gì nhiều để nói về Claire Washburn ngoại trừ rằng cô ấy thông minh, rất hoàn hảo và là người bạn thân nhất của tôi trên thế giới này. Trong suốt 6 năm qua, cô ấy là người kiểm tra y tế chính của thành phố, điều mà mọi người ở Phòng điều tra các vụ giết người – Homicide đều biết rằng đó là một chức danh chưa xứng đáng vì thực ra cô ấy điều hành văn phòng cho Anthony Righetti. Righetti là ông chủ độc đoán, đầy uy quyền, đôi khi còn ăn bớt tiền công của cô, nhưng Claire hiếm khi phàn nàn.

Trong hồ sơ của chúng tôi, Claire giữ chức vụ Nhân viên điều tra các vụ giết người bất thường. Nhưng có lẽ ý kiến về một nữ bác sĩ pháp y vẫn chưa được chấp nhận, thậm chí ở San Francisco.

Khi Raleigh và tôi đến, chúng tôi được đưa vào văn phòng của Claire. Cô mặc chiếc áo khoác màu trắng dành cho bác sĩ với biệt hiệu “Bướm” được thêu phía trên túi áo bên trái. Điều đầu tiên mà bạn nhận thấy về Claire là cô đang mang trên người đến hơn 22kg thừa mà cô không cần đến. “Tôi có vóc dáng đẹp”, cô ấy luôn luôn đùa như vậy. “Tròn cũng là một hình mà”.

Điều thứ hai là cách xử sự của cô ấy rất thông minh và tự tin. Bạn nên biết là cô ấy không thèm màng đến điều gì. Cô ấy có thân hình của một người Bà la môn, trí óc của con diều hâu và tâm hồn thanh thản của một con bướm.

Khi chúng tôi bước vào, Claire cười rất mệt mỏi nhưng hài lòng như thể cô ấy đã thức cả đêm để làm việc. Tôi giới thiệu Raleigh, và Claire liếc tôi thật nhanh bằng một ánh mắt tinh nghịch ấn tượng.

Bất kể những gì tôi đã tích lũy được qua nhiều năm về những nỗi đau trên đường phố, Claire bắt đầu trong vẻ khôn ngoan tự nhiên. Cái cách mà cô cân bằng các nhu cầu công việc của mình và xoa dịu ông chủ luôn tìm kiếm danh vọng cùng với việc nuôi dạy hai đứa con quả là một điều phi thường. Và hôn nhân của cô với Edmund, người chơi trống bass cho một ban nhạc giao hưởng của San Francisco, đã đem đến cho tôi niềm tin rằng vẫn còn hy vọng đối với lòng từ thiện.

- Mình đang mong cậu đến – Claire nói khi chúng tôi ôm nhau. Mình gọi cho cậu tối qua từ đây. Cậu không nhận được lời nhắn à?

Với vòng tay an ủi quanh người tôi, một cơn lũ tình cảm dâng trào. Tôi muốn kể cho cô ấy nghe mọi điều. Nếu không vì có Raleigh, tôi nghĩ tôi đã giãi bày tất cả về Tiến sĩ Orenthaler, chứng Negli.

- Mình đã kiệt sức – Tôi trả lời – Và kiệt sức hoàn toàn. Ngày dài đằng đẵng.

- Đừng kể cho tôi. Các cô ngáo ộp gặp nhau – Raleigh chặc lưỡi.

- Sự chuẩn bị khám nghiệm tử thi chuẩn mực – Claire cười toe toét khi chúng tôi tách ra – Thế họ không dạy anh điều đó ở Tòa thị chính sao?

Anh ta giang cánh tay ra một cách khôi hài.

- Nào, nào – Claire nói, bóp vai tôi, cô lấy lại giọng nói nghiêm túc.

- Đây là cái cậu kiếm được, dù sao đi nữa, tôi chỉ vừa hoàn thành những thử nghiệm ban đầu vào sáng nay. Hai người có muốn xem mấy cái xác không?

Tôi gật đầu.

- Chỉ vừa chuẩn bị thôi, hai cái xác này không tận dụng nhiều được cho quảng cáo Cô dâu hiện đại.

Claire dẫn chúng tôi đi qua một loạt những cánh cửa nén tới một cái hầm, căn phòng rộng được làm lạnh – nơi các xác chết được cất giữ.

Tôi đi bộ phía trước cùng Claire, cô kéo tôi lại gần và thì thầm:

- Để tớ đoán nhé. Cậu đã trêu đùa chán với Jacobi, và đột nhiên vị hoàng tử quyến rũ này xuất hiện.

- Anh ta làm việc cho Thị trưởng, Claire – Tôi mỉm cười đáp lại. Họ đã cử anh ta đến đây để chắc chắn rằng tớ không ngất xỉu tại nơi đầy máu me này.

- Trong trường hợp đó, tốt hơn là cậu nên túm chặt lấy người đàn ông đó.

Cô ấy đáp lại, đẩy cánh cửa nặng nề để mở hầm.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 14

Tôi đã đối mặt với nhiều xác chết trong 6 năm nay. Nhưng những gì tôi thấy đã khiến tôi rùng mình khiếp sợ.

Những cái xác bị cắt xẻo của cô dâu và chú rể đang nằm cạnh nhau. Họ đang nằm trong ngăn lạnh, khuôn mặt của họ đông lạnh vẫn còn in đậm giây phút kinh hoàng của cái chết. Đó là David và Melanie Brandt.

Trong vẻ mặt cứng đờ như ma quỷ của họ là lời tuyên bố mạnh mẽ nhất tôi từng thấy rằng cuộc sống có thể không bị chi phối bởi những gì là công bằng hay khoan dung. Tôi nhìn chằm chằm khuôn mặt của Melanie. Ngày hôm qua, trong chiếc áo cưới, cô ấy dường như có vẻ rất bi thảm và lặng lẽ.

Hôm nay, trong trạng thái bị cắt xẻo trần trụi cứng đờ, xác của cô ấy bị rối tung lên trong một cái khung lạnh của sự kinh hoàng lố bịch. Mọi thứ mà tôi đã chôn sâu trong ngày hôm qua giờ đây đã xuất hiện trở lại.

Sáu năm ở Phòng điều tra các vụ giết người và tôi chưa bao giờ ngoảnh mặt đi. Nhưng giờ đây tôi đã không thể làm khác.

Tôi cảm thấy cánh tay của Claire đang đỡ lấy cánh tay tôi, và tôi dựa vào cô ấy.

Trước sự ngạc nhiên của tôi, hóa ra đó lại là Raleigh. Tôi đứng thẳng lên với một cảm giác pha trộn, vừa tức giận vừa xấu hổ.

- Cảm ơn. Tôi không sao.

- Tôi đã làm công việc này 8 năm rồi, và lần này, tôi cũng muốn ngoảnh mặt đi. Claire nói.

Claire cầm một miếng bìa cứng từ bàn kiểm tra ở bên kia, từ chỗ của David Brandt. Cô ấy chỉ vào vết thương do dao đâm còn mới phía bên trái ngực của anh ta.

- Anh ta bị đâm một nhát vào tâm thất phải. Hai người có thể nhìn thấy ở đây lưỡi dao đã xuyên qua chỗ nối giữa xương sườn thứ tư và xương ức ở lối vào. Đốt AV bị vỡ, chỗ cung cấp điện cho tim. Về kỹ thuật mà nói thì anh ta đã bị bắt giữ.

- Thế anh ta đã chết vì đột quỵ tim à? – Raleigh hỏi.

Claire kéo đôi găng tay giải phẫu chặt ra khỏi bàn tay và những chiếc móng tay được sơn đỏ.

- Sự tách điện cơ học. Chỉ là một cách miêu tả tưởng tượng những gì đã xảy ra khi anh ta bị đâm vào tim mà thôi.

- Thế còn vũ khí thì sao? – Tôi hỏi thẳng

- Ở điểm này, tất cả những gì mà tôi biết là một con dao lưỡi thẳng, chuẩn. Không để lại dấu vết gì nổi bật hay kiểu xuyên nào. Một điều mà tôi có thể kể cho hai người biết là kẻ giết người có chiều cao trung bình, khoảng 1m71 đến 1,8 mét và thuận tay phải dựa trên các góc va chạm. Hai người có thể thấy ở đây đường rạch được thực hiện theo tư thế nghiêng lên phía trên. Ở đây, chú rể cao 1,8 mét, còn trên xác của vợ anh ta, người chỉ cao có 1,65 mét, thì góc của vết rạch đầu tiên bị xiên theo chiều đi xuống.

Claire nói, chỉ vào những chỗ xung quanh vết thương.

Tôi kiểm tra bàn tay và cánh tay chú rể để xem những chỗ bị trầy xước.

- Có dấu vết của sự đánh nhau không?

- Không thể. Người đàn ông tội nghiệp này đã sợ đến mất trí.

Tôi gật đầu khi nhìn xuống khuôn mặt chú rể.

Claire lắc đầu:

- Đó chính xác không phải là ý tôi muốn nói. Những cậu bé nhà Charlie Clapper đã lấy được mẫu của một chất lỏng từ giày của chú rể và sàn gỗ cứng ở phòng giải lao nơi xác của anh ta được phát hiện.

Claire giơ một cái lọ nhỏ chứa các giọt nhỏ chất lỏng đục lên.

Raleigh và tôi nhìn chằm chằm vào cái lọ mà chẳng hiểu gì.

- Nước tiểu. Người đàn ông xấu số này đã tè ra quần. Hắn phải là một người dễ bộc lộ tình cảm, Claire giải thích.

Cô kéo tấm vải trắng che mặt David Brandt và lắc đầu.

- Tôi nghĩ đó là một bí mật mà chúng ta cần phải giữ kín với nhau.

- Thật không may – Cô ấy nói và thở dài – Nhiều thứ đã không xảy ra gần như ngay lập tức đối với cô dâu.

Claire dẫn chúng tôi qua chỗ ngăn lạnh của cô dâu.

- Có lẽ cô ấy đã làm kẻ sát nhân ngạc nhiên. Có vài dấu vết trên bàn tay và cổ tay cô ấy, điều đó chỉ ra rằng đã có sự giằng co, vật lộn. Đây này – Claire chỉ vào một vết trầy xước màu đỏ trên cổ cô dâu – Tôi đã cố gắng tách vài sợ mô bên dưới móng tay của cô ấy, nhưng chúng ta sẽ thấy điều gì đó khi quay trở lại. Dù sao đi nữa, vết thương đầu tiên ở phần bụng trên và rách kéo tới tận phổi. Với thời gian mất máu từ vết thương đó thì có lẽ cô ấy đã chết vì mất máu.

Claire chỉ tới vết thương đáng sợ thứ hai và thứ ba dưới ngực trái cùng một vị trí với vết thương với chú rể.

- Màng ngoài tim của cô ấy bị lấp kín bởi quá nhiều máu mà ta có thể vắt nó giống như vắt một cái giẻ ướt.

- Cậu lại đi vào chuyên môn rồi – Tôi nói.

- Màng giống như mô này nằm xung quanh tim. Máu lấy ở khoang này và đè lên cơ để tim không thể nhận máu đưa về. Cuối cùng thì tim sẽ tự ngừng co bóp.

Hình ảnh tim của cô dâu bị nghẹn bởi chính máu của mình đã làm tôi rùng mình.

- Điều đó gần như thể hắn ta muốn lặp lại những vết thương – Tôi nói, xem xét cẩn thận chỗ mà con dao đâm vào.

- Tớ đã nghĩ đến điều đó, một đường thẳng tới tận tim – Claire tiếp tục.

Raleigh nhăn trán lại:

- Vậy thì kẻ giết người có thể là một tay chuyên nghiệp không nhỉ?

Claire nhún vai:

- Theo phân tích chuyên môn về vết thương thì có lẽ vậy. Nhưng tôi không nghĩ vậy.

Có một sự e dè trong lời nói của Claire. Tôi ngước lên và nhìn vào ánh mắt dứt khoát của cô ấy.

- Vậy những gì tôi cần biết liệu cô dâu có bị quấy rối tình dục không?

Cô ấy không phản đối.

- Có rất nhiều dấu hiệu rõ ràng của sự hãm hiếp sau khi cô ấy chết. Lỗ âm đạo bị mở rộng một cách dã man, và tôi phát hiện ra vài vết rách nhỏ xung quanh.

Toàn thân tôi cứng đờ trong sự giận dữ.

Cô ấy đã bị cưỡng hiếp.

Claire đáp lại:

- Nếu cô ấy bị cưỡng hiếp thì đó là một vụ rất tệ. Lỗ âm đạo đã rộng như tôi nhìn thấy. Thành thật mà nói, tôi không nghĩ chúng ta đang nói về việc đưa dương vật vào âm đạo.

- Bằng một dụng cụ cùn chăng? – Raleigh nói.

- Tất nhiên là đủ rộng… nhưng có nhiều vết xước dọc thành âm đạo phù hợp với một loại vòng nào đó – Claire hít vào một hơi. Theo tôi thì bằng một nắm tay.

Trạng thái giận dữ, gây sốc từ cái chết của Melanie Brandt lại làm tôi rùng mình. Cô ấy đã bị cắt xẻo, hãm hiếp. Một nắm tay. Kẻ đó đã hành động dã man và lỗ mãng. Kẻ tấn công cô dâu không chỉ cố gắng thực hiện cơn ác mộng của hắn mà còn muốn làm nhục cô ấy. Tại sao?

- Nếu cậu có thể xử lý thêm một việc nữa thì hãy theo mình. – Claire nói.

Cô ấy dẫn chúng tôi đi qua một cánh cổng tự động vào một phòng thí nghiệm kế bên. Trên tấm phủ bằng giấy trắng vô trùng là chiếc vét đuôi tôm lễ phục vấy máu mà chúng tôi đã phát hiện bên cạnh xác chú rể.

Claire cầm vào cổ áo để giơ chiếc áo lên.

- Clapper đã cho tôi mượn nó. Tất nhiên là cần phải xác định xem máu của ai đã dính trên chiếc áo. Phần da phía trước bên trái đã bị rạch bằng một nhát đâm chí tử và bắn đầy vết máu bầm. Chỗ mà điều này bắt đầu trở nên thật sự hấp dẫn, là không chỉ có máu của David Brandt mà tôi phát hiện ra trên chiếc áo vét – Claire nói.

Raleigh và tôi há hốc miệng trong ngạc nhiên.

- Máu của kẻ giết người chăng? – Anh ta nói, mắt mở to.

Cô ấy lắc đầu:

- Không, máu của cô dâu.

Tôi đã nhớ lại thật nhanh hiện trường của vụ án. Chú rể bị giết ở cửa ra vào và vợ của anh ta bị giết cách đó hơn 9m tại phòng ngủ chính.

- Làm thế nào mà máu của cô dâu lại có thể dính lên áo vét của chú rể được? – Tôi nói, cảm thấy lúng túng.

- Tôi cũng vật lộn với điều đó. Vì vậy tôi đã quay lại và dựng lại chiếc áo vào người chú rể. Vết chém đã không hoàn toàn trùng với vết thương của anh ta. Nhìn này, vết thương của chú rể đây. Xương sườn thứ tư. Dấu vết của vết đâm trên áo thì lại cao hơn đến gần 8 centimét. Kiểm tra kỹ hơn nữa, chiếc áo vét nghi ngờ thậm trí còn không cùng nhãn mác với cái quần. Đây là của hãng Joseph About.

Claire nháy mắt, nhận thấy những thay đổi của tôi.

- Chiếc áo vét không phải là của chú rể. Nó là của người đàn ông đã giết anh ta. Claire tròn xoe mắt – Rõ ràng không một tay chuyên nghiệp nào tôi biết lại để lại tang vật như vậy.

- Hắn có thể chỉ cố gắng lợi dụng đám cưới như một cái vỏ bọc mà thôi, Raleigh đáp lời.

Một phán đoán thậm trí còn ghê rợn hơn đã vụt đến trong tôi.

- Kẻ giết người có thể là một vị khách mời.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 15

Tại văn phòng của tờ Thời sự San Francisco, đầu óc rối tung của Cindy Thomas như đang bày ra trước những ngón tay cô.

Hạn chót buổi chiều chỉ còn vừa vặn có một tiếng nữa.

Từ người trực tầng của tòa nhà Hyatt, cô đã lấy được tên của hai vị khách đã tham dự lễ cưới của Brandt và cũng là những người vẫn còn đang ở khách sạn. Tối qua, sau khi chạy xuống đó lần nữa, cô đã có thể ghép lại hình ảnh bi thảm đau lòng, với những lời thề nguyền, những cốc rượu chúc mừng và điệu nhảy lãng mạn của cô dâu và chú rể trong những giây phút cuối cùng.

Tất cả những phóng viên khác vẫn đang chắp lại các chi tiết rải rác do cảnh sát đưa ra. Đến giờ cô vẫn đang đi trước họ. Cô đang chiến thắng và điều đó thật tuyệt. Cô cũng chắc chắn rằng đây sẽ là tác phẩm hay nhất mà cô từng làm kể từ khi tới làm việc cho tờ Thời sự, có lẽ vì cô là một người chưa tốt nghệp ở Michigan.

Tại tòa báo, những hành động liều lĩnh của Cindy ở Hyatt đã gần như biến cô thành một người nổi tiếng. Nhiều người mà cô gần như không biết đột nhiện dừng lại và chúc mừng cô. Thậm chí cả ông chủ báo mà cô hiếm khi nhìn thấy ở tầng nhà Metro, cũng đã xuống để tìm hiểu xem cô là ai.

Chính tầng Metro đang nắm giữ một số bằng chứng tại Thung lũng Mill về việc làm lại tuyến đường giao thông gần khu vực trường học.

Cô đang viết trang thứ nhất.

Khi đánh máy, cô nhận ra biên tập viên Sidney Glass đang đi tới bàn của cô. Glass được gọi là El Sid tại tòa báo. Ông ta ngồi xuống đối diện cô với một tiếng thở dài khó nhọc:

- Chúng ta cần nói chuyện.

Những ngón tay cô chậm dần rồi dừng lại khi cô ngước lên.

- Tôi vừa nhận được tin hai phóng viên lâu năm của chuyên mục tội phạm rất bực mình và muốn tham gia vụ này. Suzy ở Tòa Thị chính đang chờ tuyên bố của cảnh sát trưởng và Thị trưởng. Stone đã ráp tiểu sử của cả hai gia đình lại với nhau. Họ đã có 20 năm và đã có hai giải thưởng Pulitzers cùng nhau. Và đó là tin tức được đăng đầu tiên của họ.

Cindy có cảm giác như tim cô gần như ngừng đập:

- Ông đã kể gì cho họ?

Trong ánh mắt dày dạn của El Sid, cô có thể nhìn thấy nhóm phóng viên phụ trách các vụ phạm tội hàng đầu đầy tham lam, những phóng viên kỳ cựu với những tìm hiểu của chính họ, cố gắng đẽo gọt theo cách của mình và tạo nên câu chuyện này. Câu chuyện của cô.

- Hãy cho tôi xem những gì cô có được nào – Rốt cuộc, biên tập viên thành phố cũng nói.

Ông đi vòng và nhìn qua vai cô, đọc vài dòng đang hiện trên màn hình máy tính.

- Phần nhiều là được. Cô có thể biết điều đó. “Đau khổ” thuộc về đoạn bên trên này – Ông nói, chỉ tay về phía màn hình – Sửa lại “bố của cô dâu” – Không có gì làm Ida Morris bực mình như những từ bổ nghĩa được thay thế và đảo từ.

Cindy cảm thấy rất xấu hổ.

- Tôi biết, tôi biết. Tôi đang cố gắng để thâm nhập vào đó. Hạn chót là vào lúc…

- Tôi không biết hạn chót là vào lúc nào – Ông biên tập nóng mặt. Nhưng dưới đây, nếu cô có thể xâm nhập vào đó, thì hãy xâm nhập cho đúng vào.

Ông nhìn Cindy một lúc mà cô có cảm giác như là rất lâu, bằng một cái nhìn đánh giá khó hiểu khiến cô bực mình.

- Đặc biệt nếu cô định tiếp tục theo vụ này – Khuôn mặt hầu như không biết đến mủi lòng của Glass co rúm lại, và ông gần như mỉm cười với cô.

- Tôi đã nói với họ vụ này là của cô rồi, Thomas.

Cindy cố nén lại cử chỉ muốn ôm chầm lấy ông biên tập viên lập dị, độc đoán này ngay lập tức.

- Ông muốn tôi có mặt tại Tòa Thị chính sao?

- Câu chuyện thực nằm ở dãy phòng cao cấp của khách sạn ấy. Hãy quay lại khách sạn Hyatt – El Sid bước ra, hai tay đút túi quần, lúc nào cũng vậy.

Nhưng một lúc sau, ông quay trở lại và dặn thêm:

- Hãy săn tin đi, nếu cô định tiếp tục theo đuổi vụ này thì tốt hơn là hãy tìm một nguồn tin của cảnh sát từ bên trong và hãy nhanh lên.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 16

Sau khi rời khỏi nhà xác, Raleigh và tôi đi bộ trở lại văn phòng trong sự im lặng. Nhiều chi tiết về kẻ giết người làm tôi băn khoăn. Tại sao kẻ giết người lại lấy áo vét của nạn nhân? Tại sao lại để lại chai sâm banh? Điều đó chẳng hợp lý tí nào.

- Chúng ta đang có một vụ tội phạm liên quan đến tình dục. Một vụ tồi tệ – Cuối cùng tôi quay lại chỗ anh ta trên lối đi rải nhựa dẫn đến sảnh.

- Tôi muốn kiểm tra kết quả xét nghiệm tử thi qua Milt Fanning và hệ thống máy tính của Cục điều tra liên bang (FBI). Chúng ta cũng cần phải gặp bố mẹ của cô dâu. Chúng ta sẽ cần tiểu sử của bất kỳ ai mà cô ấy có thể dính líu đến, trước David. Và một danh sách những người tham dự lễ cưới đó.

- Tại sao chúng ta không đợi sự xác nhận về điều ấy trước khi chúng ta lao vào khía cạnh đó – Người cộng sự mới của tôi nói.

Tôi dừng lại và nhìn anh ta chằm chằm:

- Anh muốn xem liệu ai đã đăng ký phòng để có được chiếc áo vét dính máu tại phòng thất lạc đồ sao? Tôi không hiểu. Điều anh quan tâm là gì?

- Điều tôi quan tâm là tôi không muốn phòng điều tra khơi lại nỗi đau buồn của các gia đình đó bằng nhiều giả thiết cho tới khi chúng ta thu thập được nhiều tình tiết hơn để tiếp tục. Chúng ta có thể có hoặc không có chiếc áo vét của kẻ giết người. Cũng có thể hắn là một khách mời hoặc không.

- Thế anh nghĩ chiếc áo đó là của ai, người Do thái chăng?

Anh ta nháy mắt với tôi bằng một nụ cười:

- Nó có lẽ được bỏ lại đó để chúng ta bắt đầu điều tra thì phải.

Giọng nói của anh ta dường như trở nên khác lạ một cách đột ngột.

- Anh đang định từ bỏ sao? – Tôi hỏi anh ta.

- Tôi không từ bỏ - Anh ta nói – Cho đến khi chúng ta có điều gì chắc chắn, từng anh bạn trai cũ của cô dâu hay những thiệt hại của một số đoàn thể muốn loại bỏ Gerald Brandt đã nhúng tay vào có thể coi như một kẻ bị tình nghi. Tôi không muốn sự chú ý nhắm vào họ trừ khi chúng ta có điều gì chắc chắn để tiếp tục.

Chính nó đây. Sự thanh minh. Sự giới thiệu, chính sách ngăn chặn. Brandt và Chancellor Weil, bố của cô dâu đều là những nhân vật tầm cỡ. Hãy tìm cho chúng tôi những gã tồi, Lindsay. Chỉ đừng đặt phòng điều tra vào bất kỳ rủi ro nào dọc đường.

Tôi cảm thấy hưng phấn trở lại.

- Tôi nghĩ khả năng là kẻ giết người có thể đã có mặt trong lễ cưới là những gì mà chúng ta phải tiếp tục.

- Lindsay, tất cả những điều tôi gợi ý là hãy có vài sự xác nhận chắc chắn trước khi chúng ta bắt đầu thọc sâu vào đời sống tình dục của người đàn ông tốt nhất.

Tôi gật đầu, nhìn chằm chằm vào mắt anh ta.

- Cùng lúc đó thì chúng ta sẽ chỉ theo dõi đối tượng khác ngoài giới lãnh đạo có thế lực.

Chúng tôi đứng đó trong sự im lặng khó chịu.

- Được thôi, tại sao anh nghĩ kẻ giết người đã đổi chiếc áo vét của chú rể? – Tôi hỏi anh ta.

Anh ta dựa lưng vào mép tường vẫn còn xi măng.

- Phỏng đoán của tôi là hắn ta mặc chiếc áo đó khi hắn ta giết họ. Nó đã dính đầy máu. Hắn ta phải thoát ra ngoài để không bị phát giác. Chiếc áo vét của chú rể thì đang nằm gần đó. Vì vậy hắn chỉ việc đổi lấy.

- Vậy anh cho rằng hắn ta gây ra rắc rối, tạo ra những vết rạch đó mà nghĩ rằng sẽ không ai nhận ra. Kích cỡ khác nhau, hãng may khác nhau. Rằng điều đó sẽ trôi qua. Raleigh, tại sao hắn ta lại bỏ lại chiếc áo? Tại sao hắn ta không cho chiếc áo vấy máu đấy vào một cái túi? Hoặc cuộn nó lại bên dưới chiếc áo vét mới của hắn?

- Đồng ý – Anh ta thừa nhận – Tôi không biết. Phỏng đoán của cô là gì?

Tôi không biết tại sao hắn ta đã bỏ lại chiếc áo, nhưng một khả năng ớn lạnh bắt đầu hình thành trong tâm trí tôi.

- Khả năng thứ nhất: hắn ta sợ hãi. Có thể tiếng chuông điện thoại đã reo hoặc ai đó gõ cửa.

- Vào đêm tân hôn của họ sao?

- Anh lại bắt đầu có vẻ giống như người cộng sự cũ của tôi rồi.

Tôi bắt đầu tiến về phía sảnh và anh ta đuổi theo Anh ta mở cánh cửa thủy tinh cho tôi. Khi tôi đi qua, anh ta nắm lấy cánh tay tôi. Còn khả năng thứ hai thì sao?

Tôi đứng đó, nhìn thẳng vào mắt anh ta, cố gắng đánh giá xem tôi có thể hợp tác với anh ta đến mức nào.

- Dù sao đi nữa thì chuyên môn thực sự của anh ở đây là gì vậy? - Tôi hỏi

Anh ta mỉm cười, dáng vẻ của anh ta tự tin và yên tâm:

- Tôi đã từng kết hôn.

Tôi không đáp lại. Khả năng thứ hai là: Một nỗi sợ đang hình thành trong tôi. Kẻ giết người đang ám hiệu cho những bí mật của hắn? Hắn đang giỡn với chúng ta chăng? Để lại manh mối có chủ ý thì sao? Những kẻ giết người vì tình một lần không để lại manh mối giống như chiếc áo vét. Những tay giết người chuyên nghiệp cũng không như vậy.

Chuyện dài kỳ mới để lại manh mối.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 17

Từ cửa sổ mà Phillip Campell đang nhìn chằm chằm ra ngoài có cảnh đẹp đáng ngạc nhiên của vịnh, nhưng hắn đã không thực sự nhận ra những cảnh đẹp đó. Hắn đang bị lạc trong dòng suy nghĩ. Cuối cùng thì nó cũng đã bắt đầu. Hắn nghĩ rằng mọi thứ đang diễn ra. Thành phố trên vịnh sẽ không bao giờ tương tự như trước đây, phải vậy không? Ta cũng sẽ không bao giờ giống như trước đây nữa. Điều này thật phức tạp – không phải như vẻ bề ngoài mà đẹp theo cách riêng của nó.

Hắn đóng cửa văn phòng lại vì hắn luôn luôn làm vậy khi chìm đắm trong nghiên cứu. Giờ đây, hắn không còn đi ăn cơm trưa với những đồng nghiệp, bởi họ làm hắn cảm thấy chán. Cuộc sống của họ được lấp đầy bằng những lo lắng vụn vặt và thị trường chứng khoán, những người khổng lồ và những kẻ tìm vàng năm 1949. Nơi mà họ được hướng đến trong kỳ nghỉ. Họ có những giấc mơ hời hợt, đơn giản, trung lưu như vậy, còn giấc mơ của hắn thì cao xa. Hắn giống như những người có thế lực, nghĩ tới những điều mới mẻ tại thung lũng Silicon.

Nhưng điều đó đã là quá khứ rồi. Giờ đây hắn có một bí mật. Bí mật lớn nhất trên thế giới.

Hắn đẩy những tờ báo kinh doanh tới góc bàn của mình. Đây là thế giới cũ kỹ, hắn nghĩ. Cái tôi cũ kỹ. Sự buồn chán. Những chú ong thợ.

Hắn mở khóa ngăn kéo trên cùng bên trái chiếc bàn. Đằng sau sự lộn xộn cá nhân thông thường là một cái hộp nhỏ bị khóa màu xám. Nó chỉ vừa đủ để đựng một gói thẻ rộng hơn 7 centimét và dài hơn 12 centimét.

Đây là thế giới của ta bây giờ.

Hắn lại nghĩ đến khách sạn Hyatt. Khuôn mặt xinh đẹp mỏng manh của cô dâu, đóa hoa máu trên ngực cô. Hắn vẫn không thể tin những gì đã xảy ra. Vết đâm nhọn của con dao chọc qua sụn. Hơi thở hổn hển cuối cùng của cô ấy và tất nhiên là của hắn nữa.

Tên của họ là gì? Ôi lạy Chúa Jesus, người đã quên. Không, người không quên. Gia đình nhà Brandt. Tất cả họ đều xuất hiện trên báo và tin tức truyền hình.

Hắn dùng một chiếc chìa khóa để mở chiếc hộp nhỏ. Những gì đổ ra trong phòng là bùa mê say đắm cho những giấc mơ của hắn.

Một dãy các phiếu mục lục, gọn gàng và theo trật tự, được sắp xếp theo bảng chữ cái. Hắn liếc nhìn chúng lần lượt từng cái một. Những cái tên mới… King… Merced… Passeneau… Peterson…

Tất cả các cô dâu và chú rể.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 18

Có vài tin nhắn khẩn cấp trên bàn tôi khi tôi quay về từ nhà xác. Tốt – khẩn cấp là thích hợp.

Charlie Clapper từ CSU. Báo cáo sơ bộ được thu thập. Một số phóng viên từ AP, các đài truyền hình địa phương. Thậm chí có cả một phụ nữ đến từ tờ Thời sự đã để lại danh thiếp lại cho tôi.

Tôi cầm một miếng gà rán và miếng salát lê mà tôi đã mang đi khi gọi điện lại cho Clapper.

- Chỉ có tin tốt thôi – tôi đùa khi nghe giọng của anh ta trong điện thoại.

- Trong trường hợp đó, tôi có thể cho cô 900 số điện thoại. Chỉ mất 2 đô la mỗi phút thôi, họ sẽ nói cho cô bất cứ thứ gì mà cô muốn nghe.

Tôi có thể nghe thấy giọng điệu đó trong lời nói của anh ta.

- Anh không thu thập được gì sao?

- Rất nhiều ấy chứ, Lindsay – Sếp của CSU đáp lại, ý nói đến những dấu vết chưa xác định mà đội của ông đã nhấc ra từ căn phòng xảy ra án mạng – Dấu vết của cô dâu, chú rể, trợ lý trưởng văn phòng, quản gia.

- Anh đã tắm bụi cho những cái xác sao? – Tôi nhấn mạnh. Kẻ giết người đã kéo Melanie Brandt ra khỏi phòng. Thế còn thùng sâm panh thì sao?

- Tất nhiên. Chẳng có gì cả. Ai đó đã rất cẩn thận.

- Thế còn những thứ trên sàn thì sao? Sợi bông và vết giầy.

- Ngoài nước tiểu ra, Clapper cười – Cô nghĩ tôi đang từ chối cô sao? Cô rất lanh lợi, Lindsay ạ, nhưng tôi thoát khỏi những kẻ sát nhân mang sẵn túi nhiều hơn. Đồng thời, tôi đã ra lệnh cho người của tôi kiểm tra kỹ chiếc áo vét lễ phục qua kính hiển vi. Tôi sẽ cho cô biết. Chấp hành tốt chứ.

- Cảm ơn, Charlie – Tôi nói một cách thất vọng.

Khi tôi lật tiếp các tin nhắn của mình thì chiếc danh thiếp của Cindy Thomas nằm ở đầu tiên.

Thông thường, tôi không có thói quen gọi điện lại cho các phóng viên giữa một cuộc điều tra. Nhưng người này rất thông minh và điềm tĩnh, biết cách tiếp cận hiện trường vụ án, nhưng vẫn tốt bụng khi tôi bị cô ấy dồn vào chân tường ở phòng tắm lần trước.

Tôi liên lạc được với cô tại bàn làm việc.

- Cảm ơn cô đã gọi lại cho tôi, thanh tra – Cô nói bằng một giọng như khen ngợi.

- Tôi đã nợ cô, tôi đoán vậy. Cảm ơn cô đã giúp tôi thoát được sự yếu đuối tại khách sạn.

- Xảy ra với tất cả chúng ta mà. Nhưng tôi phải hỏi cô: Cô có hay hành động với tư cách cá nhân tại hiện trường vụ án không? Cô là một thám tử chuyên điều tra các vụ giết người, đúng không?

Tôi không có thời gian hay tâm trí nào để tham gia vào cuộc đấu trí, vì vậy tôi đã dùng đường dây điện thoại của Jacobi.

- Đó là một đám cưới. Tôi luôn khóc ở đám cưới. Tôi có thể làm gì cho cô, cô Thomas?

- Hãy gọi tôi là Cindy… tôi muốn nhờ cô một việc. Khi tôi có tới năm điều, có lẽ cô sẽ làm giúp tôi một điều.

- Chúng tôi có một vụ giết người, một vụ rất tệ. Chúng ta sẽ không chơi trò chơi. Hãy thỏa thuận ở đây. Và nếu chúng ta gặp nhau, cô sẽ thấy tôi không vui vẻ gì khi tôi cảm thấy mình mang nợ.

- Tôi đoán những gì tôi đang mong chờ là để nghe câu chuyện về cô dâu và chú rể của cô.

- Không phải Tom Stone đảm nhận chuyên mục các vụ giết người cho tờ Thời sự hay sao? – Tôi hỏi.

Tôi nghe thấy cô ấy hít một hơi thật mạnh.

- Tôi sẽ không nói dối cô. Tôi thường đảm nhận chuyên mục đáng quan tâm của địa phương bên ngoài Metro.

- Được rồi, bây giờ thì cô có được một câu chuyện thực sự rồi. Hôn nhân tổ chức trên thiên đàng và kết thúc dưới địa ngục. Cô nên tránh chuyện này thì hơn.

- Thưa thanh tra – Giọng cô trở nên nhẹ hơn. Sự thật là tôi chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ thứ gì như điều đó trước đây. Việc nhìn thấy Brandt nằm đó… vào đêm tân hôn của anh ta. Tôi không biết những gì cô phải nghĩ đến, nhưng đó không chỉ về câu chuyện. Tôi muốn giúp đỡ bằng bất cứ cách nào mà tôi có thể.

- Tôi đánh giá cao điều đó, nhưng chúng tôi có đủ những người mang phù hiệu háo hức đi lại xung quanh đây rồi. Chúng ta phải cho họ một phát súng không? Dù sao, cô cũng nên biết rằng việc lén lút tìm cách đi lên tầng 30 đã không giúp chúng tôi về việc được mời đến Hội đồng để ăn trưa. Tôi có trách nhiệm chiến thuật tại hiện trường vụ án đó.

- Tôi chưa bao giờ nghĩ tôi thực sự đã qua được.

- Vậy thì chúng ta đã thiết lập mối quan hệ, chúng ta không biết ai nợ ai đây. Nhưng vì đó là vấn đề của tôi…

Giọng của cô phóng viên thật dứt khoát:

- Tôi gọi để xem phản ứng của cô đối với câu chuyện mà chúng ta sẽ mở tung ra sau hôm nay. Cô biết là bố chú rể điều hành một công ty chứng khoán. Ông biên tập của hãng chúng tôi đã nói thẳng ra rằng họ đã nuốt lời một thỏa thuận được đề nghị ở phút cuối với một hãng sản xuất ô tô lớn thứ ba của Nga, Kolya – Novgorod. Brandt đang cung cấp tới hai trăm triệu đô la Mỹ cho một việc góp vốn quan trọng này. Kolya là một trong những tập đoàn của Nga bị tiếp quản bởi một chi nhánh mới của các nhà tư bản chợ đen. Theo tôi được biết thì nếu không có tiền nó sẽ thực sự phá sản. Nguồn tin của tôi cho thấy tâm trạng phía bị nuốt lời ngày càng trở nên bực bội.

Tôi cười:

- Bực mình sao cô Thomas? Bản thân tôi có lẽ cũng hơi bực mình một chút.

- Hình như một số người Nga bị bỏ lại đang đi với ông chú Vanyas của họ.

Tôi lại cười:

- Âm mưu giết người là tội phạm liên bang. Nếu có điều gì đó liên quan đến âm mưu đó thì cô nên gọi điện cho thẩm phán.

- Tôi chỉ nghĩ tôi sẽ cho cô biết. Đồng thời, cô muốn tôi đưa ra một lời nhận xét về bất kỳ khả năng mà cô đang xem xét phải không?

- Chắc chắn rồi. Tôi cảm thấy an toàn khi nói rằng chúng đang “tiến triển”.

- Cảm ơn – Cô thở dài – Cô đã thu hẹp đối tượng tình nghi nào chưa?

- Đây là những gì họ bảo cô hỏi ở tờ Thời sự à? Cô biết là tôi không thể tiết lộ điều đó mà.

- Không chính thức. Không quy kết. Chỉ với tư cách một người bạn mà thôi.

Như tôi đã nghe thấy, tôi nhớ khi tôi là một kẻ mới được tuyển dụng đang cố gắng len lỏi trên lối đi của mình. Làm thế nào mà giới cảnh sát đã cấm, đóng kín cho tới khi ai đó mở tung kẽ hở nhỏ nhất để tôi trườn qua.

- Như tôi đã nói, cô Thomas. Giọng tôi trở nên nhẹ nhàng – Không hứa hẹn gì cả.

- Cindy – Cô phóng viên nói – ít ra thì cô cũng gọi tôi là Cindy. Lần sau khi núp vào góc phòng tắm, cô nhớ cảnh giác đấy.

- Được thôi, Cindy. Tôi chắc chắn sẽ nhớ lời cô.
 

hoahongden12

Active Member
Kẻ Đầu Tiên Phải Chết
Chương 19

Tôi không muốn về nhà. Và tôi biết tôi không thể ở lại trụ sở lâu hơn.

Tôi vồ lấy cái túi, đi nhanh xuống gara để xe dưới tầng hầm và khởi động chiếc Bronco đầy bụi nhưng đáng tin của mình mà không hề nhìn rõ tôi định đi hướng nào.

Tôi chỉ lái xe – Lần thứ tư, thứ ba, lên trên khu Mission, chạy qua trung tâm Moscone, các quán cà phê và cửa hàng đều đóng cửa. Đi hết con đường xuống phía Embarcadero.

Tôi nhằm hướng ra khỏi vịnh. Tôi không có nơi nào để đi nhưng tay tôi dường như hành động theo bản năng, dẫn tôi tới một nơi nào đó. Hình ảnh vụ giết cô dâu chú rể cứ chập chờn trong tâm trí tôi. Những tiếng vọng của Orenthaler. Cuối cùng tôi gọi điện cho bác sĩ Medved, một nhà chuyên khoa huyết học để hẹn gặp.

Tôi đang đến gần Sutte. Đột nhiên, tôi cho xe rẽ ngang khi nghĩ ra mình cần phải đến đâu. Tôi cố gắng đi vào quảng trường Liên bang. Không cần phải cố gắng tôi nhận thấy mình đã đứng trước lối vào sáng trưng của khách sạn Hyatt.

Tôi chìa phù hiệu cho người quản lý và đi thang máy lên đến tầng 30.

Một người bảo vệ mặc đồng phục ngồi trước phòng Cao cấp. Tôi đã nhận ra anh ta, David Hale, ngoài Trung tâm. Anh ta đứng lên khi thấy tôi đến gần.

- Không có chỗ nào để đi sao, Thanh tra?

Một hàng rào chéo bằng dải băng vàng chặn ngang lối vào dãy phòng Cao cấp. Anh ta đưa cho tôi chìa khóa. Tôi tháo một dải băng ra và chui qua dải băng còn lại. Tôi mở khóa và đi vào trong.

Nếu bạn chưa bao giờ lang thang một mình tại hiện trường vụ giết người mới xảy ra, bạn thực sự không hiểu được cảm giác khó chịu bồn chồn này.

Tôi cảm thấy những bóng ma đen của David và Melanie Brandt vẫn đang ở trong phòng. Chắc mình đã bỏ sót một thứ gì đó. Tôi cũng chắc chắn rằng nó nằm ở đây. Nhưng là cái gì nhỉ?

Căn phòng đẹp như khi tôi đi ra. Tấm thảm phương Đông trong phòng khách đã được đưa tới phòng thí nghiệm của Clapper. Nhưng vị trí của cái xác và hiện trường dính máu được đánh dấu rõ ràng bằng phấn xanh. Tôi nhìn vào chỗ mà David Brandt đã chết. Trong tâm trí tôi, tôi lần lại những gì có thể đã diễn ra.

Họ đang nâng cốc chúc tụng nhau. (Tôi biết điều đó qua những chiếc ly sâm panh vẫn còn một nửa trên bàn gần hành lang). Có lẽ anh ta chỉ mới đưa cho cô ấy đôi khuyên tai (Cái hộp mở nằm ở phòng tắm chính).

Có tiếng gõ cửa, David đi ra mở cửa. Đó như thể những bí mật rì rầm trong không khí dày đặc, sống cùng với những tiếng thì thầm.

Kẻ giết người đi vào, mang theo hộp sâm panh. Có thể David biết hắn ta. Có thể anh ấy đã bỏ hắn lại một tiếng trước tại chỗ lễ tân. Con dao được rút ra. Chỉ một nhát đâm. Chú rể bị ghim chặt tại cửa, ngập máu. Điều đó xảy ra quá nhanh đến nỗi anh ấy không thể kêu lên. “Người đàn ông tội nghiệp đã vãi đái ra quần”, Claire đã nói thế.

Cô dâu không kêu lên sao? Có lẽ cô ấy đang trong phòng tắm. Có thể cô ấy đi vào phòng tắm để đeo khuyên tai.

Kẻ giết người lùng sục khắp căn phòng. Hắn chặn đứng cô dâu vừa đi ra mà không hề đề phòng.

Tôi hình dung ra Melanie Brandt đang hớn hở, sung sướng. Hắn ta cũng nhìn thấy điều đó. Liệu hắn có phải là người mà cô ấy quen biết không? Hay cô ấy đã mặc kệ hắn? Melanie có biết kẻ giết cô không?

Có một câu châm ngôn của Navajo nói rằng: ”Thậm trí cả cơn gió lặng cũng có một giọng nói”. Tôi lắng nghe trong căn phòng khách sạn tĩnh lặng như đang thú tội đó.

Hãy kể cho tôi, Melanie. Tôi ở đây là vì cô. Tôi đang lắng nghe.

Tôi sởn gai ốc rùng mình khi hồi tưởng lại từng chi tiết của vụ giết người. Cô ấy đánh nhau với hắn, cố gắng để chạy thoát (Những vết thâm tím và những vết xước nhỏ trên cánh tay và cổ tay của cô ấy). Kẻ giết người đã đâm cô ấy tại chân giường. Hắn khiếp sợ nhưng lại kích động một cách man rợ về những gì hắn đã làm. Cô ấy không chết ngay. Hắn phải đâm cô lần nữa. Và lại thêm một lần nữa.

Khi hắn thực hiện xong tội ác, hắn đưa cô lên giường (không phải kéo vì không có vệt máu trên sàn). Điều này rất quan trọng. Hắn ta rất nhẹ nhàng với cô ấy. Nó khiến tôi nghĩ hắn biết cô ấy.

Có lẽ hắn đã từng yêu Melanie chăng? Hắn đặt tay cô trên eo, ở một tư thế nghỉ ngơi. Một công chúa đang ngủ. Có lẽ hắn giả vờ rằng những gì vừa xảy ra chỉ là một cơn ác mộng.

Không một chỗ nào trong phòng khiến tôi thực sự cảm thấy đây là cách thức hành động của một kẻ giết người chuyên nghiệp hay kẻ giết người được thuê. Hay thậm chí ai đó trước đây đã giết người.

Tôi đang lắng nghe.

Sự giận dữ hung tợn đang bùng lên trong máu hắn ta. Hắn ta nhận ra rằng hắn sẽ không bao giờ gặp lại cô ấy nữa. Công chúa của hắn…

Hắn quá tức giận. Hắn muốn ngủ với cô một lần này thôi, để có thể được sờ soạng cô. Nhưng hắn không thể. Điều đó sẽ làm ô danh của cô.

Nhưng hắn phải có được cô. Vì vậy hắn đã nâng váy của cô lên. Sử dụng nắm tay của hắn.

Điều đó như hét vào tôi. Tôi chắc có một điều cuối cùng mà tôi không nhìn thấy, nhưng vẫn chưa phát hiện ra. Tôi bỏ sót điều gì vậy? Đến giờ mọi người đã bỏ sót điều gì nhỉ?

Tôi bước qua chiếc giường. Tôi hình dung Melanie với vết đâm kinh hoàng, nhưng khuôn mặt của cô thì bình thản, không oán trách. Hắn bỏ lại cô trong tình trạng như vậy. Hắn không lấy đi đôi khuyên tai và chiếc nhẫn kim cương to đùng.

Rồi điều đó chặn đứng tôi lại bằng sức công phá của một đoàn tàu nổ tung khỏi đường hầm tối đen. Điều gì bị bỏ sót. Điều gì mà tôi không nhìn ra. Lạy Chúa Jesus, Lindsay.

Những chiếc nhẫn!

Tâm trí tôi nghĩ nhanh đến hình ảnh của cô dâu nằm đó. Bàn tay thanh tú dính máu của cô. Kim cương vẫn còn đó, nhưng… lạy Chúa Jesus! Liệu có thể nào như thế không?

Tôi chạy lại phòng giải lao và nghĩ đến cái xác dập nát của chú rể.

Họ mới lấy nhau chỉ cách đây vài tiếng đồng hồ. Họ chỉ vừa mới thề nguyền xong. Nhưng họ không đeo dải buộc bằng vàng.

Những chiếc nhẫn cưới.

Kẻ giết người không lấy đi khuyên tai. Tôi đã nhận ra điều đó.

Hắn lấy đi những chiếc nhẫn cưới.
 
Bên trên