Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

co1972nguyen

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Trong những nghệ sỹ bác giới thiệu có những giọng hát em rất thích như Elvis Phương, Tuấn Ngọc, Khánh Hà. Hy vọng có bài về Duy Trác, Sỹ Phú, Lệ Thu trong những bài tiếp theo
Thật ra đã ở nước ngoài (SBS-Hoài Nam) họ đã làm tổng hợp 70 năm nền âm nhạc VN, nói rất rõ tiểu sử của từng nhạc sỹ, hoàn cảnh sáng tác bài hát ..v.v.. không biết diễn đàn mình đã có định dạng lossless chưa?Nếu có các Bác cho link để down về.
Chứ mình có định dạng mp3 nghe không đã lắm hoặc các Bác tìm trên mạng cũng có
70 Năm Tình Ca Trong Âm Nhạc Việt Nam FULL | XFxWVkpf, Playlist : Âm Nhạc Việt
 

anhtuanngoc

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Thật ra đã ở nước ngoài (SBS-Hoài Nam) họ đã làm tổng hợp 70 năm nền âm nhạc VN, nói rất rõ tiểu sử của từng nhạc sỹ, hoàn cảnh sáng tác bài hát ..v.v.. không biết diễn đàn mình đã có định dạng lossless chưa?Nếu có các Bác cho link để down về.
Chứ mình có định dạng mp3 nghe không đã lắm hoặc các Bác tìm trên mạng cũng có
70 Năm Tình Ca Trong Âm Nhạc Việt Nam FULL | XFxWVkpf, Playlist : Âm Nhạc Việt
Lossless hình như chưa có bác nào post lên cả. Hy vọng trong thời gian sắp tới sẽ có
 

co1972nguyen

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Tùy bút Khánh Ly​

khanhly.jpg


Tôi không bao giờ nghĩ rằng có một lúc nào đó như lúc này, cuộc sống của ca sĩ Hải Ngoại và Việt Nam lại được mang ra mổ xẻ rạch ròi, tới tấp như thế. Có lẽ, trong đầu óc đơn giản của tôi, ca sĩ ở đâu cũng là ca sĩ…. Âm nhạc là một thứ ngôn ngữ đặc biệt chung cho mọi người, ở mọi nơi, mọi phía. Không có biên giới…. Nhạc đã được khẳng định như vậy, lẽ nào người hát lại bị loại ra ngoài. Tôi không hề phân biệt ca sĩ trong hay ngoài nước. Có chăng, điều bị chỉ trích là cách sống của những người cùng chung một nghiệp dĩ ở hai bờ đại dương.

Những ca sĩ lớn lên hay thành danh ở trong nước dường như không có một khái niệm nào về nghệ thuật và quá trình của lớp người đi trước họ cả một phần tư thế kỷ. Và cũng không ai nói cho họ nghe về một thời bình an, đẹp đẽ của sân khấu Miền Nam, trước mùa Xuân 75.

Chúng tôi, lớp người đã được quần chúng chấp nhận trước 75, thật sự đã trải qua bao nhiêu khó khăn, bằng chính năng khiếu của mình. Chỉ có một ít may mắn đủ trình độ văn hoá Đại học và tốt nghiệp Quốc Gia Âm Nhạc như Hoàng Oanh, Thanh Lan, Đức Huy, Quỳnh Giao, Mai Hương…. Còn lại, đa số chỉ đến Trung học, chưa bao giờ bước chân vào Quốc Gia Âm Nhạc. Lên sân khấu, với năng khiếu Trời cho và may mắn được chấp nhận.
Thời đó, ca sĩ rất ít và không phải bất cứ ai bước lên sân khấu, là đều được coi là ca sĩ…. Quần chúng phải chấp nhận. Các ca sĩ phải chấp nhận. Các trung tâm thâu băng, đĩa phải chấp nhận. Các đài phát thanh phải chấp nhận, chúng tôi mới có được… tạm coi như là ca sĩ và vẫn nằm trong sự kiểm soát, nghe ngóng, chăm sóc của các Trung Tâm mà trung gian là nhạc sĩ. Chỉ một bài “Nỗi Buồn Hoa Phượng”, Thanh Tuyền lúc đó
mới 15 tuổi đã trở nên mỏ vàng của Hãng đĩa. Chỉ với “Chuyện Một Chiếc Cầu Gảy” Hoàng Oanh, cô sinh viên văn khoa không hề thua kém Thanh Tuyền của trường Bùi Thị Xuân Đà Lạt. Không ai có thể hát lại chị Bạch Yến bài Đêm Đông. Không ai có thể làm xao xuyến người nghe như chị Lệ Thanh với Tà Áo Xanh của Đoàn Chuẩn. Chị Trúc Mai bài “Hàn Mặc Tử”. Chị Lệ Thu với Ngậm Ngùi và cô Thái Thanh gần như “độc quyền” nhạc Phạm Duy. Không ai có thể thay thế ai.
Vì sao thế, vì thời đó, các nhạc sĩ… đo ni may áo cho ca sĩ. Không thể trật đi đâu được và vì thế, bài hát làm nên ca sĩ. Trúng một cái, cả nhạc sĩ lẫn ca sĩ đều như sóng dội. Thời đó nhạc sĩ nhiều hơn ca sĩ.Ngoài công việc chính, họ chỉ chú tâm sáng tác và chọn những giọng hát hợp với bài hát. Phần chúng tôi, mỗi người có một chất giọng riêng. Nghe là biết ai ngay. Chúng tôi đủ thông minh để không giẫm chân người khác.

Năm 69, ông Thiêng, ông Quân có 2 bài… hai bài này chỉ có Khánh Ly, đó là “Kinh Khổ” và “Trên Hoang Tàn Đổ Nát”…. Ông Minh Bằng giao cho tôi…“Người Thợ Săn Và Đàn Chim Nhỏ”. Kim Loan với “Căn Nhà Ngoại Ô”. Giao Linh với “Những Đóm Mắt Hoả Châu”. Phương Hồng Quế có bài “Giờ Này Anh Ở Đâu”. Mai Lệ Huyền và Hùng Cường có một loại nhạc riêng, quen gọi là nhạc kích động. Chỉ hát một nơi với bài “Mùa Thu Cho Em”, Xuân Sơn đã làm bao người điêu đứng, chưa kể đến bài “Trăng Sáng Vườn Chè”- dẫu sau này Ái Vân dựng lại bằng nhạc cảnh cũng không làm người nghe quên nổi Xuân Sơn. Carol Kim hát “Hãy Khóc Đi Em”. Ông Sơn bảo… chỉ có Carol Kim hát bài đó trội nhất…Duy Quang trình làng “Thà Như Giọt Mưa”. Elvis Phương bài “Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang”… Còn ông Chế Linh thì bài nào vào tay ông là lập tức trở thành của ông.
10 năm đầu, tôi chỉ nhận được 2 bài hát của ông Sơn “Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên”, “Một Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”. Cả hai đều bị giam, cấm phổ biến. Dĩ nhiên tác giả cũng không thể ngồi yên. Lý do đơn giản thôi… viết cho KL.

Mấy năm sau đó, một bài hát nữa cũng của T.C.S bị dập, bài “Nhớ Mùa Thu Hà Nội”… cũng lại vì KL. Tôi nhận được bài hát từ những người vượt biển. Cũng khoảng thời gian đó, từ Pháp gởi qua cho tôi một số bài hát ký tên Hồng Ngọc,trong số đó có bài “Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên”. Thực tế bài hát đó có tựa nguyên thuỷ là “Nước Mắt Cho Sài Gòn”. Ông Võ Văn Ái đã đổi tựa và viết thêm lời hai, Hồng Ngọc là bút hiệu của Nguyễn Đình Toàn, và trong bài viết có câu“đâu rộn rang giọng hát Khánh Ly”.
Nhưng phải nói rõ, ngay từ những ngày mới tới Mỹ, khi mà mọi người còn bị chia ra, sống riêng lẻ mỗi người một nơi, khó có thể tìm ra nhau từ những trang trại rộng lớn, nằm khuất sau những dãy núi cao mà ngay khi chạy qua trên các xa lộ, chúng ta không thể nhìn thấy được, “Sàigòn Ơi Vĩnh Biệt” của Nam Lộc đã được viết trong thời gian đó. Một ca khúc đơn giản xuất phát từ nỗi lòng của một người vừa rời xa quê hương.
Không cầu kỳ văn hoa chải chuốt nhưng rất thật thà nói lên sự tiếc thương, nỗi đau xót và mơ ước ngày trở về, cho dẫu đã nói lên lời vĩnh biệt.Đức Huy trình làng “Đường Xa Ướt Mưa” năm 1979 cùng lúc với Tùng Giang “Tôi Với Trời Bơ Vơ” và Nam Lộc “Người Di Tản Buồn”. Linh Giang “Tôi Muốn”. Phạm Duy “Nguyên Vẹn Hình Hài”, Hoàng Quốc Bảo “Mưa Trên Thành Phố Cũ”, Nguyễn Đức Nam với “Buồn Tháng Mưa”… trong khi đó nhạc Vàng ở VN bị xoá sổ.
“Rơi Lệ Ru Người” viết từ năm 75 (khi nghe tin tôi chết trên biển) phải chờ đến năm 1992 khi gặp ở Canada, ông Sơn mới chép in cho tôi bài đó.

Giữa thập niên 80, một số ca sĩ ở VN mới được phép hát lại, nhưng vẫn chỉ loanh quanh ở những tỉnh nhỏ. Nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân từ Nhật Ngân lập đoàn gồm Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Lan… bữa đói, bữa no, ngủ đình, ngủ chợ, mong được hát cho nhiều hơn là kiếm miếng ăn dẫu rằng ai cũng đói. Nhã Phương và Bảo Yến nổi lên, rồi Ngọc Bích, Thanh Lan ở tù liên miên vì tội vượt biên. Nhưng một số ca sĩ may mắn hơn Thanh
Lan là Lệ Thu, Ngọc Minh, Hoàng Thi Thao, Lê Uyên và Phương đã đi được. Thanh Tuyền, Giao Linh, Chế Linh cũng thoát. Vài năm sau đó có Thái Thanh đến Mỹ. Như thế, lớp ca sĩ cũ của chúng tôi còn ở VN là Hồng Vân, Lan Ngọc, Nhật Thiên Lan, Mộng Xuân Lan, Ngân Hà, Giang Tử, Anh Khoa… và rất nhiều nhạc sĩ.

Sau thời VN tưng bừng “mở cửa” rồi tưng bừng “khép lại”. Bài tình ca đầu tiên được viết ở trong nước, ra Hải Ngoại và lọt vào lỗ tai tôi là bài “Giọt Nắng Bên Thềm” rồi bài “Em Ơi Hà Nội Phố”, bài này, trong nước coi như… rửa mặt cho Hà Nội sau mấy chục năm. Và từ đó trở đi, nhạc tình được viết với tốc độ khá nhanh bởi những tác giả trẻ và xa
lạ – ngoại trừ Quốc Dũng, Bảo Chấn và Bảo Phúc tung ra Hải Ngoại những khuôn mặt lạ, trẻ và một kiểu hát như nhau, chất giọng như nhau, đến nỗi có đôi khi chợt nghe, tôi không thể phân biệt ai là ai. Tôi không nghĩ những bài hát được sáng tác ở trong nước là dở – có lẽ tại tôi bảo thủ quá chăng – nhưng với một thành phần nhạc sĩ đông đảo, sáng tác lien tục không ngưng nghỉ trong một môi trường thuận tiện, rộng lớn – 70 triệu người nghe. Nói thật lòng, tôi chỉ nghe được “Giọt Nắng Bên Thềm”, “Em Ơi Hà Nội Phố”, “Thuyền Và Biển”, “Phượng Hồng”, “Hà Nội Mùa Vắng Những Cơn Mưa”, “Tháng Tám Mùa Thu”, “Quê Hương”. Và chỉ có như thế (tôi không nói vềnhạc T.C.S). Những bài hát khác không hề ở lại trong đầu tôi. Nó có một chút gì của Mỹ. Một chút gì của Nhật. Một
chút gì của Tầu. Một chút gì của Đại Hàn.Một chút gì của Thái. Tất cả có chung một lối hoà âm.Khoảng trong 2 năm đầu khi những bài hát ở VN tràn ra Hải Ngoại, nhiều người điên cuồng tìm mua nghe, tưởng như nhạc trong nước đã đè bẹp, giết chết nhạc Hải Ngoại phá nát thị trường băng nhạc ở đây. Bạn bè xôn xao hỏi. Tôi nói không bi quan cũng không chủ quan… rồi cũng qua nhanh như lửa rơm… Chỉ đơn thuần là ý nghĩ của tôi
với những bài hát viết từ trong nước tôi đã nghe không phải một lần.
Vả lại trong số những tác giả trẻ, có người tôi biết trước năm 75. Các trung tâm cũng xôn xao. Tại sao thế nhỉ… Có nhiều TT ở đây phát hành băng đĩa VN cơ mà. Họ bán 10 đồng 3 cuốn CD rồi 10 đồng 4 cuốn.
Nếu CD của chúng tôi bị in giả tại VN lan tràn từ Nam ra Bắc, từ hàng thịt chó tới hang bún chả, đến phòng tắm hơi, đến những quán karaoke. Từ taxi đến xe đò thì tại sao ở đây không? Một cuốn master thực hiện ở VN giá thành không bao nhiêu và khi được tung ra thị trường thì lại không chỉ dành cho một TT nào mà là cho cả chục người, rồi ai muốn bán kiểu nào, giá nào thì bán.

Bà con mình vốn tính luôn thích của lạ. Lạ mà rẻ, ai lại bỏ qua nhất là nó lại mới lại lạ (như mấy ông chồng bị ăn mãi cơm nhà, quà vợ, nay bỗng thấy người lạ, dẫu không đẹp, cũng vẫn thèm). Bèn mua về nhà ngay – giống phong trào phim bộ năm nào – và mê ngay. Có lạ gì đâu, 27 năm nằm gai nếm mật xứ người, nghe chừng đó ca sĩ, thuộc mặt từng người, coi bộ cũng… mệt mỏi rồi.

Thích là phải. Đương nhiên thôi. Bao lâu thì chưa biết nhưng cứ thích, cứ mua cái đã. Thị hiếu của quần chúng đối với một thị trường lạ, tưởng không cần phải bàn ra tán vào, dài dòng, mất thì giờ. Hai năm trôi qua – như tình yêu vậy, không còn gì mới lạ nữa. Những bài hát theo gió cuốn đi.

Sau mùa Xuân năm 75, đồn rằng tất cả nhạc vàng đều bị thiêu huỷ, ai giữ trong nhà như giữ đồ quốc cấm. Sách, truyện cũng cùng chung số phận. Phim ảnh dù bị hủy hoại cũng còn những bản phụ ở nước ngoài. Mọi người bị lùa đi học tập cải tạo không hứa hẹn ngày trở về. Ca nhạc sĩ bắt buộc phải trình diện gọi là bồi dưỡng chính trị. Những tà áo xanh, đỏ rực rỡ bỗng nhiên biến mất, chỉ còn quần đen áo cánh trắng hoặc nâu cho đúng với tôn chỉ cách mạng. Bao nhiêu khuôn mặt xinh đẹp, nổi tiếng của Sài Gòn nay e dè nhìn nhau như thăm hỏi… Họ nói cái gì thế nhỉ… Người nói cứ nói, người ngồi nghe như vịt nghe sấm, lòng thì cứ như đi đẩu, đi đâu. Nghĩ đến bạn bè ai đi thoát, ai kẹt lại… cái gì đã xảy ra cho SàiGòn… cái người đang giảng giải cái gọi là Chủ Nghĩa Xã Hội kia là ai, ở đâu ra thế… tất cả bàng hoàng hoặc lo âu. Lo cho mình thì ít, cho gia đình thì nhiều bởi đa số ca nhạc sĩ đều có con em cha chồng là quân nhân, là có… nợ máu với nhân dân. Đã gọi là nợ thì phải trả nhưng trả thế nào đây?Thật ra thì các ca nhạc sĩ không bị đày ải quá lâu với những chương trình bồi dưỡng chính trị. Họ khổ vì bị cấm
hát. Suốt mấy năm trời cả miền Nam đều phải nghe một loại nhạc, một kiểu hát cùng một giọng giống nhau. Những bài hát của miền Bắc mà dân Sàigòn phải nghe đã được sáng tác lâu rồi, giờ mới có dịp tung ra.Chỉ một loạt bài đó thôi sau năm 75, hầu như nhạc sĩ miền Bắc không viết loại nhạc ấy nữa vì người Sàigòn không muốn nghe. Nghe
không vô cũng như họ phải chịu đựng những bảng hiệu tên đường ngô nghê, buồn cười, chẳng ra làm sao…đường Nguyễn Văn Bánh, đường Võ Thị Sáu… những người là ai… Khai quốc công thần của nhà Nguyễn chăng…
Những bài hát cứ ồm ồm tra tấn lỗ tai người Sàigòn. Những con đường cũ làm cho người ta… khi hẹn nhau, ta lạc lối tìm… chắc cũng họp hành dữ lắm. Nghị quyết này, nghị quyết kia…tôi thấy thế này, tôi thấy thế nọ vân vân. Thanh Lan thành tích vượt biên nhiều quá. Cấm. Hồng Vân, Lan Ngọc tàn tích cũ. Cấm. Thế nhưng các tiếng hát miền Bắc lại không được Sàigòn chấp nhận. Bảo Yến và Nhã Phương lên tiếng đánh bạt các giọng ca… có dấm càng them chanh… Ngọc Bích cũng lên tiếng mạnh mẽ lẫy lừng một thời, cô là con gái của nghệ sĩ Ngọc Hùng, Ngọc Nuôi. Cô đã từng là giọng ca chính của ban nhạc The Crazy Dogs thì đương nhiên cô phải nổi bật.

Nhà nước cũng cho mời các nghệ sĩ nổi danh cũ, cho phép thành lập đoàn hát. Cho tập dượt tại nhà hàng Queen Bee. Có ban nhạc Shortguns, ông Lê Uyên Phương có Thái Thanh… Tập cho đã đến chừng phúc khảo ra mắt các quan to sừng dài thì… không đủ tiêu chuẩn (ông Lê Uyên Phương kể lại) thật cay đắng cho những tên mối lớn ở Saigòn. Ông Trịnh Công Sơn đi thực tập, học trồng sắn, trồng lúa, nuôi heo, ông đi theo con trâu
ông chủ nhà tốt bụng cho mượn… tôi thấy chú tội nghiệp tôi thương, nơi đó là cả một bãi mìn, ngày mô cũng có người chết, chừ tôi cho chú mượn con trâu, chú cưỡi theo chân nó mà đi… Thời gian này, ông sáng tác bài “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”… Mình cứ vừa cày ruộng, trồng khoai vừa hát cho mình nghe – có thế mới sống nổi chứ. Ấy thế mà bài hát bị cấm… Đất nước thống nhất rồi, anh không đủ vui hay sau mà phải tự chọn cho mình một niềm vui?Sau khi đã giữ chân mấy trăm ngàn người trong trại cải
tạo. Làm bà con ta điêu đứng sau mấy đợt đổi tiền. Nhạc tình bắt đầu ngoi ngóp bằng những bài hát. Nửa mùa, quốc không quốc, cộng không ra cộng.

Loại nhạc thăm dò dư luận cấp lãnh đạo. Cửa đã hé mở đón Việt kiều hồi hộp về thăm dân cho biết sự tình. Thanh Lan vượt biển hoài mà đường đi không đến bèn leo lên sân khấu hát lại. Cẩm Vân hừng sáng với giọng trầm, ấm áp, rõ ràng. Hồng Hạnh giọng mỏng hơn nhưng xinh đẹp, song nghiệp hát không lâu dài. Các ca sĩ được chú ý vẫn là Nhã Phương, Bảo Yến, Cẩm Vân, thỉnh thoảng mới có đề cập đến Lan Ngọc, Hồng Vân, Anh
Khoa. Nhạc sĩ Duy Hải qua đời, nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang qua đời trong tù. Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 gần như đóng cửa ở ẩn, không cộng tác với đoàn hát nào. Cô Thái Thanh, nhạc sĩ Hoài Trung bị cấm hát vĩnh viễn sau cái buổi phúc khảo tại nhà hàng Queen Bee. Một thời gian ngắn sau đó, nhạc sĩ Hoài Bắc vượt biên, nhạc sĩ Văn Phụng, cô Châu Hà cũng đi thoát…. Bài “Quê Hương” là bài tôi thích, bài “Thuyền Và Biển” do Cao Minh hát. Đùng một cái tôi thấy bà con trong và ngoài nước đua nhau hát… bằng lòng đi em… về với quê anh… nghe cũng có vẻ mời gọi lắm nhưng với tôi, nó có vẻ quê quê thế nào ấy. Bài “Ở Hai Đầu Nỗi Nhớ” ấy thế mà tôi lại nghe được. Thì ra “Thuyền Và Biển” thơ Xuân Quỳnh, nhạc Phan Huỳnh Điểu. “Ở Hai Đầu Nỗi Nhớ” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, tác giả bài “Dư Âm” ngày xưa…. Rồi sau đó là bông điên điển, là rau đắng, rau ngọt, rau mồng tơi. Lá sầu riêng, chôm chôm… thì thề… đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh… Quê hương nếu ai không nhớ,sẽ không lớn nổi thành người. Tôi nghe mà còn khóc thì bảo sao bà con không đổ xô đi mua, không đè xấp, đè ngữa nhau giành chỗ trên những chuyến bay đi tìm những chùm khế ngọt. Đi để… thành người.

Sau đợt Cẩm Vân, Hồng Hạnh, Ngọc Bích, Nhã Phương, Bảo Yến là những Mỹ Linh, Thanh Lam, Hồng Nhung, Phương Thanh, Thu Hà, Trần Thu Hà là những ca sĩ, nghe nói có được đào tạo trường lớp hẳn hòi và những ca sĩ này sáng tạo ra một lối hát giống nhau nhưng không giống ai.

Không giống ai là điều tốt bởi mỗi người phải có cái riêng của mình như các lớp ca sĩ trước. Thanh Tuyền cất tiếng hát là biết ngay Thanh Tuyền. Lệ Thu vừa… nắng chia nửa bãi…. thì đó là Lệ Thu … Em tan trường về, anh theo Ngọ về….là cô Thái Thanh. Bang bang, em bắn ngay anh… là Thanh Lan. Những ca sĩ không qua một trường đào tạo nào, họ qua… trường đời và họ có cá tính, có cái chất giọng riêng để phù hợp với các bài hát các nhạc sĩ viết riêng cho họ. Tôi thường hay bị… đố nhạc… Đố chị biết ai hát đấy… và bao giờ tôi cũng thua vì cùng trường, cùng thầy, cùng một cách đào luyện ca sĩ trẻ ở VN hát giống nhau. Bốn năm người hát mà nghe như chỉ một người. Trường lớp có cái hay mà cũng có cái dở và cái sai lại quá lớn. Chẳng còn biết ai là ai mặc dù họ hát vững, kỹ thuật cao, chất giọng tốt và khoẻ nhưng mà ai mới được chứ. Cái… là ai… mới quan trọng. Theo trường lớp để biết kỹ thuật trình diễn, học hát để biết cách hát, biết cách ngân, biết cách lấy hơi chỗ nào, biết cách nhưng sao cho đúng đó là chưa nói đến vấn đề thầm âm.

Người ca sĩ phải có cái lỗ tai tốt, nghe nhạc mới chính xác, bát cũng bị chênh. Một người ca sĩ, ngoài tiếng hát nếu biết rõ về nhạc lý thì càng tốt, tốt lắm lắm (nếu không, trường nhạc mở ra để làm gì) như các chị Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao và bác sĩ Bích Liên.

Âm nhạc và nhất là các ca sĩ trình diễn không thể bị đóng khung bởi những điều trường lớp dạy. Khi đã có căn bản, phải tự mình tìm cho mình lối trình diễn riêng và sử dụng tiếng hát của mình theo lối riêng lợi điểm của các anh chị không giỏi nhạc… như tôi chẳng hạn. Ngoài các thầy cô ở trường, khi ra tranh đua với đời, ta cũng nên tìm một người thầy hướng dẫn cho mình con đường nào tốt nhất. Đôi khi người thầy đó không giỏi nhạc nhưng họ có cái lỗ tai của người nghe, cái nhìn xa trông rộng giúp cho ca sĩ chọn đúng bài, cách trình diễn và cách hát.
Người thông minh có thể không cần ai giúp vẫn tìm được cho mình một đường riêng, tuy nhiên điều này hơi hiếm. Phần lớn, các ca sĩ sau khi tốt nghiệp thường tự cho mình là giỏi, không cần ai nữa. Điều này thì nhiều.

Tôi viết những cảm nghĩ của một người nghe nhạc chứ không phải của một ca sĩ có 40 năm trên sân khấu. Tôi cảm thấy một nỗi thất vọng mênh mang khi cứ tình cờ phải nghe… nghèo 1 rồi nghèo 2 (đến nghèo 3 là sạt nghiệp)… Chim sáo ngày xưa 1, rồi chắc chim còn bay nên lại… chim sáo ngày xưa 2, (nếu không có chim 3 thì có nghĩa con chim này đã nằm trên đĩa). Chim này bắt chước chim đa đa,chim đa đa… đi mất thì đừng
trách chim. Tôi nghe ông Song Ngọc hát… ngày chị sinh ứ…ư trời cho tôi làm thơ…ứ ư nhưng chữ ứ… ư này tôi không dám viết ra sợ bà con mắng.
Tôi nghe bạn bè bảo bài…Nếu anh nói yêu em là thật ra anh đang dối lòng… là lời của một bản nhạc Mỹ nhưng tôi chưa nghe,không dám bàn tới, tuy nhiên, đó là một bài hát thành công của Bảo Chấn. Trần Tiến tướng tá bậm trợn, to như một đô vật nhưng lại thương cho một lá Diêu Bông, lại thương cho tóc gió thôi bay, lại làm riêng một bài hát về ông TCS. Nhìn ông TCS ngồi cạnh Trần Tiến, tôi nghĩ, đúng là…ở hai đầu nỗi nhớ….Thì cứ cho là vì sống xa quê hương vì sự sống, các nhạc sĩ ở Hải Ngoại cạn hứng không có sáng tác nào đáng kể. Điều đó lầm. Ông Lê Minh Hằng đó chi. Ông Tuấn Khanh đó chi. Nghe “Nỗi Niềm”, “Nhạt Nhoà” mà không ngây ngất sao, nghe “Dĩ Vãng” của TNS mà không ngẩn ngơ sao. Nghe “Người Di Tản Buồn” của Nam Lộc mà không chảy nước mắt sao. Nghe “Có Những Niềm Riêng” của Lê Tín Hương mà không ngậm ngùi sao. Nghe “Tôi Muốn Hỏi Vì Sao” của Diệu Hương mà không thương cảm sao. Nghe “Anh Đã Ngủ Yên Trên Quê Hương” của Trần Duy Đức mà không thấy lòng ??? ??? sao. Nghe“Đêm
Nhớ Về Sài Gòn”, “Một Ngày Việt Nam – Những Bước Chân Việt Nam”, “Cám Ơn Anh”, “Cờ Bay Trên Phố Bolsa” của TrầmTử Thiêng mà không thấy xót xa sao. Nghe đi. Nghe “Ta Hát Tình Thương Về Biển Đông” của Trúc Hồ – Trầm Tử Thiêng để thấy tấm lòng VN ở Hải Ngoại lớn lao, bao dung và nhân hậu biết bao nhiêu. Nhạc hay là nhạc đến rồi ở lại trong lòng chúng ta. Ở đây, mọi người cần phẩm,không cần lượng. Đối với người nghe nhạc như tôi, nhạc thế mới xứng đáng gọi là nhạc phẩm.

Việt Nam trên 70 triệu người, có bao nhiêu nhạc sĩ sáng tác và những bài hát của họ giờ đi về đâu. Nhà nước vốn kỵ nhạc vàng, đốt sạch hết nhạc vàng năm 75 sao giờ đây lại cho… chim bay tùm lum, lại than nghèo chí chạp, lại khuyến khích nhạc sĩ lấy nhạc Thái Lan,Hồng Kông, Đại Hàn, Nhật Bản… viết lời Việt làm thành của mình, toàn những lời thương mây khóc gió, yêu thương vung vít. Tuổi trẻ VN bây giờ được quyền… bỏ học đi hát karaoke, không cần thi vẫn đậu. Cả nước được quyền xem phim bộ và nghe nhạc vàng… Là tại sao?

Nếu bây giờ có ai hỏi tôi rằng tuổi trẻ VN ở Hải Ngoại làm gì. Xin thưa… chúng nó đang ngồi trong thư viện. Tuổi trẻ ở trong nước đang làm gì. Xin thưa… chúng đang hát karaoke. Dĩ nhiên không phải các em nhỏ ở đây đều ở trong thư viện còn các em ở VN đi hát, hoặc đi chích hoặc ra trường rồi nhưng đang đi lang thang xin việc làm. Cái gì cũng
có mặt trái của nó. Vì các anh chê chúng tôi nên nói…chơi cho vui.
Nhạc các anh làm ra, bên này bán tự do 10 đô 4 cuốn, đổ đống ra, tha hồ mà lựa. Rồi 10 đồng 5 cuốn, mua về nghe không hay, không thích. Dụt. Coi như mất 2 tô phở.Nhạc của chúng tôi lọt được về VN thật là thiên nan vạn nan, bài nào không có lợi, chủ tiệm băng bèn cắt, bỏ vào đó một bài khác. Bìa băng và tựa băng đổi luôn và như thế, làm sao người nghe có thể nghe được bài hát có giá trị. Các anh chơi như thế là không công bằng, không fair, hoặc là các anh… rét, không muốn phổ biến những bài hát đó. Ở Hải Ngoại chúng tôi có một dúm người, các anh có hơn 70 triệu dân.

Tôi mơ ước được nghe lại những sáng tác đầy sáng tạo và đẹp đẽ của các nhạc sĩ ở trong nước cũng như chúng tôi ưu ái tiếng hát của các ca sĩ ở Việt Nam.

Khánh Ly
 
Chỉnh sửa lần cuối:

co1972nguyen

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

LÊ UYÊN PHƯƠNG - LÊ UYÊN​


image

Đôi song ca Lê Uyên-Phương, hình chụp năm 1997 (Hình do Lê Uyên cung cấp)​

Mối thân tình giữa tác giả với Lê Uyên Phương từ gần 30 năm nay đã giúp cho câu chuyện trở nên thân mật, gần gũi hơn trong cái thế giới tràn ngập nhạc và tranh nơi căn nhà xinh xắn trên đường số 55 East, Long Beach, California. Trong cái thế giới bao trùm không khí nghệ thuật đó, người nhạc sĩ với những bản tình ca chứa đựng nhiều bộc lộ về nhân sinh quan đã trải qua nhiều biến chuyển về tình cảm cũng như về những hoạt động của anh trong lãnh vực nghệ thuật. Trên cái “bình diện phẳng với những sự tương quan” – như anh thường nói – Lê Uyên Phương đã trải tấm lòng thành thật của mình trong hàng giờ nói chuyện. Bài viết dưới đây chỉ là một số trích đoạn nhỏ từ cuộc nói chuyện kéo dài cả buổi, nhắm vào vài chi tiết thường gây ra những thắc mắc nơi những người yêu nhạc của anh như tên họ, sự đổ vỡ giữa anh và Lê Uyên, ngón tay với cục bướu khác thường của anh, quan niệm của anh về cái chết v.v… Tiểu đề in đậm và những chữ in nghiêng là phần chú thích hoặc dẫn nhập của tác giả đến những câu nói nguyên văn của Lê Uyên Phương về những đề tài được đề cập tới để bạn đọc có thể theo dõi một cách rõ ràng, cùng với một vài thêm bớt để được rõ nghĩa hơn khi trích từ những lời đối thoại….

* Tại sao Lê Uyên & Phương và tại sao Lê Uyên Phương?

Nhiều người thường gọi anh với tên Lộc, nhưng thật ra không phải, "thành ra dịp này mình phải nói rõ cái tên của mình là Lê Minh Lập, sinh ngày 2 tháng Hai năm 1941 tại Đà Lạt."

Vì sinh ra vào thời kỳ chiến tranh giấy tờ hộ tịch bị thất lạc, nên Lê Uyên Phương đă đôi lần phải làm lại giấy khai sinh. Và mỗi lần làm khai sanh mới là mỗi lần tên anh bị viên chức hộ tịch viết sai! Khai sinh lại lần đầu tên Lê Minh Lập bị đổi thành Lê Minh Lộc. Làm khai sinh lần thứ hai thành Lê Văn Lộc. Từ đó anh không đổi nữa, giữ luôn tên Lê Văn Lộc làm tên chính thức trên giấy tờ. Một điều đặc biệt nữa như anh cho biết là " ngay cái họ Lê của mình cũng không phải là họ của Ông nội mình!"

" Ông già tôi chịu chơi lắm" Lê Uyên Phương đă nói về cụ thân sinh như vậy (và anh có viết đầy đủ về người bố của mình trong tác phẩm Quê Nội Trong Điệu Ru). Sau này anh biết được một cách mơ hồ là ngày xưa cụ thân sinh anh mang họ Phan, người gốc Quảng Nam. Ông cụ bỏ nhà đi từ khi mới 9 tuổi và không biết song thân mình - tức ông bà nội Lê Uyên Phương - là ai. Một thời gian ông lưu lạc giang hồ về Nha Trang và gặp mẹ anh ở đây, sau đó hai người thành hôn và lên Đà Lạt sống. Khi bố anh gần 60 tuổi, có người từ Quảng Nam vào tìm người thừa kế để kêu bán đất cho chính phủ xây cất phi trường, lúc đó anh mới biết bố anh từ họ Phan đă được ông nội anh đổi thành họ Dương (họ Phan là gốc, ông nội anh đổi thành họ Dương vì lý do cuộc cách mạng Phan Bội Châu, nhiều người mang họ Phan vì sợ nên đổi họ) trong khi đó thì bố anh đă đổi thành họ Lê!

* Nhưng tên Lê Uyên Phương thì sao?

Phương là tên của má tôi, Công Tôn Nữ Phương Nhi (Phương Nhi có nghĩa là người con tên Phương,) từ chữ Phương đó mình lấy làm tên Phương cho mình, Lê là họ của ông già. Còn Uyên là tên người con gái đầu tiên mà mình gặp nên mình ghép lại thành Lê Uyên Phương (người con gái đó anh gặp và để ý nhưng không phải là mối tình đầu của anh). Anh nói thêm là khi phát hiện ra có một giống nữ bên cạnh đời sống của mình, thì người đó có tên là Uyên (anh gặp ở Pleiku, nhưng về sau cô lập gia đình và sinh sống ở Pháp, cô có liên lạc với anh nhân một chuyến anh sang Pháp, nhưng anh không có dịp để gặp lại). Sau này khi mình gặp bà Lê Uyên, hai đứa cùng đi hát, lúc ấy bà ấy chưa có tên và không muốn lấy tên thật. Ngay cái bữa đầu tiên hát đó (tại quán Thằng Bờm, nơi sinh hoạt của Phong Trào Du Ca Việt Nam tại Sài G̣n năm 1970 ) mình cắt cái tên của mình ra. Cho nên khi viết nhạc mình lấy là Lê Uyên Phương, khi trình diễn hai người thành ra Lê Uyên và Phương. Đó là lư do tên mình như vậy !

* Trường hợp gặp gỡ Lê Uyên...

Hồi đó mình ở gần nhà bà Uyên, mình ở số nhà 22, bà Uyên ở nhà 18 (đường Võ Tánh, Đà Lạt). mình gặp bà ấy thì thấy vậy thôi, không có gì hết! Bà ấy học ở trường Franciscain, mình gặp rồi quen biết vậy thôi, chứ không có gì đặc biệt... Từ đó rồi tán tỉnh này nọ. Nói vậy chứ thật ra thực sự mình chưa tán bà ấy bao giờ hết. Nhưng có điều là khi tôi gặp bà ấy tôi chịu liền, bà ấy gặp tôi bà cũng chịu tôi liền. Cái đó là cái đặc biệt, nghĩa là gặp là chịu nhau ngay từ lúc đầu... Chính ra lúc đầu bà ấy chỉ coi tôi như người anh thôi, bả hỏi ý kiến tôi về những người theo đuổi. Hồi đó có tất cả ba người theo. Bà Uyên nhờ tôi chọn một trong ba người thì tôi cũng chọn... Và cuối cùng cái chuyện nó như vậy. Nó phải tới thì nó phải tới thôi!

* Sự đỗ vỡ của đôi "Uyên Ương Trong Lồng"

Lê Uyên Phương lập gia đình với Lâm Phúc Anh (tức Lê Uyên) vào năm 68. Sau 15 năm chung sống, hai người đi đến đổ vỡ vào khoảng 84, 85. Họ có với nhau hai con gái là Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My. Lê Uyên Uyên đă lập gia đình và có một bé gái tên Lê Vĩ Cầm, năm nay 5 tuổi.

Đối với tôi đó là một cái choc lớn. Và đó cũng là một bài học lớn nhất tôi học được từ đời sống. Mà điều tôi học được trong đời sống đó có nghĩa là gì? Là thoát ra khỏi được nó! Một người không thuộc bài, tức là một người mắc hoài trong cái điều mà anh phải đọc hoài cái điều đó để thuộc nó. Nhưng mà tới lúc anh không cần đọc nó nữa, tức là anh đă thuộc nó rồi. Mà khi không cần đọc nó nữa tức là nó đă đi vào một cái trang khác của đời sống. Tức là đối với tôi, khi mà tôi hiểu được cái mối tương quan đó tức là tôi thoát được nó. Và đối với tôi cái chuyện đó là một trong những điều lớn nhất trong đời sống của tôi nếu nói về sự tương quan...

* Cái " choc " đó tới bây giờ còn ảnh hưởng gì không?

Nó không ảnh hưởng xấu. Nó có ảnh hưởng, nhưng là ảnh hưởng tốt. Tức là từ cái bài học đó, tôi biết thêm được nhiều về đời sống và tôi thấy rằng tôi hiểu được nhiều điều hơn về đời sống. Và từ cái chỗ mình hiểu nhiều điều hơn về đời sống tôi thấy tôi thoải mái hơn, tôi thấy tôi hạnh phúc hơn, tôi thấy tôi đi vào với cuộc đời nhẹ nhàng hơn.

* Sau một sự thất bại phải chăng anh học được nhiều bài học?

Anh đă thấy được điều đó rất rõ, và tôi cũng đồng ý với anh điều đó! Là thế này, sau một cái chuyện như vậy thì mình thấy đời sống mình nó dễ hơn một chút. Sau cái sự khó khăn đó, cái khó khăn ghê gớm lắm mà nghĩ rằng không bao giờ vượt qua được mà mình vượt qua được thì không còn cái gì khó khăn nữa hết trên tất cả mọi chuyện khác. Nói về sự tương quan có nghĩa là không phải với người A này có sự tương quan này, mà đối với người B thì tương quan khác, không phải! Đối với tôi, với người A có sự tương quan thế nào thì đối với người B, C, D, G... nó cũng có sự tương quan như vậy thôi. Khi mình thoát ra được một cái bẫy của đời sống thì mình thoát được những cái bẫy khác của đời sống. Và khi mình thoát được một cái gì đó gây nên cái nỗi bất hạnh nào đó trong đời sống của mình, thì mình bắt đầu mình đi vào những hạnh phúc khác của đời sống một cách thoải mái.

* Nếu lại gặp một sự đổ vỡ nào khác nữa, thì sao?

Cái vấn đề là còn tùy! Tôi nghĩ là khó lòng để mà lập lại một thứ nào giống như vậy. Mà nếu như cái việc đó xẩy ra nữa thì nó không còn là một cái choc nữa. Nghĩa là mình đă thoát nó rồi. Ví dụ bây giờ tôi có một người yêu mới, rồi người yêu mới đó bỏ tôi thì chuyện đó không có gì hết, nothing! Tôi thấy là nothing, nó không còn cái gì nữa hết. Bởi vì nó không còn nữa, nó đă thoát ra lần đầu rồi. Đối với tôi không có nghĩa là tôi không yêu người này như yêu người trước, không phải! Khi tôi sống với người yêu bây giờ của tôi, tôi cũng sẽ yêu như thế. Nhưng mà, đồng thời tôi cũng hiểu một điều là không có gì kéo dài lâu. Tôi hiểu ngay từ phút đầu.

* Như vậy là anh đă chấp nhận trước sự tương quan đó sẽ không kéo dài ?

Tôi biết nó như vậy, đó là bài học! Trong một bài hát tôi viết như bài Có Được Cuộc Đời: Có được cuộc đời nắng mưa thay đổi, có được cuộc đời mưa nắng đổi thay... Có được cuộc đời bên em tận tụy, có được cuộc đời tận tụy bên em.. Có được cuộc đời bàng hoàng như chết, có được cuộc đời bỡ ngỡ như quên... Có được cuộc đời nằm chôn trong rác, có được cuộc đời ngồi tiền núi vung... Có được cuộc đời lao đao như bão, có được cuộc đời lặng lẽ như khuya... Có được cuộc đời như em thay đổi, có được cuộc đời thay đổi như em... Có được cuộc đời như tôi thay đổi, có được cuộc đời thay đổi như tôi... Bởi vì bản chất cuộc đời là một sự thay đổi.

* Có phải anh từng đóng vai người chồng, người anh và người bạn trong cuộc sống hôn nhân với Lê Uyên?

Nếu nói như vậy cũng rất đúng, bởi vì trước hết tôi lớn tuổi hơn bà ấy nhiều, tôi hơn bà ấy hơn mười tuổi. Hồi bà ấy gặp tôi bà ấy hết sức là trong trắng, tức là tôi là người hướng dẫn cho bà ấy về mọi măt trong đời sống. Và không có gì mà bà ấy không hỏi ý kiến tôi hết. Bà ấy còn gọi tôi là cha nữa kia mà, nói hơi quá đáng nhưng nó là như vậy. Tức là không có cái điều gì mà bà ấy dám làm mà không có ý kiến của tôi. Mà không có một việc gì ở trong đời, không có quyết định gì mà không có dính tôi trong đó. Tức là bà ấy sống mười mấy năm hoàn toàn là một người rất là " perfect " cho tới khi nó xẩy ra những chuyện như vậy. Nó nhiều lý do để đưa tới truyện đó lắm, nhiều lắm. Nó xẩy ra không phải một cách dễ dàng vậy đâu, nó phức tạp lắm. Nhưng điều mình thấy là những cái nguyên nhân nó không giải thích được cái hiện tượng. Bây giờ nếu như tôi dùng tất cả những cái đó để tôi giải thích cái trường hợp của tôi thì bây giờ một triệu người khác ở trong trường hợp đổ vỡ như vậy thì họ dùng cái lý do gì để họ giải thích? Cho nên những cái lý do đó không có mghĩa lư gì hết. Nó chỉ có cái sự kiện như thế này: đó là chuyện nó đă xẩy ra! cho không phải một mình tôi mà cho rất nhiều người khác và có thể có cả triệu nguyên nhân khác nhau, không nguyên nhân nào giống nguyên nhân nào cả!"

* Sau khi đổ vỡ, tương quan giữa hai người ra sao?

" Vẫn tốt đẹp, không có điều gì hết. Nghĩa là thỏa thuận với nhau ở chỗ là không sống với nhau nữa là xong! Nhưng mọi sự không có gì ghê gớm!"

* Ngoài ra không có sự gì ràng buộc khác nữa?

" Không có gì ràng buộc nào hết! Bà ấy nuôi cháu nhỏ một thời gian, tôi sống với đứa lớn cho tới ngày nó lấy chồng. Bà ấy sống với cháu nhỏ cho tới ngày nó được 11 tuổi thì nó về sống với tôi tới giờ. Sau khi đứa lớn nó về sống với tôi thì tôi nghĩ là đứa nhỏ nó nên sống với mẹ nó một thời gian. Sau khi sống một thời gian rồi thì nó thấy nó cần về với tôi để tôi lo cho nó thì nó về với tôi, vậy thôi!?

* Về việc giải thích với con cái về sự đổ vỡ...

" Con mình nó lớn rồi, nó phải hỏi chứ! Nó hỏi là lỗi ba hay lỗi má vậy? Ai bỏ ai vậy bả Tôi nói lỗi cả hai người. Lý do là cuộc đời nó luôn luôn đưa ra những thử thách mà một người không qua được cái thử thách đó vì không được sự nâng đỡ đúng lúc của người kia, không được sự nâng đỡ cần thiết của người kia. Cuộc đời nó đưa ra một cái "challenge". Nếu người kia không thoát được cái "challenge" đó, bởi vì người này đă không giúp cho người kia thoát được cái challenge đó thì lỗi cả hai người, không có lỗi của riêng người nào hết! Cái challenge đó của đời sống anh phải qua. Cái lỗi là lỗi mình không qua được cái challenge đó. Tự vì khi mình đă chấp nhận sống với nhau là mình đă làm điều gì wrong cho nên cái điều đó sụp đổ. Chứ mình làm đúng thì cái điều đó không sụp đổ. Nếu đứng trên phương diện mà có điều đúng, điều sai trong một sự tương quan thì ai là người sai? Tôi nói không ai là người sai hết! Hoặc là hai người đều sai!. Sai là gì? Là không có sự tiếp sức. Nếu như đă có một người đúng thì người đó cũng không đúng nữa bởi vì họ không tiếp sức đúng. Đă sống với nhau là nâng đỡ lẫn nhau, không nâng đỡ đủ thì rớt!

* Về tình cảm của hai người sau khi đổ vỡ...

Không có ai thân với bà như tôi với bà ấy hết. Bà ấy cũng không coi ai thân trong đời bà ấy như đối với tôi. Không có chuyện gì mà bà Uyên không hỏi tôi hết. Nhưng hai đứa tôi hoàn toàn trong sạch một cách kinh khủng. Như một người bạn, hoàn toàn bạn một trăm phần trăm. Nhưng mà chia sẻ là chia xẻ perfect, trừ một vấn đề là thể xác không chia xẻ. còn mọi thứ tôi đều sẵn sàng chia xẻ với bà ấy hết.

* Về bệnh tật...

Bẩm sinh tôi đă bị rồi, khi sinh ra tôi đă có ngón tay khác thường. Ngón tay nó đă sưng lên chút xíu, nó đă không giống những ngón tay khác. Người ngoài nhìn thấy thì họ đồn tầm bậy, họ nói là tôi bị bệnh ung thư này nọ, sẽ chết sớm này nọ kia. Nhưng thật ra đó chỉ là lời đồn thôi. Từ những bài nhạc tôi viết hồi đó anh thấy không? như bài Cho Lần Cuối, trong đó có câu "giờ này còn gần nhau gần thắm thiết trong mối sầu... ngày mai ta không còn thấy nhau". Đại khái như vậy. Anh Nguyễn Long hồi trước cứ nói với tụi tôi chắc là lời trối trăn rồi chết, nhưng sự thật đâu có phải. Đó là thời kỳ chiến tranh, nhạc trong thời kỳ chiến tranh thì mình viết trong tình trạng của một bối cảnh trong đó người ta sống trong một tình trạng hoàn toàn bất an. Cái sự bất an nó đua tới cái giao động trong đời sống mà mình nghĩ rằng, ok, hôm nay mình có đây, ngày mai mình không có nữa. Đó chỉ là cái phản ứng có tính cách chung chung trong cuộc sống nhưng lại được dùng để giải thích cho cái bệnh của mình!"

(Trong thời gian này những căn bệnh hiểm nghèo của anh đề cập tới ở trên chưa được phát hiện.)

* Có mang mặc cảm khi bị một tật bẩm sinh như vậy?

Không! Hoàn toàn tôi không có mặc cảm gì hết. Trong gia đình tôi lạ lắm, người con trai nào cũng mất hết. Ông cụ bà cụ tôi đẻ bốn người con trai mất cả bốn, chỉ còn tôi người con trai thứ năm là còn sống sót duy nhất! Người anh đầu thì khoảng 15 tuổi là mất, người anh thứ hai khoảng 7, 8 tuổi, còn hai đứa em trai sau thì cũng chưa tới một năm thì mất. còn năm người con gái thì còn đầy đủ hết. Hồi đó ba má tôi, và cả ông thầy bói cũng nói là tôi phải có một cái tật gì đó mới sống được, mà cái đó đúng, nên cái tay tôi bị tật như vậy tôi mới sống được. Ngày xưa nếu mà tôi không có cái tật này chắc tôi cũng đi luôn rồi!

* Về chữa trị và ảnh hưởng của bệnh tật...

Đó là một loại bịnh mà thay vì xương nó biến thành sụn, thay vì sụn nó biến thành xương, phản ứng ngược lại đó làm cho cục bướu to lên như vậy. Sau khi qua đây tôi cắt cục đó đi vào khoảng năm 79, 80. Nhưng tay tôi bị hư 75% rồi, tôi đánh đàn có ba ngón à, xưa nay tôi đánh có ba ngón thôi, nhưng mà ba ngón này nó cũng hư hết 75% rồi !. Bây giờ đánh yếu lắm. Khi chơi đờn, tôi không đờn được như ngày xưa, tôi chỉ đánh có ba ngón nên bị hạn chế nhiều vì vậy tôi phải bỏ không chơi một số nhạc nữa, như violon tôi không chơi nữa... Từ hồi 70 thì hơi yếu, vì cái cục nó to quá nên đánh đờn bị vướng lắm, nhưng khi qua đây cắt thì yếu hẳn đi. Lúc tôi cắt đi họ bỏ vào trong "laboratoire" của UCLA (University of California Los Angeles) và khi hỏi người ta bảo là cả triệu trường hợp mới có một trường hợp như của tôi nên người ta cũng không nghiên cứu nhiều về chuyện này.

* Cái chết đối với anh có quan trọng?

Ngày xưa quan trọng lắm chứ anh! Nhưng bây giờ tôi không biết tôi có đủ chân thành để tôi nói không, hay là có thật sự tôi tin chắc điều đó không. Bây giờ tôi thấy rằng nếu mình sợ mất một cái gì thì mình sợ chết. Tôi thấy bây giờ nếu mà hỏi tôi chết thì điều gì làm tôi hối tiếc? Tôi không thấy được điều đó. Tôi nghĩ là tôi cũng sợ chết, tôi cũng sợ chết như là ngày xưa tôi sợ chết vậy đó. Nếu nói là tôi không sợ chết thì tôi không dám tin là tôi nói thiệt hay tôi nói giả, tôi không biết điều đó. Nhiều khi tôi ngồi tôi tự hỏi tại sao mình sợ chết? Chỉ vì lý do là mình sợ mất cái gì mình đang có. Chính vì mình sợ bị mất cái mình đang có, nên cái chết nó nguy hiểm lắm, nó quan trọng ghê gớm lắm. Hoặc là có nhiều điều mình phải làm mà chưa làm được. mình nghĩ là, ok, nếu bây giờ mình không làm được điều đó thì mình ân hận lắm. Hoặc mình không làm được điều đó thì nhắm mắt không được thì cái đó làm cho mình sợ chết. Cái chết nó cướp đi của mình cái điều đó. Bây giờ tôi nghĩ ràng sự thật tôi đâu cần cái làm cái gì nữa đâu. Tôi thấy tôi không cần làm cái gì thật sự ghê gớm để phải làm, tôi không thấy cái đó! Tôi cũng không thấy cái gì tôi có mà nếu mất đi mà để tôi hối tiếc, không có gì để tôi hối tiếc hết. Tôi nghĩ con tôi bây giờ nó có cái đời sống của nó, người đàn bà hiện giờ sống với tôi, là người vợ tôi thì người ấy vẫn có cái đời sống của họ.

Tôi nghĩ rằng cuộc đời này không có cái gì miên viễn. Cái gì nó cũng có cái lúc của nó. Tuổi trẻ tôi có rồi; khi tôi nghĩ lại thì, ồ, cái tuổi trẻ đó thật là tuyệt vời. Tôi có tình yêu rồi, tôi có tình yêu này, tôi có tình yêu khác. Tôi có một giây phút này, có giây phút khác. Tôi có cái tuổi cắp sách đến trường, tôi có những lúc tôi tìm kiếm những gì trong đời sống. Có những lúc tôi có, những lúc tôi mất. Tôi thấy tôi có hết, mà có những cái tôi thấy enjoy ghê gớm lắm. Nếu bây giờ nói, à, vì cái đó nó là cái gì tuyệt vời lắm nên mình phải tìm lại nó không thì nguy hiểm, thì cái đó thì tôi không stupid để tôi làm. Ok!, đi, đi luôn đi! Nó có đó và nó mất rồi. Bây giờ khi nhìn sự việc như vậy thì tôi đâu có nghĩ là tôi phải mất cái gì đâu, tôi không nghĩ tôi phải sợ cái gì mà mất nó đâu!

* Có hối tiếc điều gì không?

Không! Tôi không hối tiếc gì hết! Bây giờ tôi không nghĩ là đáng lẽ cái điều đó nó phải như thế này thay vì nó như vậy. Không! Không! tôi không nghĩ như vậy! Đối với tôi không có chữ đáng lẽ. Nó phải như vậy, nó là như vậy rồi. Nó có đó, và nó mất đó. Giản dị thôi, không có gì hết. Tôi chỉ thấy có cái điều như thế này: tôi chỉ sợ một ngày nào đó khi tôi mở mắt ra tôi nhìn và tôi thấy không cọ̀n cái gì đẹp hết. Thấy mưa chán bỏ sừ! Thấy nắng chán muốn chết, làm nhạc thấy muốn khùng, muốn điên lên luôn... Tôi sợ cái đó ghê gớm lắm.


Trường Kỳ
 
Chỉnh sửa lần cuối:

co1972nguyen

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Phỏng vấn ca sĩ Lê Uyên về “Bốn mươi năm âm nhạc Lê Uyên Phương”

Lê Uyên Phương là tên của đôi song ca tài danh Lê Uyên và Phương. Nhưng nhạc sĩ Phương không còn nữa. Tháng 11, 2009 này là đúng 40 năm Lê Uyên hát những tình khúc do anh Phương sáng tác và cũng là 10 năm anh Phương vĩnh viễn ra đi.

Ba giờ chiều ngày Chủ nhật 22 tháng 11 này tại Performing Art Center ở thành phố Westminster, cùng một số bạn hữu nghệ sĩ, Lê Uyên sẽ xuất hiện trong chương trình với chủ đề “Bốn mươi năm âm nhạc Lê Uyên Phương”. Nhân dịp này, Lê Uyên đã đến thăm Người Việt và trả lời cuộc phỏng vấn sau đây do biên tập viên Ðinh Quang Anh Thái thực hiện.

-ĐQAThái: Từ bốn thập niên qua, giới yêu nhạc đã nghe và đã yêu tiếng hát của chị và những tình khúc của anh Phương, nhưng hẳn rằng không ai cũng có thể biết được Lê Uyên đã đến với Phương như thế nào, chị có ngại cho nghe về lần đầu gặp gỡ của anh chị?

-Lê Uyên: Mùa Ðông năm 1965, khi Lê Uyên từ Sài Gòn lên Đà Lạt để tiếp tục lớp học của trường Franciscaine, chúng tôi đã gặp nhau và đã yêu nhau ngay giây phút đầu tiên đó.

-ĐQAThái: Ngay giây phút đầu tiên đã yêu nhau rồi?

-Lê Uyên: (cười vui...) Đúng vậy.

-ĐQAThái: Anh Phương đã viết bài tình khúc nào để đánh dấu giây phút đầu gặp chị?

-Lê Uyên: Bài “Tình Khúc Cho Em”, trong đó có hai câu cuối là “Xin cho yêu em nồng nàn, dù biết yêu em tình yêu muộn màng”

-ĐQAThái: Chị vừa nói “dù biết yêu em tình yêu muộn màng?

-Lê Uyên: (cười thoải mái..) Lúc đó anh Phương 26 tuổi, ảnh hơn Lê Uyên 11 tuổi.

-ĐQAThái: Thời đó 26 tuổi, anh Phương gặp chị mà anh đã thốt rằng “tình yêu muộn màng”. ..

-Lê Uyên: Việt Nam mình lúc bấy giờ, tưổi 26 là lớn rồi, chứ thời buổi này ở Mỹ, tuổi ấy mà gặp nhau vẫn là sớm.

-ĐQAThái: Nnhiều người nói rằng văn là người và nhạc cũng là người; chị thấy nhạc của anh Phương có phải là anh Phương không?

-Lê Uyên: Cuộc đời của Phương là âm nhạc, âm nhạc là cuộc đời anh, hai là một.

-ĐQAThái: Nhạc của anh Phương niềm vui có vẻ hơi hiếm, trong khi nỗi đau thì luôn lấp ló đâu đó, phải chăng đó là phản ảnh tâm trạng của anh Phương hay chỉ là một sự cảm nhận của nghệ sĩ thôi?

-Lê Uyên: Nếu nghe kỹ hơn thì chúng ta sẽ thấy trong nhạc của Phương có nói đến sự chia lìa vì căn bệnh ngặt nghèo của Phương nhưng những lời lẽ đó cũng ẩn dấu những hoan lạc rất lớn.

-ĐQAThái: Chị vừa nói đến căn bệnh ngặt nghèo của anh Phương...?

-Lê Uyên: Ðó là những cục bướu xương mọc trên những ngón tay và ngón chân, và thời đó người ta nói anh bị ung thư xương, vì thế có thể anh không sống lâu hơn tuổi 30. Và có lẽ khi có tình yêu với Lê Uyên, anh Phương thấy cuộc đời hạnh phúc cho đến lúc anh nằm xuống.

-ĐQAThái: Gần gũi và chia nhau cuộc đời với anh Phương, có bao giờ chị có cảm nhận nỗi đau và nỗi chia lìa ám ảnh anh Phương?

-Lê Uyên: Nhiều chứ ạ. Ngay trong nhạc của anh Phương, như những câu cuối của bài “Dạ Khúc Cho Tình Nhân” là câu “chết bên nhau thật là hồn nhiên”; tức là trong nhạc của Phương, anh Phương cho thấy rằng anh có sự chấp nhận, chấp nhận trong hạnh phúc. Bởi vì anh Phương bất hạnh vì mang trong người căn bệnh quái ác, anh đau khổ nhưng luôn có Lê Uyên cận kề, nên bên cạnh những ám ảnh to lớn về sự chết chóc thì lại có một tình yêu quá là hạnh phúc, thành ra Phương đã sống trọn vẹn từng giây phút một, cho dù ngày mai có chia lìa.

-ĐQAThái: Có người nói rằng hạnh phúc là ngày hôm qua, có người lại bảo rằng hạnh phúc là ngày mai, với chị thì sao?

-Lê Uyên: Với Lê Uyên và Phương thì lúc nào cũng vậy, hai đứa chúng tôi hạnh phúc từng giây phút một khi được ở bên nhau

-ĐQAThái: Âm nhạc của Lê Uyên Phương đến với mọi người trong bối cảnh Việt Nam năm 1969, chiến tranh lên cao điểm, không biết trong suốt dòng sáng tác của anh Phương có sáng tác nào về chiến tranh không chị?

-Lê Uyên: Phướng không viết bài nào hẳn về chiến tranh nhưng mà không khí trong dòng nhạc của Phương cho chúng ta thấy được những chia lìa của cuộc chiến.

-ĐQAThái: Nhiều trường hợp cho thấy, tác phẩm và đời sống thường của người nghệ sĩ, có khi ngược hẳn nhau, trường hợp anh Phương thì sao, thưa chị?

-Lê Uyên: Anh Phương thật sự sống như những lời ca, những dòng nhạc anh đã viết ra.

-ĐQAThái: Anh Phương đã vĩnh viễn ra đi 10 năm rồi, nhìn lại 40 năm bắt đầu hát cùng với anh Phương, giây phút này, điều gì trong trái tim chị ?

-Lê Uyên: Ngay bây giờ hay trong 10 năm qua, hay trong thời gian trước đó, Lê Uyên luôn có và nhớ hình ảnh của Phương trong đầu, trong giấc ngủ, trong đời sống hàng ngày; bởi vì đời sống của Lê Uyên ngày hôm nay, có được, và được tốt đẹp như thế này hoàn toàn do Phương tạo ra.

-ĐQAThái: Trong tình khúc “Dạ Khúc Cho Tình Nhân”, anh Phương viết, “màn đêm mở huyệt sâu ....”, “...khăn phủ vành xô....”; phải chăng đó là một lời tiên đoán trước cho sự ra đi của anh Phương ở tuổi anh tương đối còn trẻ?

-Lê Uyên: Dạ không. Anh Phương nghĩ sao thì anh viết ra như vậy; cho nên trong nhạc của anh, cảm xúc buồn đau, hanh phục đan lẫn vào nhau. Có đoạn đang vui, đang hạnh phúc, anh lại nghĩ đến chuyện chia lìa, rồi anh lại bật qua chuyện có nhau là hạnh phúc. Trong một bài nhạc anh nói lên tất cả cảm giác của anh ngay lúc đó, không phải là tưởng tượng, anh nghĩ sao thì anh viết ra như vậy.

-ĐQAT: Nhiều người cho rằng tố chất của nghệ sĩ là phản ảnh sự khổ đau của chính mình hoặc của đời sống chung quanh, và nếu nghệ sĩ chỉ viết về nỗi hoan lạc hoặc là hạnh phúc dường như tác phẩm của họ không trụ lại với cuộc đời này lâu bền, chị nghĩ sao?

-Lê Uyên: Với Lê Uyên thì Lê Uyên nghĩ rằng, tác phẩm nào, dù nói lên hạnh phúc hay khổ đau nhưng nếu là hạnh phúc hay khổ đau đó nó có thực của mình hay của những người xung quanh thì nó sẽ ở lại với chúng ta mãi mãi.

-ĐQAThái: Tôi có để ý một câu trong nhạc cảu anh Phương là “hãy ngồi xuống đây, bên con vực này, ngó xuống thương đau”; chị có thể cho nghe cảm tưởng của chị khi mà hát những câu như vậy.

-Lê Uyên: Bài đó được viết trên ngọn đồi của Hồ Than Thở, trong khoảnh khắc đó tụi này rất là hạnh phúc, đang ngồi trên một ngọn đồi, cho nên anh Phương có những ý tưởng đó. Như Lê Uyên nói, cảm xúc của anh Phương cứ thay đổi từng chập như vậy, anh nghĩ sao thì viết ra như vậy. Những đoạn “hãy ngồi xuống đây bên con vực, yêu nhau lần này, cho nhau lần này”, tới lúc anh nhìn xuống ngọn đồi thì anh nghĩ là có thể một ngày nào đó anh có mặt ở vực sâu, nghiã là anh nghĩ gì thì viết ra thành lời và thành nhạc.

-ĐQAThái: Bốn mươi năm Lê Uyên Phương, 10 năm Lê Uyên và Phương gẫy cánh, chị có điều gì muốn tâm sự thêm với độc giả Người Việt?

-Lê Uyên: Lê Uyên không biết nói sao vì nói cám ơn thì nhẹ quá, xin biết ơn quý vị đã thương mến Lê Uyên Phương từ mấy chục năm nay, và ước mong được gặp quý vị ngày 22 tháng 11 này tại Performing Art Center.

-ÐQAThái: Cám ơn chị và chúc chị thành công trong buổi chiều “Bốn mươi năm âm nhạc Lê Uyên Phương”.
Ðinh Quang Anh Thái/Người Việt


Lê Uyên Phương - nhạc sỹ của tình nhân​

(Nguoiduatin.vn) - Những đêm văn nghệ không ngủ xuống đường tại Sài Gòn, bên cạnh những ca khúc Da vàng của Trịnh Công Sơn, sự xuất hiện của cặp song ca tình nhân Lê Uyên và Phương như một hiện tượng.
Với giai điệu nồng nàn, khắc khoải, đôi khi bàng bạc và triết lý, Lê Uyên Phương đã được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt và tôn sùng như một thần tượng với những nhạc phẩm trĩu nặng tình đời, tình người và tình yêu: Dạ khúc cho tình nhân, Tình khúc cho em, Đưa người tuyệt vọng, Không nhìn nhau lần cuối, Vũng lầy của chúng ta...

Những hạnh ngộ đầu đời

Lê Uyên Phương là một trong những nhạc sĩ lớn của âm nhạc Việt Nam trước 1975. Tên thật của ông là Lê Minh Lập, nhưng do giấy tờ bị thất lạc trong chiến tranh, tên của ông đã bị khai nhầm thành Lê Minh Lộc rồi Lê Văn Lộc. Ông giữ tên Lê Văn Lộc từ đó cho tới khi đã bước lên thiên đường. Cha của Lê Uyên Phương vốn họ Phan nhưng vì cuộc cách mạng của Phan Bội Châu nên phải đổi thành họ Lê. Mẹ của Lê Uyên Phương là Công Tôn Nữ Phương Nhi - người đã gieo vào ông niềm say mê âm nhạc, niềm cảm hứng với những cung điệu.

Ông lấy chữ Phương trong tên mẹ và tên Uyên của một người con gái ở vùng cao nguyên rất xanh với dấu ấn của cuộc tình đầu buồn đẫm lệ. Từ đó kỳ lạ thay, mỗi người con gái xuất hiện trong đời anh đều là Uyên của những nhớ nhung, hoài vọng cồn cào trong tâm tưởng. Nghệ danh trong sự nghiệp viết nhạc của Lê Uyên Phương bắt nguồn như thế. Một nghệ danh mà chữ mệnh đã kéo anh lên đỉnh cùng của vinh quang rồi chính nó lại khiến anh xoay vần đau khổ đến thẳm cùng bĩ cực.

nguoiduatin-ANHCHINHUYENVAPHUONG-1.jpg

Lê Uyên vợ của Lê Uyên Phương. Họ là cặp đôi đã tạo sắc thái rất đặc trưng cho nền Tân nhạc miền Nam trước 1975​

Lê Uyên Phương thích viết những bản nhạc đầy ám ảnh, những giòng giòng thương đau. Bên cạnh Trịnh Công Sơn, có lẽ Lê Uyên Phương là người thứ hai coi trọng vấn đề ca từ trong bài hát của mình đến vậy. Anh tỉ mỉ, tinh tế, cân đo đong đếm từng câu, từng chữ và luôn luôn đau đáu tìm những từ mới trong tứ nhạc da diết mà trái ngang của lòng mình. Nhưng Trịnh Công Sơn hơi trừu tượng, hơi xa vắng chừng nào thì ngôn ngữ trong ca khúc của Lê Uyên Phương giàu hình tượng và thực đến chừng ấy.

Đã có một thời người ta cho rằng Lê Uyên Phương là kẻ nổi loạn, vì những hình ảnh ông vẽ ra trong các nhạc phẩm của mình đang trở nên quá nổi tiếng đối với giới trẻ và dường như nó quá trần trụi, đánh đổ cả một nền tảng giá trị luân lý, động chạm đến những cấm kỵ mà bao nhiêu lớp đàn anh không dám nhắc tới. Ở thời kỳ mà tuổi trẻ Việt Nam đang muốn đập vỡ tung bầu không khí ngột ngạt của chiến tranh, của hủ tục, vươn tay ra đón nhận những luồng tư tưởng mới, dòng nhạc của Lê Uyên Phương là một trong những điều mà họ mong đợi nhất. Áo rực rỡ, hoa hòe hoa sói, tóc tai rối bù kiểu hippie, quần ống loe, họ đua nhau ngồi trong quán cà phê, ngồi gục đầu đốt thuốc lá bên những tách cà phê đen khói bay vẩn vơ, nghe từng chữ từng lời phát ra từ những thanh âm dồn dập mang tên Lê Uyên Phương. Hình như tự lúc nào cái tên này trở thành một phần máu thịt trong số tất cả những người như họ.

Đầu những năm 64 - 65 của thế kỷ 20, những người sành nhạc mới biết đến cái tên Lê Uyên Phương và để ý tới những ca khúc tự sự của anh. Đến những năm cuối thập kỷ 60, cặp song ca Lê Uyên Phương trở thành một giá trị bảo đảm cho chiến thắng của mọi buổi văn nghệ có tính tiền bán vé.

Cho đến những năm đầu của thập kỷ 70, Việt Nam bước vào giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh. Trong đạn bom và máu lửa, phong trào phản chiến của học sinh, sinh viên diễn ra ngày càng rầm rộ. Từ thành phố cao nguyên Đà Lạt đến với Sài Gòn hoa lệ và đau thương, nhạc sĩ Lê Uyên Phương đã mang sinh khí mới và thổi một luồng gió mới cho Tân nhạc miền Nam qua các bài hát song ca cùng người vợ trẻ Lê Uyên.

nguoiduatin-ANHSAPONhcsLUynPhng-1.jpg

Nhạc sĩ Lê Uyên Phương​

Ăm ắp say mê, ngút ngàn dâng hiến

“Màn đêm mở huyệt sâu/ Mộng đầu xin dài lâu/ Một vì sao lạ rơi, nghe hồn tê tái trên dòng hương khói bay/ Ái ân ơi xin đừng phụ lòng ta/ Nhớ thương sâu xin gửi người xa/ Khóc thương nhau trong cuộc đời. Giấc mơ xưa khăn phủ vành sô/ Có yêu nhau ngọt ngào tìm nhau/ Chết bên nhau thật là hồn nhiên…”. Những ca khúc của Lê Uyên Phương như gắn liền với những tao ngộ trong đời của biết bao những người khác, của những ngày sống và lớn lên, của những chiêm bao trăn trở, của những nụ cười và giọt nước mắt. Và những vết sẹo dài theo năm tháng ấy đã theo mỗi trái tim yêu nhạc đến tận giờ để chỉ cần một điệu nhạc lướt qua cũng đủ khiến họ sống dậy một thiên tai âm ỉ mà buốt nhói cuộc đời.

Ca từ trong các sáng tác của Lê Uyên Phương không đi sâu vào những chiêm nghiệm hay triết lý về tình yêu, thân phận của con người. Càng không "dính dáng" gì đến chính trị, lo toan hay mong ước cho vận mệnh của đất nước trong thời chiến. Đơn giản, nó chỉ nói về tình yêu. Cái tình yêu dành cho tình - nhân ấy: Lãng mạn, cuồng đam mê nhưng vẫn đầy lo âu. Và thậm chí, trong nhiều ca khúc, nó còn có vẻ... trần tục nữa.

Bài hát đầu tiên đưa tên tuổi của cặp song ca lên tột đỉnh thành công, có lẽ là Vũng lầy của chúng ta. Ca khúc trái ngược với tên gọi bởi nó ăm ắp say mê, ngút ngàn sự dâng hiến. Từ tiết tấu đến ý tưởng, từ cách chuyển đổi đến lối gieo âm vận. Mà lạ nhất, vẫn là cách Lê Uyên Phương ghép mình lại với nhau và hát. Nếu tách rời từng người ra, chắc mỗi người họ sẽ không có gì đặc biệt. Một người gục trên cần đàn, mắt mở vô hồn, tay khua gấp gáp trên mấy giây đàn phừng phừng, cất giọng khàn khàn khô khốc mà gào thét. Một người, tay vung loạn bản, mắt nhắm mắt mở, đầu lắc lư, cứ như đang bị quỷ ám. Âý thế mà khi hòa vào với nhau, chỉ cần nghe họ hát, người ta sẽ nhớ đời vĩnh viễn.

Những bản nhạc tình như báo mộng ấy: Vũng lầy của chúng ta, Đưa người tuyệt vọng, Không nhìn nhau lần cuối, Hãy ngồi xuống đâysau này được coi như những lời tiên tri vận vào đời Lê Uyên Phương tài hoa mà bất hạnh. 27 tuổi, Lê Uyên Phương vẫn không dám yêu và lập gia đình với ai. Bởi ông đã mắc phải một căn bệnh kì lạ: Ngón tay và nhiều nơi trên thân thể ông xuất hiện những khối u. Bác sĩ chuẩn đoán ông bị ung thư xương và chẳng còn sống bao lâu nữa. Còn Lê Uyên thì bị gia đình ngăn cấm tuyệt đối mối quan hệ không môn đăng hộ đối và dường như, không có... ngày mai ấy. Nhưng họ đã thật sự cảm thấy mình không thể sống thiếu nhau và quyết định cùng nhau... trốn chạy. Đó là những ngày lang thang mòn mỏi trên những con phố đồi dốc ở Đà Lạt... Là những tháng chơ vơ hẹn hò ở sân ga Sà Gòn, mỗi ngày chỉ có mẩu bánh mì queo quắt...Rồi họ kết hôn vào năm 1968 và chia tay nhau sau 15 năm chung sống. Năm 1999, Lê Uyên Phương mất sau một thời gian dài bạo bệnh, thọ 59 tuổi.

Hơn 10 năm trôi qua Lê Uyên Phương đã không còn nữa nhưng tình khúc của ông đã trở thành những viên ngọc quý. Với giai điệu đầy luyến tiếc, người ta thấy trong Lê Uyên Phương một tấm lòng bao dung và một sự chắt chiu cho âm nhạc.

Đơn giản, ông là nhạc sĩ của... tình nhân

Lê Uyên Phương sáng tác rất nhiều tình khúc mà lại là đớn đau, sầu khổ, nặng nề đến tê dại. Người ta từng gọi ông là nhạc sĩ của tình nhân, vì trong mọi sáng tác của ông, tình yêu đôi lứa trở đi trở lại khắc khoải và mãi mãi được ví von như nguồn cơn của mọi bất hạnh đời sống sau này của ông. Âm nhạc của ông không phải viết về cái thuở tình học trò bồng bột, ngây thơ. Cũng không phải ca ngợi cho tình yêu vợ chồng nồng nàn, chung thuỷ. Càng không là những lời thở than cho cuộc tình đã chia lìa, tan vỡ. Đơn giản là, các bài hát ấy chỉ dành cho... tình nhân.

Hương Giang (thực hiện)
 
Chỉnh sửa lần cuối:

co1972nguyen

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Quang Lê​

Sống tử tế sẽ được bền lâu

TP - Gặp Quang Lê vội vã ở Hà Nội khi anh đang chạy show, vẻ ngoài giản dị, cách nói chuyện lém lỉnh, thông minh của anh chàng khiến người đối diện có cảm giác như đang gặp lại người bạn cũ. Đó là điều không phải nghệ sỹ nào cũng làm được.

ImageHandler.ashx

ImageHandler.ashx

Tranh của Nguyễn Xuân Hoàng.​

Chuyện của người tử tế

Câu chuyện đầu tiên chúng tôi nói với nhau là sự tử tế của những người làm nghệ thuật. Lý do mà tôi đặt ra vấn đề này là thời gian qua có quá nhiều câu chuyện không hay đổ ập lên chiếc áo showbiz.

Quang Lê bảo, anh là người sống có trước có sau, biết kính trên nhường dưới. Là một người Huế, gia đình đã tạo cho anh một nền tảng giáo dục tốt với những lễ nghi ứng xử bài bản.

Mặc dù đã sang Mỹ định cư từ nhỏ, nhưng nếp văn hóa của người Huế vẫn thấm đẫm gia đình anh. Chàng ca sĩ của “Đôi mắt người xưa” luôn thể hiện sự kính trọng với những bậc đàn anh, đàn chị trong nghề. Bao giờ đi diễn cùng hoặc gặp gỡ, anh cũng chào hỏi đàng hoàng.

Quang Lê than thở, những ca sĩ trẻ, mới nổi bây giờ nhiều khi cho mình một vị trí cao, không coi trọng đồng nghiệp và đặc biệt là những cô chú lớn tuổi trong nghề.

Có một lần, khi mới nổi tiếng, đi diễn, anh gặp “Nhạn trắng Gò Công” Phương Dung, anh cúi đầu chào và hỏi thăm. Phương Dung ngạc nhiên lắm vì Lê còn trẻ, nổi tiếng mà biết chị và lễ phép như vậy.

Một điều Quang Lê nhận ra, với nghệ thuật, không phải ai cũng có thể đứng trên sân khấu đến tuổi 60, 70. Vì thế, việc các nghệ sỹ lớn tuổi vẫn còn được đứng trên sân khấu và nhận được sự cổ vũ của khán giả là rất đáng trân trọng.

Cũng nói về sự tử tế, Quang Lê cho biết, anh là người luôn biết ơn những nhạc sĩ lớn tuổi, tác giả của những tình khúc vượt thời gian. Bởi theo Quang Lê, có những nhạc sĩ như vậy mới có những thành công của anh ngày hôm nay.

Những ca khúc tạo nên tên tuổi của ca sĩ, nhưng lại rất ít người biết tác giả của nó. Đó là một thiệt thòi lớn cho cha đẻ của các ca khúc.

Quang Lê nói, với những nhạc sĩ, anh luôn quan tâm đến đời sống của họ. Và có một sự thật anh ngạc nhiên đến xót xa là, có rất nhiều nhạc sỹ đang sống trong vất vả, bệnh tật và nỗi cô đơn. Họ là những người đi bên lề của đời sống showbiz ồn ã.

Ngày nhạc sĩ Thanh Sơn còn sống, Quang Lê hay gửi tiền về cho ông. Số tiền không quá lớn nhưng hẳn sự quan tâm của Quang Lê cũng khiến nhạc sĩ của dòng nhạc tình quê hương này ấm lòng.

Với những nhạc sĩ khác, Lê thường gửi tiền hoặc chuyển tiền qua trung tâm nhờ gửi tới các nhạc sĩ. Dù bận rộn, anh chàng cũng dành nhiều thời gian để tới thăm hỏi họ.

Luôn hướng về quê hương

Trở về nước lần đầu tiên vào năm ngoái, hiện, lịch diễn của Quang Lê tại quê nhà dày đặc. Giọng hát ngọt ngào của anh có một sức hấp dẫn kỳ lạ với công chúng. Quang Lê cũng đã cho ra mắt sản phẩm đầu tay tại quê nhà.

Album bán chạy, tạo được hiệu ứng tốt. Hỏi anh, việc ra album tại Việt Nam có phải là một trong những phép đo sự yêu mến của công chúng không? Quang Lê bảo, đây là tâm nguyện từ lâu của anh.

Dù phát hành trong nước nhưng sản phẩm được thu và làm hậu kỳ tại Mỹ. Quang Lê vẫn giữ cho mình một hình ảnh cũ. Theo anh, chất nhạc ấy, giọng hát ấy đã quá thân quen và được yêu mến. Và vì thế, anh không muốn thay đổi.

Cũng trong hành trình trở về nước biểu diễn, Quang Lê bắt thân ngay với Lệ Quyên. Hai người đã có những hợp tác ban đầu, góp giọng trong album của nhau. Và tất nhiên, dành cho nhau rất nhiều khen ngợi về giọng hát. Quang Lê hứa sẽ còn hợp tác nữa với Lệ Quyên, giọng hát rất quyến rũ anh.

Nhớ về thời điểm lần đầu được đứng trên sân khấu quê nhà, Quang Lê bảo đến giờ anh vẫn còn xúc động. Sau bao năm xa cách, được dang rộng vòng tay đón về với sự yêu mến, Quang Lê thấy mình thật may mắn.

Anh nhớ như in cái lúc anh cất tiếng hát trong liveshow đầu tiên của mình ở Hà Nội, tiếng vỗ tay rần rần, anh gần như không ngăn nổi cảm xúc.

Bao nhiêu lâu, chỉ được tiếp với fan ở quê nhà bằng thư từ, sự cảm nhận không thật rõ ràng, thì bây giờ, thứ cảm xúc ấy với Quang Lê gần như cầm nắm được.

Quang Lê bảo, những lần sau này khi về hát, anh không còn có được cái cảm xúc như lần đầu tiên đáng nhớ ấy.

Tuy nhiên, anh vẫn giữ cho mình sự nồng nàn, sự hết mình với khán giả. Quang Lê muốn khán giả nhớ tới giọng hát của mình trên sân khấu và vì thế, anh phải nỗ lực hết mình.

Có rất nhiều dự định, rất nhiều giấc mơ ở Việt Nam chưa thực hiện được. Quang Lê vẫn nhắc đi nhắc lại show diễn ở Huế, nơi mình sinh ra. Khát vọng của Lê là đứng hát trên quê hương mình, cho những bà mẹ Việt vẫn ngày đêm dõi theo bước đường của anh, dành cho anh tình yêu như những người ruột thịt trong nhà.

Lê bảo, anh nợ những khán giả đồng hương của mình và chắc chắn, anh sẽ trả món nợ ấy. Nhưng, những show diễn như thế này, Lê phải là người trực tiếp làm, thận trọng.

Hơn nữa, Quang Lê vẫn cần kinh tế và phải chăm chỉ kiếm tiền để thực hiện những dự định lớn của mình.

Trên thực tế, Lê vẫn là một cái tên được các bầu sô săn đón. Lần trở về này, ngoài việc hát tại liveshow cuối cùng của Chế Linh, Quang Lê cũng nhận lời hát trong show diễn tri ân nhạc sỹ Vinh Sử.

Anh sẽ hát rất nhiều ca khúc của Vinh Sử trong chương trình này, những ca khúc quen thuộc và một phần làm nên tên tuổi Quang Lê. Quang Lê cho hay, anh thực sự xúc động khi biết được hoàn cảnh hiện tại của “vua nhạc sến”.

Người đang băng mình qua bạo bệnh với một cuộc sống cực khổ. Lê sẵn sàng trích tiền hát để gửi tặng nhạc sỹ. Đồng thời, anh đã lên kế hoạch tới thăm nhà nhạc sỹ và ghi lại những tư liệu về cuộc sống của ông.

Quang Lê hiện đã chia lịch hoạt động nghệ thuật tại Mỹ và Việt Nam. Có những tháng, anh quyết định từ chối tất cả các show diễn ở Mỹ để về nước.

Anh bảo không sợ khán giả ở Mỹ chán mình, hết yêu mình khi từ chối họ như vậy.

Với Quang Lê, khán giả ở đâu cũng quan trọng và vì thế, anh phải chia đều sự quan tâm của mình. Không gặp Quang Lê nhiều, chia sự quan tâm sẽ làm cho khán giả yêu mến, nhớ thương mình hơn.

Choáng vì Showbiz Việt

Gần đây, trở về nước, Quang Lê thấy showbiz Việt thật hỗn loạn với những scandal liên tiếp xảy ra. Quang Lê ngây ngô hỏi, đó là scandal thật hay do nghệ sỹ cố tình tạo ra để hâm nóng tên tuổi.

Và rồi anh tự trả lời, dù là như thế nào thì đó cũng không phải cách anh lựa chọn. Bởi vì, những scandal chỉ làm hình ảnh người nghệ sỹ xấu đi trong mắt công chúng. Không có nghệ sỹ nào nổi tiếng bằng scandal lại có thể tồn tại lâu.

“Có scandal nào tồn tại 60 năm không anh?” – Quang Lê phân vân. Trong khi đó, anh lấy ví dụ rất nhiều nghệ sỹ bước qua cái tuổi ấy vẫn đứng trên sân khấu và cống hiến. Như vậy, chỉ có tài năng mới có thể tồn tại lâu bền được.

Quang Lê bảo, anh thấy sợ những gì đang diễn ra với showbiz Việt, những câu chuyện tầm phào, phi đạo đức. Với Lê, một người làm nghề chính đáng, không nên có cho mình bất kỳ một điều tiếng đáng tiếc nào.

Nhưng, như để không mất lòng đồng nghiệp trong nước, anh cho rằng, mỗi người có một lựa chọn riêng cho con đường của mình. Và khi đã lựa chọn rồi thì không ân hận hay hối tiếc.

Nhưng Lê cũng thông tin rằng, ở nước ngoài, nghệ sỹ Việt không làm được scandal như ở trong nước. Báo chí của cộng đồng người Việt ở nước ngoài dành ít sự quan tâm cho nghệ sỹ hơn ở trong nước.

Nghệ sỹ không có một diễn đàn rộng lớn để tâm sự hay thể hiện cá tính của mình, đó cũng là thiệt thòi. Nhưng, ngẫm ra, nghệ sỹ trong nước được chiều quá nên hư, dùng chiêu để đánh bóng tên tuổi.

Sợ mất fan nữ

Quang Lê vẫn úp mở chuyện riêng của mình. Anh sợ mất fan nữ. Thêm vào đó, Quang Lê không muốn những câu chuyện tình cảm ảnh hưởng đến sự nghiệp và sự mến mộ của công chúng.

Lưu Đức Hoa và rất nhiều nghệ sỹ khác đã giấu nhẹm đời sống riêng tư của mình, và Quang Lê cũng muốn như vậy. Anh từng úp mở chuyện với nữ ca sĩ Mai Thiên Vân, nhưng, tất cả những chuyện ấy, Quang Lê bảo đó chỉ là chuyện trên sân khấu.

Ngoài đời, anh có một đời sống khác. Và có thể đang hạnh phúc với một tình yêu nào đó. Nhưng chuyện ấy là bí mật.

Nói lại việc giữ hình ảnh, ngay cả việc gầy hay mập cũng là câu chuyện đáng nói ở Lê. Anh chàng này không cho phép mình xấu trước mắt công chúng.

Gần đây, anh mập hơn, bản thân khi soi gương cũng tự xấu hổ với bản thân. Với Quang Lê, chỉ cần một lời chê của khán giả là cũng có thể khiến anh suy nghĩ và tìm cách thay đổi. Việc giữ hình ảnh trước công chúng cũng là cách tôn trọng khán giả và giữ nghề.

Nhiều người than phiền, chê Lê hơi mập nhưng giọng hát thì vẫn hay như cũ khiến anh chàng tự nới lỏng cho mình một chút. Nhưng giờ thì Lê đang ăn kiêng, sắp tới, anh phải quay MV cho một dự án của mình.

Vì thế, anh không cho phép mình xấu. Đã có lần vì bị mắng nếu mập là không được quay hình, anh chàng lập tức giảm béo, trong vòng 1 năm, tích cực tập luyện Quang Lê đã giảm được 20 kilogam. Điều này khiến khi gặp lại, MC Kỳ Duyên thực sự ngạc nhiên và không nhận ra anh.

Chỉ muốn khán giả thấy mình cười

Hỏi Lê, bản thân anh thấy mình hấp dẫn ở điểm nào? Lê cười bảo, Lê chẳng thấy mình hấp dẫn ở điểm nào ngoài giọng hát. Rất nhiều cô gái mê anh cũng chỉ vì nghe hát mà thôi. Quang Lê cũng thú nhận, anh là người khá đa cảm, những lúc buồn, anh chỉ thích ngồi một mình, hoặc một mình lái xe trên phố.

Ngày xưa, Lê hay bỏ tiền để mua sắm đồ hiệu mỗi khi buồn. Giờ anh không làm như thế nữa, bởi lẽ, tiêu tiền không phải là cách để nỗi buồn vơi đi. Đó là lý do khiến Lê chưa muốn về Việt Nam để sinh sống, định cư.

Anh bảo, bên Mỹ, anh có những không gian riêng tư cho mình, để khỏa lấp nỗi buồn, còn ở Việt Nam, chỗ nào cũng thấy còi xe, nhộn nhịp. Lê cũng bảo, anh là người rất ít chia sẻ nỗi niềm với người khác.

Khi đứng trước khán giả, trước người thân, anh chỉ muốn họ thấy mình cười. Tại sao phải mang nỗi buồn đến cho người khác. Lê cười, phận của mình sinh là là nghệ sỹ, phải là người mang đến niềm vui, sự sẻ chia cùng khán giả. Con đường ấy mới thực sự đem đến hạnh phúc và ánh hào quang.

Chuyết Nhi
 
Chỉnh sửa lần cuối:

co1972nguyen

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Chế Linh​
ImageHandler.ashx

ImageHandler.ashx

Chế Linh hát cùng các con.​

‘Cám ơn những người đàn bà đi qua đời tôi’

Bằng chất giọng rất ấm và phong thái cởi mở, thân thiết như thể quen biết từ lâu, giọng ca vàng dòng nhạc bolero chia sẻ về cuộc đời, sự nghiệp âm nhạc cũng như liveshow sắp tới trong bài phỏng vấn đầu tiên khi trở về VN.

- Cảm giác của ông khi về nước?
- Khi máy bay vừa hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất (TP HCM), tôi cảm thấy vô cùng vui vẻ và thoải mái. Một trận mưa mang đến sự mát mẻ cho toàn thành phố, như gội sạch mọi nỗi muộn phiền. Ra khỏi cửa sân bay, rất nhiều bà con dù không quen biết chạy đến xin chụp hình lưu niệm với tôi - những khán giả chưa bao giờ gặp nhưng đã dành cho Chế Linh quá nhiều tình cảm. Tôi cho rằng, không có món quà nào lớn hơn như thế đối với một người con xa xứ trở về nhà.

- Hơn 50 năm theo đuổi con đường ca hát, liveshow ở Việt Nam lần này có ý nghĩa gì trong sự nghiệp của ông?

- Sau hơn 30 năm thăng trầm ở hải ngoại được trở về hát trên quê hương - tôi phải cảm ơn sự yêu mến của khán giả. Nhiều người nghĩ không còn được gặp hình hài này bằng xương bằng thịt, nhưng cuối cùng thì đã thỏa lòng ao ước. Đây là hạnh phúc chung cho cả Chế Linh và người hâm mộ. Liveshow “Chế Linh - 30 năm tái ngộ” là điều rất quý báu trong cuộc đời tôi. Nó là món quà tri ân với những ai đã dành sự ưu ái cho Chế Linh. Có những gia đình, cha mẹ thường xuyên mở nhạc Chế Linh, khiến con cái cũng "nhiễm" Chế Linh lúc nào không hay (cười).

- Sau 30 năm ở trời Tây, giọng hát của ông có gì thay đổi với khi còn ở Việt Nam?

- Giọng hát là sự truyền tải của tâm hồn. Tâm hồn tôi thì vẫn thế, vẫn là sự hòa trộn do tổ tiên Việt và Chăm tạo thành. Người Chăm ít lắm, tôi muốn trở thành một nghệ sĩ để qua lời ca tiếng hát của mình, có thể làm cho mọi người hiểu hơn, yêu hơn dân tộc Chăm. Những ngày đầu đi hát, tôi lo lắng sẽ bị kỳ thị, bị khó khăn về ngôn ngữ và cách phát âm, sợ con đường mình đi sẽ không tới đích. Cuối cùng, tôi mới biết hóa ra bấy lâu nay mình chỉ lo hão. Những đàn anh, đàn chị không chỉ giúp đỡ tôi về nghề nghiêp mà còn nhắc nhở tôi hãnh diện mình là người Chăm.

Hồi ở Việt Nam, tôi rất lơ là trong vấn đề phổ biến âm nhạc của dân tộc, nhưng khi ra nước ngoài, tôi vừa đi hát bằng nhạc Việt, vừa hát bằng nhạc Chăm. Mới đầu cũng sợ khán giả phản đối nhưng họ đã nghe rất say sưa, dù không hiểu chút gì về tiếng Chăm. Tôi cảm thấy hãnh diện vì mình đã góp phần bảo vệ và gìn giữ văn hóa Chăm. Hai văn hóa Việt - Chăm tôi đều phải gánh như nhau. Có điều đến tuổi này rồi, cho phép tôi gánh văn hóa Chăm nặng hơn một chút (cười).

- Dòng nhạc ông theo đuổi được gọi là nhạc sến và đang bị nhiều dòng nhạc mới mẻ khác cạnh tranh chỗ đứng. Ông băn khoăn thế nào về điều này?

- Mỗi người khi chọn con đường đi cho mình đều phải cân nhắc, suy nghĩ rất kỹ. Mỗi dòng nhạc đều phục vụ một nhóm khán giả riêng. Tôi cho rằng chỉ có hai dòng nhạc: nhạc phổ thông và nhạc thính phòng. Nhạc bolero rất gần gũi bình dân. Tôi không hiểu từ đâu người ta gọi nó là nhạc "sến". Nhiều người tức giận khi bị gọi là ca sĩ hát nhạc sến nhưng tôi lại rất hãnh diện. Nửa thế kỷ qua, khán giả vẫn thích nghe tôi hát - đó là một thành công không thể phủ nhận.

Trong một vườn hoa, trăm bông đua nở. Không phải hoa hồng, hoa lan mới là hoa quý. Có những người lại thích hoa dại đó thôi. Không chỉ âm nhạc mà văn học, hội họa, điện ảnh… cũng phân ra thành nhiều thể loại và chính điều đó làm nên sức hấp dẫn cho nghệ thuật. Chúng ta không nên vì thích dòng nhạc này mà khó chịu với dòng nhạc khác.

- Ngoài đi hát, ông còn là người viết nhạc. Chế Linh ca sĩ và Tú Nhi nhạc sĩ có những điểm khác biệt nào?

- Tôi may mắn được học nhạc nên có cơ hội vừa hát vừa sáng tác - thuận lợi hơn trong việc phổ biến nghệ thuật. Tôi viết bài hát từ tâm tư của mình, của bạn hữu và xã hội. Như thế, Chế Linh có thể trải lòng ra để khán giả đo được lòng mình. Tôi vẫn cho rằng, người nghệ sĩ sáng tác bài hát đã khó, người ca sĩ còn khó hơn vì họ là người truyền tải tác phẩm. Họ phải nhập tâm vào bài hát, diễn đạt tốt những tâm tư mà tác giả gửi gắm trong đó.

Tôi sáng tác khá nhiều ca khúc trong đó có những bài tôi tâm đắc và được khán giả yêu mến như: Bài ca kỷ niệm, Đoạn cuối tình yêu, Mai lỡ mình xa nhau… Có nhiều người khi nghe đã thắc mắc, chắc tôi đi qua nhiều cuộc tình và bị phụ bạc nhiều lắm nên mới viết như thế. Không ít khán giả gửi thư san sẻ nỗi buồn với tôi nhưng sau khi nghe tôi giải thích, họ tìm ra ý nghĩa mới của bài hát. Đó chính là sức sống mãnh liệt mà những người khi trải qua đau khổ, bị tình phụ, bạn bè bỏ rơi lúc cơ hàn… tìm được cách để đứng lên. Giống như “dĩ độc trị độc” vậy.

Ngoài đời, tôi không hề yếu đuối như những gì người ta hình dung về Chế Linh trên sân khấu. Tôi chưa bao giờ gặp bi kịch như trong những bài hát. Tôi sống cuộc sống không có nhiều sóng gió, rất mãn nguyện và bình an, luôn biết đặt vấn đề sức khỏe và tinh thần lên hàng đầu.

- Đi qua bốn cuộc hôn nhân, tại sao ông lại nói mình không hề đau khổ vì tình?

- Hai người vợ trước không cùng tôi kéo dài hạnh phúc, nhung chúng tôi vẫn tôn trọng nhau. Họ giúp tôi giải quyết nhiều vấn đề, nuôi các con khi tôi ở xa. Người vợ thứ ba không may mất sớm.

Tôi sống bên cạnh người vợ thứ tư - Vương Nga - tới nay đã được 36 năm. Nga là người hỗ trợ tinh thần cho tôi về mọi mặt và cũng là người động viên tôi về nước để làm liveshow cống hiến cho khán giả. Nga còn lên mạng xem khán giả trong nước đang thích nghe những bài nào, viết ra một danh sách và đặt trên mặt bàn cho tôi tập. Làm vợ một nghệ sĩ, cô ấy hiểu những khó khăn của tôi. Ngay từ khi lấy tôi, cô ấy đã ý thức được rằng, chồng mình không chỉ là của riêng mình, anh ta còn là của công chúng. Chính vì thế, chúng tôi không ai bị buồn phiền vì ai hết.

Từ trước đến giờ, có rất nhiều tin đồn về cuộc đời Chế Linh nhưng tôi không bao giờ biện minh vì tôi biết, mình là người của quần chúng. Họ đi mua đĩa, đi xem những đêm nhạc của mình, nuôi sống mình mà không đòi hỏi điều gì. Mình nợ khán giả quá nhiều nên họ cũng có quyền quan tâm đến đời tư của mình. Một lần nữa, tôi khẳng định, tôi vô cùng hạnh phúc và cảm ơn những người đàn bà đã đi qua cuộc đời tôi.

- Vậy còn những người con của ông, nhiều người theo nghiệp cha nhưng chưa ai có được thành công đáng kể. Ông định hỗ trợ họ thế nào?

- Cám ơn trời đã cho tôi những đứa con rất tốt. Chúng chính là nguồn năng lượng của tôi. Tôi có 14 người con, trong đó có 7 nam và 7 nữ. 7 người con trai đều theo nghề bố, sáng tác và hát dù chưa nổi tiếng nhưng cũng khiến tôi tự hào. Người con đầu của tôi và Nga đã tốt nghiệp kỹ sư tại Canada, nhưng chỉ thích nghiên cứu, hát các loại nhạc đạo và thiền. Người con trai út tên là Chế Đăng Quang đang học nhạc viện tại Canada nhưng lại nghiên cứu và hát nhạc Việt. Tôi mong ước các con tôi sẽ làm những điều tốt nhất cho bản thân và cho cuộc đời.

Ngọc Trần thực hiện
 

co1972nguyen

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Chế Linh: Trở về chỉ lời, không lỗ

Ở tuổi 69, ông bồi hồi hát lại những bài ca xưa, nỗi xúc động dâng lên nghẹn ngào khiến ông đôi khi quên lời hát nhưng khán giả vẫn thứ tha bằng những tràng pháo tay dài.

Muốn khóc mà không phải khóc

Cảm xúc của ông sau đêm diễn đầu tiên?

Tôi rất vui và cảm động vì thấy bà con dành cho mình sự ưu ái quá đặc biệt. Đây là niềm hạnh phúc khiến tôi sững sờ.

Kỷ niệm nào đọng lại sâu sắc với ông?

Khi nghe bạn bè gọi điện nói rằng, nhìn thấy trên báo sự đón chào của bà con, tôi hạnh phúc quá, dù cho đến giờ phút này tôi chưa có trong tay tờ báo nào. Mọi sự đến với tôi quá tốt đẹp. Còn nhiều bài hát tôi chưa phục vụ được bà con thì tôi xin hứa sẽ “trả nợ” vào lần sau.

Ở tuổi 69, ông vẫn giữ được giọng ca ngọt ngào, ông có thể chia sẻ bí quyết?

Tôi phải tập, lúc nào cũng phải nhắc nhở mình, dặn mình phải hát để phục vụ khán giả, không được lơ là trong công việc. Bí quyết chỉ là tập và tập mà thôi, để khi nào được mời là hát. Thêm điều này nữa, khán giả đã cho tôi sức mạnh, đã hun đúc cho tôi sức khoẻ, cũng như giọng hát. Nên tôi luôn cố gắng hết sức mình để tri ân.

Bây giờ ông hát những bản tình ca vốn được coi là não nề với tâm trạng khác xưa như thế nào? Liệu trái tim ông có còn đủ trẻ để sầu não với tình không?

Ở tuổi này, tôi không muốn hát những bài ca như vậy, nhưng nếu tôi không hát những bài ca của thời trai trẻ thì tôi sẽ làm phiền những người yêu mến mình. Tôi không muốn người hâm mộ gặp Chế Linh vẫn với giọng ca ấy nhưng ở phong cách khác.

Khi hát lại những bài hát đó ông có nuối tiếc thời tuổi trẻ không?

Khi tôi hát lại những bài hát này tôi thấy mình trẻ lại, khán giả đã cho tôi sức trẻ, bắt tôi trở lại ngày xưa. Tôi nuối tiếc khoảng thời gian xa xưa đó. Quá khứ ai cũng tiếc nuối nhưng không thể nắm được thời gian. Nếu tôi được trẻ lại tôi sẽ làm được nhiều điều khác nữa.

Nếu ông đang trẻ biết đâu ông sẽ thành công với dòng nhạc vui?

Cũng thế thôi. Tôi không thể khiến tôi đi xa hơn khán giả của tôi.

Đêm diễn đầu tiên ông đã quên lời. Tuy nhiên ông đã “chữa” rất giỏi?

(Cười) Có khi xúc động quá, có khi những lời yêu cầu, những cái đưa tay của khán giả ở phía dưới, khiến tôi nhìn xuống tự nhiên khựng lại. Không hẳn quên bài, mà hồn lắng xuống, ứa lại, nghẹn lại, muốn khóc mà không thể khóc. Đây không phải lỗi lầm, không phải sự xúc phạm khán giả đâu. Đêm diễn ngày 21-10 đúng là một đêm ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi không kiềm chế nổi mình, không biết làm sao để hát ra lời nữa.

Sẵn sàng cho một ngày về thật sự

Khán giả trong nước hiện tại đang được “đãi” no nê nhạc hải ngoại. Nhưng Chế Linh trở về vẫn được nhiệt tình chào đón. Ông có thấy mình may mắn không?

Chủ trương của nhà nước là một trong những may mắn để cho tôi còn có được khán giả. Nếu nhà nước không cho phép lưu hành lại những bài hát này thì chắc tên tuổi của tôi đã mai một rồi.

Sao ông không trở về sớm hơn, lại đợi chẵn 30 năm mới làm việc đó?

Tôi cũng mong mỏi như thế nhưng có điều chưa thuận lợi, chưa có điều kiện như hôm nay. Hôm nay điều kiện dễ dàng hơn, cảm thông nhau được nhiều lắm, được trở về đường đường chính chính để phục vụ bà con với những bài hát tôi đã hát ngày xưa. Nếu trở về từ trước chắc chắn chưa có nhiều ý nghĩa như ngày hôm nay. Tình cảm hôm nay đầy đặn lắm.

Ở nước ngoài, ông còn biểu diễn cho Việt kiều nữa không?

À có, vào dịp cuối tuần đôi khi thứ 6, thứ 7, có khi chỉ thứ 7 thôi.

Khán giả trong nước và hải ngoại có gì khác biệt trong cách ứng xử với ông?

Khán giả hải ngoại cũng nhiệt tình. Nhưng khán giả trong nước nhiệt tình hơn. Có lẽ bởi tại quá lâu họ không gặp Chế Linh. Sự xa cách này khiến họ đón tôi hết sức nâng niu. Khán giả hải ngoại cũng nâng niu nhưng vì thường xuyên gặp gỡ nên đã thành quen thuộc.

Ông có sợ khán giả trong nước quen Chế Linh quá sẽ bớt nồng nhiệt hơn, nên tới đây sẽ hạn chế trở về Việt Nam?

(Cười lớn) Chế Linh không nghĩ điều đó. Tôi nghĩ rằng đây là một cơ hội để tôi và khán giả có những chương trình mềm mại, không chỉ để hát mà để san sẻ tâm tình.

Ông có dự định hát riêng cho đồng bào Chăm của anh nghe không?

Điều đó nằm trong dự định của tôi. Ngày đó không xa, tôi sẽ hát cho đồng bào Chăm tại khu vực đông người Chăm sinh sống.

Trong tương lai, ông sẽ trở về Việt Nam sống và hát?

Chế Linh sinh ra và lớn lên rồi trở thành một nghệ sỹ tên tuổi, một ngày bất chợt ra nước ngoài sống. Nhưng quê hương mình, khán giả của mình còn nguyên ở đây thì chắc chắc tôi luôn sẵn sàng cho một ngày trở về thật sự.

Ông có định để các con phát triển sự nghiệp âm nhạc ở Việt Nam?

Đó là điều mong mỏi lớn nhất cuộc đời tôi. Nhưng tôi nghĩ không biết các con tôi có làm nổi hay không. Vì làm nghệ sỹ không đơn giản, đâu chỉ có mỗi việc hát. Làm nghệ sỹ quần chúng vô cùng khó khăn, không thể bừa bãi, không thể không biết nhịn nhục, biết chấp nhận những sự nói ngược với ý nghĩ, với công việc của mình, biết chấp nhận sự trách móc...

Mình phải làm được những gì khán giả đòi hỏi ở mình, chứ không phải gia đình đòi hỏi ở mình. Để có một sự trở về của các con thì cần phải có sự chuẩn bị chu đáo. Nếu trở về mà chúng làm điều gì đó thất thố thì sẽ là sự phụ tình yêu mến của khán giả bấy nay.

Về quê hương chỉ có lời

Ông cảm nhận thế nào về nhạc trẻ trong nước hiện nay?

Trong một vườn hoa, có rất nhiều loại hoa, tuỳ ở người thưởng thức. Âm nhạc hay văn học nghệ thuật cũng vậy, đều muốn phục vụ khán giả. Trong tương lai, tôi sẽ hát một vài bài thuộc dòng nhạc trẻ. Tôi muốn trả lời khán giả rằng, không có điều gì mà những nghệ sỹ như Chế Linh không làm được.

Cát xê của những nghệ sỹ được coi là ngôi sao ở Việt Nam khá ngất ngưởng. Ông có biết điều đó không và suy nghĩ thế nào?

Nếu cát xê cao quá sẽ gặp khó khăn, làm khán giả xa cách mình. Vì đồng bào mình nhiều nơi, nhiều vùng còn nghèo lắm.

Ông chấp nhận mức cát xê thế nào khi hát ở Việt Nam?

Tôi chấp nhận một giá mềm mại để đồng bào coi được.

Ông có thể tiết lộ cụ thể hơn?

Nếu nói về cát xê thì người ta đang đồn cát xê của Chế Linh cao lắm, tới một, hai chục ngàn đô một đêm. Nhưng tôi với đơn vị tổ chức đã thoả thuận một giá chấp nhận được. Xin cho tôi tạm giữ bí mật này.

Ông có bao giờ tính tới lời, lỗ trong chuyến xuyên Việt?

Với bản thân tôi, chỉ có lời không có lỗ. Tri ân với khán giả là món lời lớn nhất của cuộc đời nghệ sỹ.

Sau chuyến trở về lần này, bao lâu nữa ông lại về đất mẹ?

Tháng 12 tôi trở ra nước ngoài để hát cho kiều bào nghe. Nhưng tôi sẽ trở về Việt Nam, ăn tết trên quê hương mình.
“Ở đâu thì tôi vẫn là Chế Linh, người dân tộc Chăm và quê hương là Việt Nam”. Ông có 14 người con, trải qua bốn đời vợ. Bảy con trai đều theo nghiệp của cha.
 

TnTs

New Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Bằng Kiều có thể coi là ca sỹ hải ngoại không nhỉ?
 

co1972nguyen

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Chuyện Tình T.T.Kh

Nhân tiện có topic của Bác namrau đăng bài "Chuyện Tình T.T.Kh. (1991) [WAV]"
http://www.hdvietnam.com/diendan/183-nhac-viet-nam/397137-thien-nga-cd-various-artists-chuyen.html
Tracks list
1/ Hoa Trắng Thôi Cài Lên áo Tím - Vũ Khanh
2/ Khóc Người Trinh Nữ - Ý Lan
3/ Chuyện Tình T.T.Kh - Lưu Hồng
4/ Người Em Sầu Mộng - Việt Dzũng
5/ Hai Sắc Hoa Ti-Gôn Thiên Trang
6/ Màu Máu Ti-Gôn - Lưu Hồng
7/ Ghen - Vũ Khanh
8/ Mười Thương - Thiên Trang
9/ Vết Sầu - Ý Lan
10/ Bướm Trắng - Vũ Khanh​

tôi sẽ đưa những bài viết từ những năm 2005 của các báo về T.T.Kh bí ẩn để các Bác ngâm cứu

Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh (22:01:00, 23/10/2005)

T.T.Kh là một câu chuyện chưa từng có trong lịch sử văn chương. Đó là câu chuyện về một thi sĩ bí ẩn bỗng nhiên tung lên thi đàn mấy bài thơ tình tuyệt tác làm ngẩn ngơ độc giả rồi lặng lẽ biến mất trong cái bàng hoàng sửng sốt của người yêu thơ.

Bảy mươi năm đã trôi qua kể từ ngày xảy ra câu chuyện kỳ lạ ấy. Rất nhiều người đã tìm cách vén lên bức màn bí ẩn của câu chuyện nhưng hầu như chưa ai làm thỏa mãn độc giả. Còn người yêu thơ vẫn luôn khát khao được biết sự thật: T.T.Kh là ai và đã vì ai mà sáng tác nên những áng thơ tình đặc sắc đó?

Có một số nhân vật được các nhà sưu tầm đưa ra để giả định rằng đó là T.T.Kh. Nam giới có, phụ nữ có. Trong số những "nghi can" có hai nhà thơ nổi tiếng là Thâm Tâm và Nguyễn Bính. Độc giả tưởng như đã lần ra được tung tích của con người kỳ lạ này nhưng sự thực không phải như vậy. Bởi tất cả những thông tin đưa ra đều do lời người khác kể lại. Còn bản thân những người như Thâm Tâm, Nguyễn Bính chưa bao giờ có phát biểu chính thức nhận mình là T.T.Kh. Vì thế, tuy người kể cũng là người có uy tín trong làng văn làng báo nhưng độc giả vẫn thấy mơ hồ khó tin. Việc tìm kiếm con người thật của T.T.Kh thành ra vẫn rơi vào vòng lẩn quẩn trong bao nhiêu năm qua, khiến câu chuyện thêm nhuốm màu huyền thoại.

Bằng cách phân tích các hình ảnh, biểu tượng, tình tiết văn học, thói quen sử dụng ngôn ngữ trong thơ, trong truyện ngắn..., tác giả Trần Đình Thu đưa ra một cách làm mới: so sánh đối chiếu với những người được cho là T.T.Kh lâu nay để nhận xét xem ai là người phù hợp nhất. Đó là cách làm khá đặc biệt so với những nhà sưu tầm khác trước đây chỉ hoàn toàn dựa vào lời kể của nhân chứng. Vì thế, Thanh Niên xin giới thiệu loạt bài viết trích từ bản thảo cuốn sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh chưa xuất bản của tác giả để bạn đọc tham khảo.

Kỳ 1: Câu chuyện tình buồn 70 năm trước

Có thể nhiều bạn đọc đã biết, đã thuộc làu thơ T.T.Kh nhưng vẫn có một số người khác chưa nắm rõ câu chuyện như thế nào. Vì thế, trước khi bước vào phân tích lý giải, chúng tôi xin dẫn lại toàn bộ câu chuyện này một cách có hệ thống. Câu chuyện T.T.Kh bắt đầu vào tháng 7/1937, khi tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy đăng một truyện ngắn mang tên Hoa ti gôn của nhà văn Thanh Châu. Nội dung truyện ngắn được tóm tắt như sau:

Có một họa sĩ nghèo mới ra trường. Trong một lần đi tìm cảnh vẽ, chàng đã gặp một thiếu nữ đang hái hoa ti gôn trong vườn. Từ đó, chàng đâm ra mê người đẹp, luôn đạp xe vào làng để ngắm trộm nàng hái hoa.

Năm tháng qua đi, chàng họa sĩ trở nên nổi tiếng. Tranh vẽ của chàng bán được giá rất cao. Họa sĩ trở nên giàu có. Một mùa đông, chàng đi vẽ ở một vùng nọ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ. Chàng ngờ ngợ như đã từng gặp người này ở đâu. Cuối cùng nhớ ra, nàng chính là cô gái hái hoa ngày ấy. Trong khi khiêu vũ với nàng, chàng nhắc lại chuyện cũ. Nàng vô cùng ngạc nhiên.

Nàng kể chuyện cuộc đời mình cho chàng nghe. Nàng lấy một người chồng môn đăng hộ đối nhưng cuộc hôn nhân quá tẻ nhạt. Từ đó, nàng hay lui tới chỗ họa sĩ trọ để chơi và để chàng vẽ cho một bức chân dung. Chuyện gì đến đã đến. Một buổi sáng, hai người đi chơi ở một ngôi chùa trên đỉnh núi, chàng đã tỏ nỗi lòng mình. Nàng đáp lại tình yêu của chàng.

Chàng bàn với nàng trốn đi Nhật để chung sống với nhau. Nàng nhận lời. Chàng về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc thì nhận được thư nàng vào giờ chót. Nàng từ chối chuyến đi vì không đủ can đảm vượt qua. Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra. Chàng nhìn những nụ hoa hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu, lặng lẽ hôn lên những cánh hoa và khóc.

Bốn năm sau, một hôm chàng nhìn thấy trên bàn mình một phong thư viền đen. Mở ra xem thì đó là của người chồng nàng báo tin nàng đã chết. Chàng đáp xe lửa đến nơi để đặt lên mộ nàng dây hoa quen thuộc. Từ đó, chàng luôn mua hoa ti gôn về đặt trong phòng mình.

Hoa ti gôn là một truyện ngắn không có gì đặc sắc nhưng nhẹ nhàng và bay bổng. Truyện ký thác một tâm sự khắc khoải, nhớ nhung hoài niệm. Hình ảnh dây hoa ti gôn được lặp đi lặp lại nhiều lần như muốn khơi gợi một điều gì đó không tiện nói ra. Tác giả của nó - nhà văn Thanh Châu, khi đó là một chàng trai trẻ 25 tuổi, vừa quyết định bước vào nghiệp văn chương. Chàng cũng vừa trải qua một chuyện tình buồn.

Hai tháng sau ngày Thanh Châu đăng truyện ngắn nói trên, một sự kiện đặc biệt xảy ra. Vào tháng 9/1937, tòa soạn tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy nhận được một bài thơ của một tác giả ký tên là T.T.Kh. Đó là bài Hai sắc hoa ti gôn, được đăng vào ngày 23/9/1937.

Bài thơ Hai sắc hoa ti gôn đã gây nên xúc động lớn trong lòng người yêu thơ bởi những câu thơ quá da diết. Giới văn nghệ xôn xao. Gần hai tháng sau, tòa soạn lại nhận được một bài thơ nữa. Bài thơ này có tựa đề là Bài thơ thứ nhất dù đó là bài thơ thứ hai gửi đến. Bài này được đăng trên số báo ngày 20/11/1937. Và một năm sau nữa, tòa soạn nhận thêm bài Bài thơ cuối cùng. Bài này được đăng trên số báo ra ngày 30/10/1938.

Từ đó, tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy không còn nhận thêm bài thơ nào của con người bí ẩn này nữa. Ngược lại, có một bài thơ cũng ký tên T.T.Kh gửi đến một tờ báo khác. Đó là Bài thơ đan áo.

Những bài thơ mang tên T.T.Kh đã làm cho độc giả bàng hoàng sửng sốt. Nhưng tác giả của nó đã lặng lẽ rời bỏ văn đàn, không bao giờ xuất hiện ở đâu nữa. Không ai biết một chút gì về con người bí ẩn này. Nghi án văn học T.T.Kh từ đó bắt đầu...

Năm 1942, Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản Thi nhân Việt Nam lần đầu tiên, T.T.Kh đã được đưa vào tập sách quan trọng này. Song song đó, nhiều người lại liên tục công bố những thông tin về T.T.Kh. Nào Thâm Tâm, nào Nguyễn Bính, nào em gái nhà thơ Tế Hanh, nào là Trần Thị Khánh... Rất nhiều "ứng viên".

Câu chuyện về Thâm Tâm có khá nhiều người kể. Chẳng hạn Nguyễn Vỹ, một người có mặt trong Thi nhân Việt Nam đã viết một bài dài trên Tạp chí Phổ Thông vào những năm 1960. Ông Vỹ cho biết, một buổi tối trên đường về nhà, ông gặp Thâm Tâm đang lang thang. Ông mời Thâm Tâm về nhà mình uống rượu. Ngà ngà say, Thâm Tâm cao hứng kể chuyện tình của mình. Thâm Tâm cho biết, người yêu của mình là một nữ sinh tên là Trần Thị Khánh. Nàng đã có lần gợi ý Thâm Tâm đến nhà hỏi cưới nhưng chàng bảo sự nghiệp chưa có gì. Bẵng đi một thời gian, một hôm chàng nhận được phong thư báo tin nàng sắp lấy chồng. Đã bị người yêu bỏ đi lấy chồng, lại còn bị đám bạn chế nhạo, Thâm Tâm đâm ra bị quê. Vì thế đã phải thức một đêm để làm một bài thơ tựa đề là Hai sắc hoa ti gôn, ký tên T.T.Kh. Thâm Tâm làm như vậy với dụng ý để các bạn của mình tin là của Khánh làm, cho khỏi mang tiếng bị tình phụ. Sau đó, Thâm Tâm gửi bài thơ tới tòa soạn. Về phần cô gái đó, sau khi đọc được bài thơ Hai sắc hoa ti gôn, liền viết thư phản đối Thâm Tâm kịch liệt. Thâm Tâm bèn lấy những câu chữ trong bức thư này để viết tiếp các bài thơ sau này, vẫn ký là T.T.Kh...

Ngược với Nguyễn Vỹ thì một số tác giả, chẳng hạn như Hoàng Tiến, lại cho rằng chính cô Trần Thị Khánh, cô người yêu của Thâm Tâm đã sáng tác ra những bài thơ ký tên T.T.Kh. Một số tác giả khác còn tiến thêm một bước cụ thể hơn nữa khi cho rằng Trần Thị Khánh chính là em gái họ của nhà thơ Tế Hanh...

Với Nguyễn Bính, không thấy có những câu chuyện cụ thể như trường hợp của Thâm Tâm. Người ta chỉ dựa vào bài thơ Cô gái vườn Thanh đề tên tác giả Nguyễn Bính để cho rằng Nguyễn Bính chính là T.T.Kh.

Kỳ sau: T.T.Kh có thể là Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính không?

Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu xem liệu có thể tin rằng T.T.Kh là Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính như một số tác giả đã khẳng định hay không.

Tác giả Hoài Việt, một người cầm bút trước năm 1945, từng quen biết với hai thi sĩ này cho biết: Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân hồi đó là ba thi sĩ chủ chốt trong một nhóm thơ được các văn hữu mệnh danh là các nhà thơ xóm áo bào gốc liễu. Ba người tuổi tác xấp xỉ nhau, đều xuất thân từ tầng lớp dân nghèo, không được học hành nhiều ở các trường lớp chính quy, vì thế ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với họ hầu như không có gì. Ngược lại họ là những người được học nhiều chữ Hán, chữ Nôm. Cả ba người có lúc cùng ở trọ một nhà với nhau để viết văn, làm báo. Những hoàn cảnh như trên đã ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của nhau, hình thành nên một nhóm thơ có tên gọi như trên.

Ngoài những nét riêng biệt trong các tác phẩm của từng người thì nhóm thơ này có một đặc điểm chung. Đó là các thành viên rất thích cái giọng văn chương hiệp sĩ, ưa dùng hình ảnh những tráng sĩ lên đường thời Xuân Thu Chiến Quốc. Những tráng sĩ mặc áo bào từ trên lưng ngựa nhảy xuống đất, buộc ngựa vào gốc liễu, nghênh ngang bước vào tửu quán. Vì thế mà thơ của họ chứa đựng cái chất tráng ca, cái khí phách ngang tàng của những trang hảo hớn: "Chí lớn chưa về bàn tay không/Thì không bao giờ nói trở lại/Ba năm mẹ già cũng đừng mong" (thơ Thâm Tâm), "Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén/Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay?/Mơ gì áp Tiết thiên văn tự/Giầy cỏ gươm cùn ta đi đây" (thơ Nguyễn Bính).

Nhận định của Hoài Việt như thế rất đúng với trường hợp của Thâm Tâm. Chất giọng văn chương hiệp sĩ của ông tạo nên nét riêng biệt không ai có được. Thơ ông là thứ thơ hùng tráng. Nếu có bi thì cũng là hùng bi: "Ngươi chẳng thấy/Thao thao Hồng Hà vạn thuở chảy/Nước mạnh như thác, một con thuyền/Ta lênh đênh hoài sầu biết mấy!" (Can trường hành), "Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch/Ta ghét hoài câu "nhất khứ hề"" (Vọng nhân hành). Chất rắn rỏi này không chỉ thể hiện trong những bài thơ thuộc thể hành mà cả khi Thâm Tâm làm những loại thơ khác.

Với Nguyễn Bính, ngoài cái phần chung với nhóm thơ trên mà ông ít nhiều chịu ảnh hưởng của bạn bè, thể hiện trong vài trường hợp (chẳng hạn bài Hành phương Nam) thì thơ Nguyễn Bính được bao trùm bởi cái chất quê, như Hoài Thanh nhận định trong Thi nhân Việt Nam: "Ở Nguyễn Bính thì không thế. Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. Tôi muốn nói Nguyễn Bính vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm". Thơ Nguyễn Bính phần lớn gần gũi với đời sống lam lũ quê mùa dù ông đang ở thành thị hay thôn quê. Từ ngữ nhiều khi quá dân dã đến nỗi một số nhà thơ thời ấy chê là ông làm hò vè: "Nuôi hai con lợn từ ngày xưa/Mẹ tôi đã tính "Tết thì vừa"/Trữ gạo nếp thơm mo gói bó/Dọn nhà, dọn cửa, rửa bàn thờ" (Tết của mẹ tôi). Ngay cả khi làm thơ tình thì Nguyễn Bính cũng quê mùa chất phác như thế: "Lòng em như quán bán hàng/Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi/Lòng anh như mảng bè trôi/Chỉ về một bến chỉ xuôi một chiều" (Em với anh). Cái chất dân dã quê mùa, pha lẫn với một ít chất tráng ca, có lẽ ảnh hưởng từ Thâm Tâm, đã tạo nên một Nguyễn Bính khó có thể lẫn vào ai.


Đó là những nét đặc thù trong thơ Thâm Tâm và Nguyễn Bính, hai tác giả được nhiều người coi là T.T.Kh. Vậy còn thơ T.T.Kh thì sao? Ta hãy đọc lại vài khổ thơ của tác giả này: "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui/Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ/Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi" (Hai sắc hoa ti gôn), "Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ/Một mùa thu cũ một lòng đau/Ba năm ví biết anh còn nhớ/Em đã câm lời có nói đâu" (Bài thơ cuối cùng).

Bạn đọc thấy gì trong những câu thơ này? Rõ ràng đây là những câu thơ nỗi lòng của một người con gái khuê các, từ nhỏ tới lớn có lẽ quen sống trong cảnh mơ màng, không vướng bận chuyện đời thường. Nàng thích nhìn gió ngắm trăng mỗi khi cô đơn trong lòng. Nàng lại đọc tiểu thuyết mỗi khi buồn: "Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết/Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa". Gia cảnh của nàng rõ ràng là khá giả. Không phải thuộc loại "Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều/Mẹ tôi lo liệu đủ trăm chiều" như Nguyễn Bính hay "Sinh ta, cha ném bút rồi/Rừng nho tàn rụng cho đời sang xuân" như Thâm Tâm.

Ta lướt qua những bài thơ của T.T.Kh và thấy, tác giả là người có thói quen sử dụng từ ngữ hiện đại. Có lẽ tác giả được đi học trường Tây chứ không phải đi học trường làng. Ta không tìm thấy những từ ngữ làng quê hay từ ngữ có nguồn gốc Hán-Việt nhiều ở đây. Vả lại những câu thơ như câu "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui" quá là hiện đại. Tình yêu trong thơ Thâm Tâm hoặc thơ Nguyễn Bính đâu có như thế.

Ta cần nhớ rằng vào khoảng thời kỳ 1932-1938, văn xuôi cũng như thơ Việt Nam còn đang cố gắng tìm một sự thay đổi căn bản. Về thơ, đó là sự thay thế thể thơ Đường luật gò bó bằng thể thơ tự do, tức thơ mới. Đến năm 1936, cuộc cách mạng này coi như thành công mỹ mãn. Tuy nhiên có sự phân hóa. Một số tác giả muốn cách tân một cách mạnh mẽ cả nội dung lẫn hình thức trong khi số khác lại không muốn bị "Tây hóa" quá nhiều về mặt nội dung mà chỉ muốn đổi mới chỉ hình thức thôi. Xuất hiện một lớp nhà thơ "tân" bên cạnh những nhà thơ "cựu" vốn ít học chữ Tây. Văn chương của hai tầng lớp này có một sự khác biệt rất dễ nhận ra. Nếu như Xuân Diệu đạt đến đỉnh cao của sự ảnh hưởng thơ Pháp thì Thâm Tâm lại quay về với hồn thơ Đường còn Nguyễn Bính thì chìm đắm trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam để góp phần tạo nên dòng thơ Việt.

Còn thơ T.T.Kh? Ngay cả Hoài Thanh vào năm 1942 cũng đã rất ngập ngừng không dám xếp hẳn thơ T.T.Kh vào dòng thơ Việt. Cho nên, giữa thơ Thâm Tâm, Nguyễn Bính và T.T.Kh không thể nào chung trong một dòng thơ được. Thâm Tâm và Nguyễn Bính "cựu" quá trong khi T.T.Kh thì lại rất "tân".

Hai sắc hoa ti gôn
hoa-ti-gon.jpg


Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ ngườâi đến với yêu thương
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thắm mờ sương, cát
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài những lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng: "Hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi !"
Thuở đó, nào tôi đã biết gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: "Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy"
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá !- tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...
Từ đấy, thu rồi, thu, lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người
Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Sắc hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha !
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi !
Tôi sợ chiều thu nhạt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng. Chiều thu
Gió về lặng lẽ chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò
Nếu biết rằng tôi đã có chồng
Trời ơi ! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng ?
T.T.KH​
 
Chỉnh sửa lần cuối:

co1972nguyen

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Kỳ 3: T.T.Kh là “nàng” hay “chàng”?

Ta đã tìm hiểu qua về thơ T.T.Kh trong kỳ trước. Thật ra, ta thấy thơ T.T.Kh nghiêng về dòng thơ ảnh hưởng thơ Pháp mà Thế Lữ đã khơi nguồn và Xuân Diệu đẩy lên đến tận cùng hơn: "Hơn một loài hoa đã rụng cành/Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh/Những luồng run rẩy rung rinh lá.../Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh" (Thơ Xuân Diệu); "Ở lại vườn Thanh có một mình/Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh/Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo/Yêu bóng chim xa nắng lướt mành" (Thơ T.T.Kh).

Cũng là những câu thơ tả cảnh như thế, nhưng nó quá khác biệt khi đặt bên cạnh thơ Thâm Tâm hay Nguyễn Bính: "Thu sang trên những cành bàng/Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi/Hôm qua đã rụng một rồi/Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn" (Thơ Nguyễn Bính), "Bừng sáng, xuân bay tang tảng sương/Canh gà heo hút nẻo giang thôn/Chài ai gấp gấp giăng giăng bạc/Tiếng mác qua giời, dịp sáo non" (Thơ Thâm Tâm).

Thơ T.T.Kh hiện đại từ ngôn ngữ cho đến hình ảnh. Nhà văn Thanh Châu đã bỏ công tìm hiểu cách sử dụng từ ngữ của những đối tượng liên quan và đi đến nhận xét: thơ T.T.Kh không có những chữ như ly khách, cửa ải xa, xóm thanh bình, trường thành, quan san, trường đình, thét roi, cô phụ, đoạn trường như Thâm Tâm, không có những chữ như vương tơ, lão bộc, vật đổi sao dời, quay tơ, guồng tơ, hận tình, buồng the như Nguyễn Bính. Nhận xét này của Thanh Châu khá tỉ mỉ và chính xác, cho ta thấy sự khác biệt về cách sử dụng từ ngữ giữa T.T.Kh và Thâm Tâm, Nguyễn Bính. Chúng ta thấy thêm, ở Nguyễn Bính thường có xu hướng sử dụng từ ngữ địa phương mỗi khi có điều kiện, chẳng hạn "giời" thay cho "trời", "giầu" thay cho "trầu"... Như trong bài Cô gái vườn Thanh, Nguyễn Bính viết: "Vườn Thanh qua đấy năm xưa/Trọ nhờ đêm ấy giời mưa tối giời". Đây là một thói quen mà T.T.Kh không hề có.

Chúng ta thấy một điều rất quan trọng nữa về mặt ngôn ngữ trong thơ T.T.Kh là tác giả hầu như chỉ sử dụng từ thuần Việt. Đây là một đặc điểm cho thấy tác giả không hề hoặc rất ít được tiếp xúc với Hán học mà chủ yếu được đào tạo theo quốc học. Về mặt sử dụng hình ảnh, cũng có những điểm cho ta thấy sự khác biệt. Một ví dụ đơn giản: hình ảnh bông hoa ti gôn. Ti gôn là một thứ hoa của phương Tây du nhập vào Việt Nam trước đó không lâu. Vào thời ấy, nó là loài hoa của những gia đình trưởng giả. Nó có thể quen thuộc với những thi sĩ hiện đại như Xuân Diệu, Huy Cận, nhưng nó sẽ xa lạ với một nhà thơ chân quê như Nguyễn Bính hoặc một nhà thơ áo bào gốc liễu như Thâm Tâm. Nếu cần dùng hình ảnh một loài hoa nào đó để làm thơ thay cho người khác thì với Thâm Tâm, có lẽ ông sẽ dùng hoa gạo, hoa lý, hoa xoan... còn với Nguyễn Bính thì ông sẽ dùng hoa cải, hoa cà, hoa chanh, hoa mướp... để gợi cảm hứng. Thâm Tâm và Nguyễn Bính quyết không bao giờ dùng thứ hoa ti gôn xa lạ ấy: "Hoa chanh nở giữa vườn chanh/Thầy u mình với chúng mình chân quê" (Thơ Nguyễn Bính), "Trăm giàn lý đỏ đã lên hoa/Tâm sự in như cảnh ác tà" (Thơ Thâm Tâm).

Thế nhưng hình ảnh trong thơ T.T.Kh thì lại khác. Nhiều hình ảnh trong thơ T.T.Kh không thể có được trong thơ của Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính: nhặt cánh hoa rơi, buồn quá xem tiểu thuyết, tiếng lá thu khô... Những hình ảnh này rất "Tây", tiêu biểu cho một tầng lớp thị dân "chính cống" chứ không phải "từ quê lên tỉnh" như Nguyễn Bính.

Đến đây, chúng tôi muốn đi vào điều cốt lõi hơn nữa. Một điều rất rõ là khi đọc các bài thơ của T.T.Kh, người ta có cảm giác ngay lập tức tác giả phải là một người phụ nữ. Thế nhưng như đã thấy, nhiều người vẫn cho rằng T.T.Kh là đàn ông. Bởi vậy chúng ta cần tìm hiểu xem liệu có thể xảy ra điều giả định ấy được không? Điều này cũng góp phần loại bỏ bớt những "ứng viên" là nam giới.

Thật ra, nhiều câu thơ của T.T.Kh thể hiện rất rõ tính nữ trong đó. Đọc kỹ những câu thơ của T.T.Kh, có những câu dường như chỉ là tác giả nữ thì mới viết như thế: "Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/Trời ơi người ấy có buồn không" (Hai sắc hoa ti gôn). Chúng ta phải thừa nhận điều này, đàn ông và phụ nữ có cách nói, cách nghĩ khác nhau. Có những điều, đàn ông nghĩ thế này nhưng phụ nữ sẽ nghĩ thế khác. Chẳng hạn người đàn ông thường lo người mình yêu bị khổ còn phụ nữ sẽ lo người mình yêu bị buồn. Cho nên là phụ nữ thì T.T.Kh mới viết câu: "Trời ơi người ấy có buồn không". Ta tin rằng Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính sẽ không bao giờ viết câu này nếu họ là tác giả của bài thơ. Trong ba bài thơ có khá nhiều câu thể hiện cách nghĩ cách nói của người phụ nữ mà đàn ông không thể nghĩ và nói: "Từ đấy, thu rồi, thu, lại thu/Lòng tôi còn giá đến bao giờ?/Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ.../Người ấy cho nên vẫn hững hờ". Đây là những cảm nhận hết sức tinh tế của một người phụ nữ, hơn nữa là người phụ nữ đã có chồng. Đàn ông không thể làm được những câu thơ này.

Chúng tôi muốn nói với bạn đọc điều này: thơ là tiếng nói của tâm hồn, là sự thể hiện ra bằng ngôn ngữ những tâm tư tình cảm của con người. Nếu là một người hóa thân thành người khác để làm thơ thì rất khó, ngoại trừ đấy là thể loại truyện thơ. Đọc những vần thơ của T.T.Kh, ta thấy tràn ngập trong đó những nỗi niềm tâm sự, những xót xa ngậm ngùi, những buồn thương uất hận: "Tôi oán hờn anh mỗi phút giây/Tôi run sợ viết bởi rồi đây/Nếu không yên được thì tôi chết/Đêm hỡi, làm sao tối thế này" (Bài thơ cuối cùng), "Là giết đời nhau đấy phải không/Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung/Giận anh em viết dòng dư lệ/Là chút dư hương điệu cuối cùng" (Bài thơ cuối cùng), "Đâu biết lần đi một lỡ làng/Dưới trời gian khổ chết yêu đương/Người xa xăm quá tôi buồn lắm/Trong một ngày vui pháo nhuộm đường" (Hai sắc hoa ti gôn)...

Với những câu thơ này, làm sao có thể tin rằng do một người khác phái "đóng vai" để tạo ra? Làm sao từ một câu chuyện tình phụ tầm thường nhạt nhẽo giữa Thâm Tâm với một cô gái mang tên Trần Thị Khánh nào đó mà thi sĩ viết nên được những câu thơ đớn đau thế này? Thật là ngây thơ khi chúng ta tin rằng Thâm Tâm hay Nguyễn Bính có thể là tác giả của những bài thơ mang tên T.T.Kh. T.T.Kh dứt khoát phải là một tác giả nữ.

Kỳ 4: Mối quan hệ giữa T.T.Kh và tác giả truyện ngắn Cập nhật cách đây 1 giờ 4 phút

T.T.Kh đã sáng tác nên những bài thơ tình bất hủ vì chuyện ngang trái tình duyên. Điều này thì đã quá rõ. Nhưng ta cần biết ai là người đã làm cho thi sĩ đớn đau đến tột cùng khiến phải thốt ra những lời thơ thấm đẫm đầy nước mắt ấy? Đây là một câu hỏi quan trọng. Giải đáp được câu hỏi này là ta có trong tay chiếc chìa khóa để có thể mở cánh cửa đi sâu vào những ngóc ngách bí ẩn bên trong câu chuyện kỳ lạ này.

Hãy đọc lại bài thơ đầu tiên của T.T.Kh. Hai sắc hoa ti gôn là bài thơ hay nhất trong ba bài thơ và là bài thơ mà tác giả viết ngay sau khi đọc được truyện ngắn Hoa ti gôn. Điều dễ nhận thấy đầu tiên là bài thơ như "họa" lại truyện ngắn, từ hình thức cho đến nội dung. Khởi đầu là cái tựa: Hoa ti gôn - Hai sắc hoa ti gôn. Truyện ngắn mở đầu bằng hình ảnh một ông họa sĩ già ngày nào cũng tỉ mẩn bên những cánh hoa: "Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa ti gôn". Chuyện tình thơ cũng bắt đầu từ những kỷ niệm êm đềm với loài hoa có cái tên Tây ấy: "Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn/Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn/Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc/Tôi chờ người đến với yêu đương".

T.T.Kh và Thanh Châu đã lấy cùng một loài hoa để khơi dòng tâm sự. Thứ hoa dây leo có những cành nhỏ nhắn dễ thương trổ ra vô số nụ, năm cánh chụm lại thành "hình quả tim", trong một hai ngày sẽ nở bung ra. Thế là "quả tim vỡ". "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui/Bảo rằng: " Hoa dáng như tim vỡ/Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi".

Hoa dáng như tim vỡ là một chi tiết quan trọng. Thật ra bây giờ khi loài hoa này đã quá nổi tiếng thì nhìn nó, người ta có thể nghĩ đến hình dáng quả tim vỡ làm nhiều mảnh nhưng vào thời điểm câu chuyện này chưa xảy ra, khó có ai nghĩ đến điều này. Quan sát kỹ nụ hoa ti gôn ta thấy rằng, thật khéo tưởng tượng thì mới nghĩ ra được như thế. Thế mà câu chuyện của Thanh Châu và câu chuyện của T.T.Kh đều xoay quanh cái chi tiết "quả tim vỡ" ấy. Không hiểu vì sao những nhân vật trong thơ và trong truyện có cách nhìn giống nhau đến vậy? T.T.Kh nói rằng đó chẳng qua chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên: "Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết/Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa".

Như vậy là ta đoán nhầm? Vì T.T.Kh đã nói rõ rằng hai người không quen biết gì nhau. Chẳng qua chỉ là sự tình cờ. Nhưng ta vẫn thấy có quá nhiều băn khoăn. Vì lẽ gì cánh hoa ti gôn ấy lại ám ảnh cả hai người như vậy?

Trong truyện ngắn, cánh hoa ti gôn từ chỗ là nguồn cảm hứng bao la của chàng họa sĩ trẻ khi gặp người con gái cho đến chỗ là thông điệp của bi kịch khi chàng nhận phong thư báo tang viền đen có ép một dây hoa ti gôn nhỏ rơi ra. Trong bài thơ, cánh hoa ti gôn từ chỗ là niềm vui, niềm mong đợi của người con gái: “Tôi chờ người đến với yêu đương” cho đến chỗ kết thúc một mối tình: “Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ/Tựa trái tim phai, tựa máu hồng”.

Bài thơ thứ nhất nối tiếp những điều mà Hai sắc hoa ti gôn chưa nói hết: "Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên/Bỗng ai mang lại cánh hoa tim/Cho tôi ép nốt dòng dư lệ/Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên".

Bạn đọc hãy lưu ý đến những cánh hoa ti gôn. Không chỉ trong bài thơ trước mới có mặt chúng, loài hoa này hầu như luôn hiện diện trong câu chuyện tình buồn này. Lẽ ra ta nên gọi nghi án văn học này là nghi án văn học hoa ti gôn. Hoa ti gôn - chính thứ hoa "sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở" như lời tả trong tiểu thuyết Gánh hàng hoa của nhà văn Khái Hưng mà Thanh Châu lấy làm đề tựa cho truyện ngắn Hoa ti gôn mới là đầu dây mối nhợ của mọi chuyện. Nếu không có hoa ti gôn, ta sẽ không bao giờ có những bài thơ tuyệt tác của T.T.Kh, không bao giờ có được câu chuyện tình văn chương kỳ lạ này.


Nhưng ta hãy chú ý điều này: trong bài thơ thứ hai, T.T.Kh không còn nhìn những cánh hoa ti gôn với vẻ lãng mạn u buồn của nó nữa. Nàng có vẻ như giận người nhắc đến cánh hoa ti gôn: "Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên/Bỗng ai mang lại cánh hoa tim/Cho tôi ép nốt dòng dư lệ/Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên".

Chúng ta thấy hé lộ ra một điều không bình thường. Lúc trước nàng bảo, ngồi buồn đọc báo Tiểu thuyết thứ bảy, bắt gặp truyện ngắn Hoa ti gôn, thấy ai cũng có tâm trạng giống mình nên cảm xúc viết ra bài thơ gửi đăng báo cho vơi bớt nỗi lòng, thế mà bây giờ lại có ý trách người viết truyện.

Bạn đọc hỏi, có thấy nàng giận hờn trách móc chỗ nào đâu? Có đấy! Nàng trách nhưng mà trách khéo lắm. Trách mà không có lời trách. Ta hãy đọc tiếp: "Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ/Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ". Ý nàng muốn nói rằng, còn gì đâu nữa, giờ mọi chuyện đã lỡ làng hết cả rồi, tình tan nát như loài hoa tim vỡ rồi, người nhắc đến chuyện xưa làm gì nữa.

Dường như nàng đang đối thoại với người viết truyện qua bài thơ. Nhưng nàng đối thoại một cách rất khéo, khiến không ai nghi ngờ điều gì. Nhờ tài hoa, nàng đã làm được điều đó mà không ai nhận thấy trong gần cả thế kỷ qua. Đây là lời dặn của nàng: "Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá/Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:/“Cố quên đi nhé câm mà nín/Đừng thở than bằng những giọng thơ".

Nhưng thật không may. Bài thơ cuối cùng đã làm nàng lộ tẩy. Nàng không thể giữ kín cuộc đối thoại: "Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly/Càng khơi càng thấy lụy từng khi/Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy/Mà viết tình em được ích gì?"

Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy! Bạn đọc đã thấy chưa! Thật là giấu đầu hở đuôi. Nàng đã quên cả giữ ý tứ, đi trách một người mà nàng bảo là không quen biết. Cái bọc đã không giấu nổi cây kim. Ấy là vì chuyện Bài thơ đan áo mà chúng tôi sẽ nói ở sau làm cho nàng bực bội. Đến đây, chúng ta thấy được một điều quan trọng: Hóa ra tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn không phải là người dưng. Bởi có mối quan hệ gì thì mới đi trách người chứ!...

Bài thơ thứ nhất

Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương.
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ.
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
"Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ".
Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về.
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.

(Theo Thâm Tâm và T.T.Kh của Hoài Việt, có đối chiếu với T.T.Kh nàng là ai? của Thế Phong)
T.T.Kh​
 

co1972nguyen

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Kỳ 5: Ai là người yêu của T.T.Kh?

Thưa bạn đọc, chúng tôi đã có dịp nói chuyện với nhà văn Thanh Châu và chỉ ra với ông việc T.T.Kh đã trách ông. Nhà văn cũng đồng ý với chúng tôi rằng quả thật câu thơ của T.T.Kh có hàm ý như thế.

Đến đây, chúng tôi muốn tạm gác câu chuyện hoa ti gôn lại trong chốc lát để chuyển qua chuyện Bài thơ đan áo. Bài thơ này nhiều người không chịu thừa nhận là của T.T.Kh. Quả thật sự xuất hiện của nó cũng tương đối bất thường. Thứ nhất là nó không đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy mà lại đăng ở báo khác. Thứ hai là về hình thức, nó cũng khác ba bài thơ kia. So sánh với ba bài kia, Bài thơ đan áo có vẻ thô vụng hơn nhiều. Đặc biệt trong khi ba bài thơ của T.T.Kh đều là thơ bảy chữ thì Bài thơ đan áo lại theo thể thơ lục bát. Thật là vô lý khi T.T.Kh đang rất điêu luyện trong thể thơ bảy chữ lại nhảy qua thơ lục bát để rồi lúng túng trong lối thơ này đến nỗi đôi chỗ vần không được nhuyễn. Chính những vướng mắc trên đã khiến người ta nghi ngờ bài thơ này là của người khác giả mạo T.T.Kh.

Thế nhưng T.T.Kh lại không hề lên tiếng cải chính mà ngược lại trong Bài thơ cuối cùng nàng lại nhắc đến nó: "Bài thơ đan áo nay rao bán/Cho khắp người đời thóc mách xem". Hiểu thế nào cho đúng về vấn đề này? Ai là người đã viết Bài thơ đan áo? Chúng ta nhớ một điều, Bài thơ đan áo ngoài những bất thường như nói trên còn có điểm khác biệt rất lớn với ba bài thơ kia. Đó là tác giả không viết cho người ấy mà viết cho một người chị nào đó: "Chị ơi, nếu chị đã yêu/Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương".

Chi tiết này lại khá khớp với Bài thơ cuối cùng. Trong bài thơ đó, T.T.Kh đã nhắc đến một người nào đó ngoài người ấy: "Chỉ có ba người đã đọc riêng/Bài thơ đan áo của chồng em". Ba người ấy là ai? Phải chăng là có mặt cả người chị trong Bài thơ đan áo?

Ở trên, chúng ta có nói đến mối quan hệ giữa tác giả truyện ngắn và tác giả thơ. Qua phân tích cuộc "đối thoại", chúng ta đã thấy được phần nào mối quan hệ "không phải người dưng" giữa họ. Tác giả truyện ngắn, tức nhà văn Thanh Châu chính là nhân vật ai mà nàng đã trách "Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy/Mà viết tình em được ích gì". Chúng ta tiếp tục phân tích thêm. Trước hết khẳng định Thanh Châu chính là nhân vật ai trong các câu thơ. Nhưng trong thơ T.T.Kh, ngoài ai ra còn có thêm nhân vật anh: "Giận anh em viết dòng dư lệ/Là chút dư hương điệu cuối cùng". Vậy nhân vật ai này và nhân vật anh trong câu thơ trên là hai người hay một người?

Có thể có hai trường hợp: Ai là một người bạn của nàng, hoặc ai chính là người yêu của nàng, tức ai chính là anh. Nếu xảy ra trường hợp đầu thì Thanh Châu chỉ là người bạn của T.T.Kh, được biết đến chuyện tình duyên ngang trái của nàng nên cảm hứng viết nên truyện Hoa ti gôn. Nếu xảy ra trường hợp sau thì Thanh Châu chính là người yêu của T.T.Kh.

Chúng ta chú ý, trong ba bài thơ, chỉ có Bài thơ cuối cùng là nàng đối thoại trực tiếp với người yêu mình: "Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?". Tại sao như vậy? Là vì lúc này nàng đang giận chàng. Nàng muốn nói chuyện "đâu ra đấy" với chàng một lần cho xong. Chúng ta đọc thêm khổ thơ thứ năm: "Từ đây anh hãy bán thơ anh/Còn để yên tôi với một mình". Ta thấy lúc này nàng cự cãi với chàng một cách khá căng thẳng. Có lẽ chàng vừa gây ra một lỗi lầm gì đó làm cho nàng giận. Liên hệ đến khổ thơ thứ ba có câu "Bài thơ đan áo nay rao bán/Cho khắp người đời thóc mách xem" thì ta sẽ hiểu ngay chuyện gì. Đó là chuyện Bài thơ đan áo, chàng đã lấy nó đem "rao bán" làm cho nàng bực tức. "Rao bán" là từ mà nàng ví von cho hả tức chứ thực sự là chàng đã để lọt bài thơ đó ra ngoài. Bài thơ này vì một lẽ gì đó mà nàng không muốn cho ai đọc. Việc đăng báo bài thơ này có lẽ gây nên điều gì hệ trọng lắm nên nàng đã hết sức tức giận: "Là giết đời nhau đấy biết không".

Hãy để ý thêm chút nữa. Sau khi nói xong chuyện Bài thơ đan áo, nàng liền quay sang chuyện những cánh hoa ti gôn: "Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét/Thì đem mà đổi lấy hư vinh". Chúng ta thấy rất rõ: người gây ra chuyện Bài thơ đan áo cũng chính là người nhắc đến những cánh hoa ti gôn. Trước thì nàng cố giấu nhưng bây giờ vì đang tức giận nên nhân nói chuyện này nàng nói qua chuyện kia một thể luôn.

Như vậy thì nhân vật ai, người liên quan đến những cánh hoa ti gôn (Trách ai mang cánh ti gôn ấy) và nhân vật anh, người yêu của nàng (Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ) chính là một.

Như vậy mối quan hệ là đã rõ. Thanh Châu chính là người yêu của T.T.Kh. Điều này cũng phù hợp với lời kể của nàng ở khổ thơ đầu trong Bài thơ thứ nhất rằng người yêu nàng là một chàng văn nghệ sĩ: "Thuở trước hồn tôi phơi phới quá/Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương/Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại/ Êm ái trao tôi một vết thương".

Thật sự ta đã giải mã được vấn đề quan trọng là tìm ra người ấy của T.T.Kh. Đến đây, chúng tôi muốn trở lại vấn đề ai đã viết Bài thơ đan áo. Như trên đã phân tích, bài thơ này có một số điểm khác biệt so với ba bài thơ kia về thể loại, về giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên, có một đặc điểm quan trọng nhất thì nó lại không khác, đó là phong cách sáng tác. Bài thơ đan áo cũng được viết bởi một ngôn ngữ dung dị rất "T.T.Kh": "Chị ơi nếu chị đã yêu/Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương". Chúng tôi cho rằng, bài thơ này cũng là của T.T.Kh nhưng được viết trước ba bài thơ kia rất lâu. Bạn đọc có thể thắc mắc: vì sao Bài thơ đan áo không hay như mấy bài thơ kia. Đó là do hoàn cảnh sáng tác. Trước đây, T.T.Kh chỉ sáng tác để gửi cho người chị nào đó của mình đọc nên có thể cảm xúc không trào dâng bằng viết cho người mình yêu.

Kỳ 6: Ai có thể là T.T.Kh?

Bà Trần Thị Vân Chung
Quá trình lần theo dấu vết con người bí ẩn này, chúng ta đã đưa ra được một số tiêu chí để xác định ai có thể là T.T.Kh. Thứ nhất, T.T.Kh phải là một người phụ nữ. Thứ hai, T.T.Kh phải là người thân thiết với nhà văn Thanh Châu. Cụ thể hơn, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu. Như vậy, ta phải loại bỏ tất cả các "ứng viên" là nam giới như Thâm Tâm, Nguyễn Bính, J.Leiba... cùng một số "ứng viên" nữ như Trần Thị Khánh...

Vậy còn lại ai sẽ là người phù hợp với T.T.Kh? Đến đây, có lẽ ta cần cho nhân vật thật xuất hiện để đối chiếu. Trong số những người phụ nữ được giả định trước đây, chỉ có một "ứng viên" duy nhất phù hợp với vị trí của T.T.Kh theo tiêu chí nói trên. Đó chính là bà Trần Thị Vân Chung, người được tác giả Thế Nhật phát hiện ra và tiết lộ trong cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? Đây là nhân vật đã gây ra nhiều tranh cãi trên công luận vào năm 1994.

Xin nhắc lại một số thông tin về bà Trần Thị Vân Chung. Bà sinh năm 1919 tại Thanh Hóa. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, lớn lên lập gia đình với một người đỗ cử nhân luật, có lúc làm quan tri huyện, về sau làm đến chức Tổng trưởng Quốc phòng trong chế độ Sài Gòn.

Về văn chương, bà Vân Chung là người thường hay làm thơ, viết văn với bút danh Vân Nương, Tam Nương... Bà tham gia nhóm thơ Quỳnh Dao - nhóm thơ của những người phụ nữ đài các trưởng giả lúc trước ở miền Nam, thường làm thơ xướng họa với nhau như một sinh hoạt tinh thần. Nữ sĩ Mộng Tuyết cũng là một trong những chủ soái của nhóm thơ này. Bà đã có một số thơ đăng trên các báo ở Sài Gòn trước năm 1975. Năm 1986, bà cùng các con xuất cảnh sang Pháp. Bà vẫn tiếp tục làm thơ đăng trên các tạp chí tiếng Việt ở nước ngoài.

Năm 1994, khi cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? ra đời, nêu đích danh tên tuổi bà Vân Chung, thì chính bà Vân Chung đã công khai lên tiếng phủ nhận mình là T.T.Kh. Thư của bà từ Pháp gửi về được đăng tải trên Thanh Niên và một số tờ báo khác. Ngoài ra có một số độc giả cũng viết bài gửi đến báo, không tin bà Vân Chung chính là T.T.Kh. Điều này đã làm nhiều người ngờ vực tính chân thực của cuốn sách nói trên. Bởi vì cuốn sách được viết ra dựa trên sự tiết lộ vô tình của một người khác là bà Thư Linh, người quen biết với bà Vân Chung sau năm 1975 chứ tác giả không có thông tin trực tiếp.

Nhưng bên cạnh đó, một số tác giả lại ủng hộ việc cho rằng T.T.Kh chính là Trần Thị Vân Chung. Chẳng hạn tác giả T.N trên Báo Tuổi Trẻ chủ nhật ngày 2/10/1994 viết: "Đưa ra tên tuổi thật của T.T.Kh, với đầy đủ cuộc đời, nguồn gốc. Một nghi án văn học đã quá lâu, nay lỡ biết rồi thì không thể không công bố". Tác giả Ngọc Tình trên Báo Sài Gòn Giải Phóng vào ngày 9.10.1994 cũng viết: "Cuối cùng bí mật đã được phát giác, tác giả cuốn sách giải trình đầy đủ tư liệu hơn nửa thế kỷ qua". Báo Lao Động số ra ngày 13/10/1994 viết: "Một nghi án văn học đã gần 60 năm quanh một chùm thơ nổi tiếng của tác giả T.T.Kh. Đến nay, Thế Nhật với những tư liệu và chứng cứ rõ ràng mới bật mí được câu chuyện tình lãng mạn bậc nhất trong văn học Việt Nam này".

Các ý kiến của người quan tâm rất không thống nhất với nhau như vậy. Riêng chúng tôi, khi xem xét lại tất cả các vấn đề, thật đáng ngạc nhiên là chúng tôi thấy bà Vân Chung có một nhân thân phù hợp với T.T.Kh đến kỳ lạ.

Trước hết, bà Vân Chung chính là người yêu của nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn. Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh Châu xác nhận - một điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người trong cuộc. Đây là một điều tối quan trọng, đáp ứng tiêu chí cần phải có của T.T.Kh (xin nhấn mạnh lại một lần nữa, bất cứ nhân vật nào, muốn là "ứng viên" để vào vị trí T.T.Kh thì theo quan điểm của chúng tôi, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu).

Nhà văn Thanh Châu cùng sinh trưởng ở thị xã Thanh Hóa như bà Vân Chung, gia đình thuộc dòng dõi quan lại nhưng đến thời của ông thì gia cảnh sa sút. Ngược lại, gia đình bà Vân Chung lúc đó làm kinh doanh buôn bán, kinh tế khá giả hơn rất nhiều.

Thanh Châu là bạn của người anh ruột bà Vân Chung. Ông có dịp trò chuyện với cô em của người bạn mình là bà Vân Chung khi đi trên chuyến tàu từ Hà Nội về Thanh Hóa. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khởi đầu cho một cuộc tình đầy nước mắt về sau.

Trở về Thanh Hóa, hai người tiếp tục qua lại với nhau và tình cảm ngày càng thắm thiết. Gia đình hai bên cũng đều biết việc này nhưng cuộc tình duyên không đi đến đoạn kết vì vấn đề môn đăng hộ đối. Sau cú sốc này, Thanh Châu ra Hà Nội sống, Vân Chung ở lại quê nhà, một thời gian sau thì đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ trong Bài thơ thứ nhất: "Ở lại vườn Thanh có một mình/Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh/Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo/Yêu bóng chim xa nắng lướt mành".

Ra Hà Nội một thời gian, Thanh Châu nhận được tin tức từ gia đình nhắn ra cho biết bà Vân Chung chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng. Câu thơ tiếp theo của T.T.Kh viết đúng như hoàn cảnh của bà Vân Chung: "Và một ngày kia tôi phải yêu/Cả chồng tôi nữa lúc đi theo/Những cô áo đỏ sang nhà khác/Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều".

Mối tình giữa Thanh Châu và Vân Chung là một mối tình văn chương cao đẹp vì cả hai người đều có tâm hồn văn nghệ sĩ. Truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu thể hiện đầy chất lãng mạn và những bài thơ của Vân Chung viết sau này cũng thật lãng mạn mà chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc trong kỳ tới để tiện so sánh với thơ T.T.Kh.

Sau khi chia tay, hai người không có điều kiện gặp lại nhau nữa vì đến năm 1954, hai miền Nam Bắc chia đôi, Vân Chung đã cùng chồng vào Nam còn Thanh Châu ở lại quê nhà. Mãi cho đến bốn mươi năm sau, khi miền Nam giải phóng, Thanh Châu mới tìm vào Sài Gòn để thăm lại cố nhân.

Nhà văn Thanh Châu đã trực tiếp xác nhận chừng đó thông tin với chúng tôi. Nhưng ông không đồng ý khi chúng tôi đặt vấn đề rằng T.T.Kh chính là bà Trần Thị Vân Chung. Vì vậy, chúng ta hãy tiếp tục so sánh đối chiếu.

Kỳ cuối: Sự phù hợp giữa Trần Thị Vân Chung và T.T.Kh

Chúng ta thấy, trước hết việc giả định Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh đã giải quyết được nhiều vướng mắc trong nghi án. Chẳng hạn chi tiết "vườn Thanh" làm nhiều người tranh cãi kịch liệt từ bao năm nay sẽ trở nên rất đơn giản khi đưa vào đây. Nếu chúng ta chấp nhận Vân Chung là T.T.Kh thì vườn Thanh sẽ được hiểu đơn giản hơn: đó là một cách nói hoa mỹ để chỉ thị xã Thanh Hóa, nơi mà hai người có nhiều kỷ niệm trong thời gian quen biết nhau.
Chúng ta hãy xét về nhân thân bà Vân Chung để so sánh với T.T.Kh. Trong phần phân tích thơ T.T.Kh, chúng ta đã đưa ra nhận định, tác giả này phải là một người sinh trưởng trong một gia đình khá giả, thuộc tầng lớp tân học. Điều này rất đúng với trường hợp của bà Vân Chung. Và Thanh Châu cũng là một người tân học: trước học cao đẳng tiểu học Vinh, sau ra Hà Nội học trường đạo.

Một điều quan trọng nữa là tuổi của "ứng viên". Theo xác nhận của chính bà Vân Chung, thì bà sinh năm 1919, tính đến năm 1937 là bà đã 18 tuổi tròn. Đó là tính theo tuổi Tây. Còn theo tuổi ta thì đã 19. Như vậy bà hoàn toàn có thể lấy chồng hoặc chồng đi dạm hỏi vào trước năm 1937. Vậy thì đến tháng 9/1937, nếu là T.T.Kh thì bà có thể viết trong Hai sắc hoa ti gôn: "Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/Trời ơi! Người ấy có buồn không".

Cũng cần nhắc lại là khi bà Vân Chung lấy chồng, ông Thanh Châu ở Hà Nội chứ không ở quê nhà. Vì thế cho nên Vân Chung mới nghĩ rằng ông không biết việc bà đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ "Nếu biết rằng...".

Đến đây ta tạm dừng việc so sánh đối chiếu lại một chút để đọc lại những trang viết của ông Thanh Châu. Liên quan đến nghi án này, Thanh Châu đã viết cả thảy hai tác phẩm. Một là truyện ngắn Hoa ti gôn mà từ đó có thơ của T.T.Kh "họa" lại. Hai là bài tùy bút Những cánh hoa tim vào năm 1939 để kết lại câu chuyện. Ta thấy gì trong những trang viết của Thanh Châu?

Khi xa Vân Chung ra Hà Nội, Thanh Châu đã hết sức sầu thương về mối tình ấy. Trong bài tùy bút Những cánh hoa tim đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, ông viết: "Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái. Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu". Đó chính là sự chua xót về mối tình giữa ông và Vân Chung mà ngày nay ông đã xác nhận.

Vào thời gian này, tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh cũng vừa mới ra đời. Đó là cuốn tiểu thuyết luận đề, có ý nghĩa đả phá những tập tục hôn nhân gia đình phong kiến ngự trị ngàn năm trong xã hội Việt Nam. Thế nhưng Nhất Linh cũng không sắp xếp nổi cho nhân vật Loan của mình trốn đi với Dũng mà phải để cho hai người chia tay nhau, Loan lên xe hoa về nhà chồng, Dũng cất bước ra đi chốn hải hồ. Ấy là vì lúc này hoàn cảnh xã hội chưa cho phép nhà văn thực hiện cuộc cải cách quá mạnh mẽ như vậy, dù là trong tiểu thuyết. Bởi quan niệm cổ xưa còn hết sức nặng nề. Như thế để thấy rằng, vào thời kỳ 1935 - 1937, những cô gái dù tân học đến mấy cũng rất khó có thể thoát ra được ngoài vòng cương tỏa của chế độ gia đình phong kiến. Tình cảnh của Thanh Châu và Vân Chung có lẽ cũng tương tự như tình cảnh của Dũng và Loan.

Trong truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu, nhân vật chính là họa sư Lê đã rủ Mai Hạnh trốn đi Nhật để cùng nhau xây cuộc đời mới. Đó là lòng khát khao của những người đang yêu trước cảnh ngang trái tình duyên. Tuy nhiên, nhân vật Mai Hạnh không đủ can đảm thực hiện vì "em không phải là loại đàn bà có thể vượt hết được những khó khăn như anh tưởng", vì "em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em". Những chi tiết, hình ảnh tiếp theo trong truyện ngắn mang đầy ẩn ý. Chẳng hạn như chi tiết nhân vật Mai Hạnh chết đi, chi tiết dây hoa ti gôn trong thư báo tang rơi ra, chi tiết họa sư Lê đặt bó hoa lên nấm mộ nàng... Những chi tiết ấy mang đầy sự trách móc, hờn giận, đớn đau. Nửa phần muốn chôn chặt tình yêu xuống đáy mồ sâu, nửa phần nhớ thương quay quắt cuồng dại mãi không thôi. Ta tin rằng những nỗi niềm của nhân vật chính là nỗi niềm của tác giả. Những hoài niệm, u uất của nhân vật về những "cánh hoa tim vỡ" là của Thanh Châu.

Năm 1939, sau khi câu chuyện T.T.Kh đã đi qua, Thanh Châu cho đăng bài tùy bút Những cánh hoa tim trên Tiểu thuyết thứ bảy. Bài tùy bút này, một mặt ông phủ nhận mọi sự dính líu đến T.T.Kh, một mặt ông giãi bày tâm sự của mình.

Chính ra Thanh Châu đã bị ám ảnh bởi những cánh hoa ti gôn khi ông viết trong Những cánh hoa tim: "Một mùa thu cũ, tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng nó đi trước một giàn hoa. Đó là thời kỳ tôi ốm dậy, buổi chiều thường đi thơ thẩn trong sân". Ta nhớ rằng, tác phẩm Hoa ti gôn là truyện ngắn nhưng tác phẩm Những cánh hoa tim là tùy bút. Mà tùy bút là nói chuyện thật chứ không nói chuyện hư cấu. Thanh Châu đã vò nát những cánh hoa ti gôn vì lẽ gì? Phải chăng vì nó đã từng là "chứng nhân" một thời của tình yêu giữa ông và Vân Chung? Thanh Châu viết tiếp trong bài: "Bỗng nhiên, nhìn những cánh hoa đỏ trong tay, tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu".

Trong những phần trước, chúng ta đã nhắc đến chuyện những cánh hoa ti gôn. Giờ đây ta lại thấy rõ hơn chút nữa. Như vậy chính ra Thanh Châu là người đầu tiên nhìn thấy bông hoa ti gôn có hình quả tim vỡ chứ không phải nhân vật truyện ngắn họa sư Lê. Giữa Thanh Châu và Vân Chung có thể đã có nhiều kỷ niệm về loài hoa "đỏ như màu máu thắm phai" này. Cho nên Thanh Châu trong một đêm buồn bã nhớ nhung hoài niệm về mối tình xưa, xót xa nghĩ lại những cánh hoa tàn úa thuở nào, đã không kìm nổi lòng mình mà cầm bút viết nên truyện ngắn để giải tỏa cảm xúc, cũng là để gửi về "vườn Thanh" cho người xưa.

Vào thời kỳ 1937, những cô gái có tâm hồn văn chương lãng mạn đều tìm đọc tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy. Vì thế truyện ngắn này đã đến tay Vân Chung ngay lập tức. Đọc xong truyện ngắn, Vân Chung chắc chắn cũng đau lòng không kém. Trong tình cảnh như thế, thì một người như Vân Chung hiển nhiên phải làm thơ để gửi lại cho Thanh Châu. Và những bài thơ ấy, rất có thể là những bài Hai sắc hoa ti gôn, Bài thơ thứ nhất, Bài thơ cuối cùng lắm chứ? Tại sao không?

Đến đây chúng tôi muốn trở lại với riêng bà Vân Chung. Trước đây có người đưa ra một số "ứng viên" nữ, nhưng không thấy nhắc đến lý lịch văn học của những người đó. Chúng ta nhớ rằng, nếu là T.T.Kh thì dứt khoát phải là một người cầm bút. Ít ra là phải như bà Vân Chung, có thơ in thành tập, có sinh hoạt văn học nơi này nơi kia, có thơ đăng báo...
Chúng tôi đã cố gắng sưu tầm được một ít thơ của bà Vân Chung để bạn đọc có thể đánh giá chúng. Trước hết xin đọc vài câu thơ của bà Vân Chung viết về mùa thu:
Nhớ những mùa thu trước
Êm cảnh thanh bình
Trăng ngà trải lụa thiên thanh
Khuôn hoa e ấp trên cành thắm tươi
Thế rồi
Bão táp mưa sa
Trăng tàn hoa tạ
Mông mênh sầu ngập biển đời
Trời thu lộng gió để người sầu thương
(Bài thơ cuối thu, 1960)
Hơi may se cả bầu trời
Hàng cây lá đã vàng phơi ít nhiều
Nhà ai một mái tịch liêu
Chìm trong làng vắng tiêu điều chiêm bao
(Vào thu - 1993)

Bạn đọc thấy thế nào về những câu thơ này? Có chút gì là của T.T.Kh không?
Một điều đặc biệt, bà Vân Chung luôn luôn làm thơ về mùa thu. Mười bài thơ thì có đến năm bài bà nhắc đến mùa thu rồi. Dường như bà bị ám ảnh bởi mùa thu. Đây cũng là một điểm chung với T.T.Kh.

Thơ của bà Vân Chung sau năm 1954 cho đến nay không phải là thơ hay. Hầu hết đều bình thường. Chính vì vậy mà nhiều người cho rằng bà Vân Chung không thể là T.T.Kh vì thơ bà không xứng tầm với thơ T.T.Kh. Lập luận như thế là không đúng. Thật ra không có nhà thơ nào có thể làm thơ hay suốt đời. Nhiều nhà thơ nổi tiếng nhưng về sau vẫn làm những câu thơ rất tầm thường.

Một bài thơ hay phải gắn liền với một hoàn cảnh đặc biệt. Không có hoàn cảnh đặc biệt thì khó có thể có thơ hay. Chẳng hạn Hàn Mặc Tử sẽ không thể nào sáng tác được bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ nếu người đẹp Hoàng Hoa không gửi vào cho chàng một tấm hình chụp phong cảnh bến đò Vỹ Dạ lúc chàng đang tuyệt vọng chán chường trên giường bệnh. Nếu Hữu Loan không có nỗi đau về người vợ vắn số thì không thể nào có được bài thơ Màu tím hoa sim để đời. Nếu Vân Chung là T.T.Kh thì cũng thế. Chỉ trong hoàn cảnh tình duyên ngang trái lỡ làng với người yêu một cách đớn đau tột cùng thì mới sáng tác được những câu thơ như viết bằng máu thịt ấy. Đó là những tác phẩm đỉnh cao của một người làm thơ. Đó là tinh hoa tinh huyết. Còn như Vân Chung sau này, sống một cuộc đời bình thường bên cạnh người chồng giàu sang của mình, làm sao sáng tác được thơ hay, dù trước đó có là T.T.Kh đi chăng nữa. Đó là chuyện bình thường và hợp lý.

Đến đây chúng tôi muốn thưa đôi lời với nhà thơ Vân Chung và nhà văn Thanh Châu cùng quý bạn đọc. Loạt bài này cũng như cuốn sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh sắp xuất bản của chúng tôi chỉ là những giả định. Tuy nhiên, dù giả định nhưng nó vẫn gợi lại những vết thương cũ trong lòng hai người. Đó là một điều đáng tiếc. Tuy vậy chúng tôi không thể không viết lại câu chuyện này. Vì nó là khát khao của người yêu thơ, muốn biết T.T.Kh là ai, vì ai mà để lại cho đời những vần thơ xao xuyến cõi lòng ấy. Chính khi xưa, Hoài Thanh cũng đã từng nhắc trong Thi nhân Việt Nam: "Bốn năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng. Ai biết "con người vườn Thanh" bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối?". Cho đến nay, đã qua bảy mươi năm, có lẽ người đã quyết định "ôm nỗi buồn riêng về nơi chín suối" rồi. Vì thế giả định này nếu đúng chắc người cũng không lên tiếng tự nhận mình là T.T.Kh. Vậy xin hãy xem đây như là một việc làm vì lòng mến yêu con người đã để lại cho đời những vần thơ say đắm ấy để có câu chuyện này.

Trần Đình Thu
 

delldell

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Cám ơn bạn rất nhiều từ các bài post về T.T.Kh.!
 

minhpc

Active Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Cám ơn bác đã chia sẻ kiến thức về các ca sỹ, đôi khi vào diễn đàn chỉ kéo các cd của các ca sỹ về mà cũng không bao giờ để ý đến tiểu sử và tâm sự của họ. Cám ơn bác nhiều :))
 

hbc

Moderator
Ngày đầu nghe bài Hoa Ti Gôn trong Album Như Quỳnh 1 thấy cũng hay hay nhưng ko hiểu được hoàn cảnh bài thơ đó ra đời và chỉ thấy ghi là TTkh, khi đọc những dòng câu chuyện thì mới hiểu được nội dung của bài hát (bài thơ đã phổ nhạc). Thanks,
 
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

hình như còn thiếu cố ca - nhạc sĩ Duy Khánh
 

co1972nguyen

Well-Known Member
Ðề: Những câu chuyện về ca sỹ Hải ngoại

Randy​
ca-si-thang-be-am-tham-di-vao-ngo-nho-tim-nguoi-me-viet.jpg
Ca sĩ Randy và cuộc kiếm tìm người mẹ Việt
Năm 1992, trong làng giải trí cộng đồng người Việt ở Mỹ bất ngờ xuất hiện một chàng trai Mỹ đen tên Randy có giọng ca buồn ảo não. Giọng ca của anh đã đưa ca khúc "Nó" chu du khắp cộng đồng người Việt trên thế giới, về tận các miệt vườn Việt Nam…
Giọng ca mộc, không trau chuốt như lời tự sự trào ra từ cõi lòng của Randy đã khiến những khán thính giả phải rơi nước mắt. Giai đoạn đó, hầu như đi đâu người ta cũng nghe giọng anh nỉ non: "Thằng bé âm thầm đi vào ngõ nhỏ…".

Từ đầu năm 2012, người ta thấy bóng anh thấp thoáng khắp các đường phố Hà Nội, Quảng Nam, TP HCM để… tìm người mẹ ruột và cội nguồn bí ẩn của mình. Sau nhiều lần dò hỏi, chúng tôi gặp được anh tại phòng trà ca nhạc Tiếng Xưa tại TP HCM. Anh đã dành cho chúng tôi một ngày trò chuyện về thân phận của mình.

Nuỗi buồn con lai

Chuyến về Việt Nam lần này là chuyến thứ 4 trong hành trình tìm cội nguồn bí ẩn của Randy - ca sĩ mang hai dòng máu Mỹ - Việt. Chuyến đầu tiên vào năm 2007. Chuyến này, anh đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất đúng vào ngày giao thừa tết Dương lịch 2011-2012.

Từ khi bắt đầu nhận biết mình tồn tại trên cõi đời này, anh đã thấy mình mang tên Trần Quốc Tuấn và đang sống trong một cô nhi viện của nhà thờ. Như bao đứa trẻ mồ côi khác, anh sống những ngày ấu thơ vô ưu trong vòng tay thương yêu của những dì sơ. Mặc dù có cái tên Việt chính thức trong khai sinh là Trần Quốc Tuấn, sinh năm 1971 nhưng anh vẫn lờ mờ nhận ra gốc gác hai dòng máu Mỹ - Việt của mình qua lời nói của những người xung quanh: "Đó là thằng nhóc lai Mỹ đen".

Theo chính sách của Viện mồ côi, các dì sơ tìm cho anh một gia đình nhận làm con nuôi. Cuối năm 1975, một gia đình nông dân ở thôn 3, Cẩm Hà (nay là Thanh Hà), Hội An đã nhận nuôi anh. Người mẹ nuôi tên Nguyễn Thị Nữ và cha nuôi tên Nguyễn Húy. Họ có tất cả 7 người con gồm 5 trai 2 gái nhưng không hiểu sao, tất cả những người con trai trong gia đình này đều chết non. Họ xin nhận anh làm con nuôi để khỏa lấp nỗi đau mất con. Dù mang tiếng là con nuôi nhưng anh chỉ được phép gọi mẹ nuôi bằng "thím" và cha nuôi bằng "chú".

Thời điểm đó, đất nước đang trong giai đoạn phục hồi, nền kinh tế bị khủng hoảng do di chứng chiến tranh, nhiều gia đình khu vực nông thôn thiếu đói. Do cái nghèo cái khó bủa vây, bà mẹ nuôi phải lãnh bò về cho anh chăn thuê để kiếm thêm tiền gạo. Do mặc cảm thân phận con lai, anh mang ý nghĩ mình như một người ngoài hành tinh lạc loài giữa trái đất nên anh tự xa lánh mọi người, chui rúc vào rừng hoang, ruộng vắng, buồn một mình.

Đến năm 1983, khi nghe tin Chính phủ Mỹ có chính sách cho những gia đình nuôi con lai Mỹ ở Việt Nam nhập cư. Một gia đình người Hoa ở Hội An muốn nhập cư Mỹ nên đề nghị mẹ nuôi giao anh cho họ nhận làm con nuôi. Đổi lại, họ trao cho mẹ nuôi anh 3 cây vàng. Đang vật vã với cái nghèo, cái khổ, người mẹ nuôi đồng ý giao anh. Anh nhập hộ khẩu vào gia đình người Hoa này để hợp thức hóa thủ tục xin di trú vào Mỹ. Dù nhận làm con nuôi nhưng gia đình người Hoa này hoàn toàn không có chút thiện cảm nào với anh. Để chứng minh "công nuôi dưỡng", họ cho anh đi học. Đến năm 1987, lại có nguồn tin cho biết Chính phủ Mỹ bỏ chính sách nhập cư trẻ lai, gia đình người Hoa này cho rằng mình "đầu tư nhầm chỗ" nên không cho anh đi học nữa. Họ hoàn toàn bỏ mặc anh. Mang nỗi mặc cảm, tự ti thân phận anh lang thang đi tìm việc làm thuê để tự nuôi sống mình.

Anh xin vào làm thuê cho một xưởng chế biến xì dầu để có cơm ăn, chỗ ở và nhận chút tiền lương. Năm 1987, cha nuôi anh bị chứng ung thư bộc phát. Lần đầu tiên đem món tiền làm thuê về thăm cha nuôi, anh rất hạnh phúc. Trong cơn đau, cha nuôi muốn được ăn tô bún bò. Anh dùng đồng tiền của chính mình đi mua bún bò cho ông. Ông vừa ăn vừa khóc vì sung sướng. Đang ăn, ông ho ra máu rồi qua đời.

Đến năm 1990, gia đình người Hoa tất tả đi tìm anh về vì có thông báo chính thức từ Đại sứ quán Mỹ. Anh cùng gia đình người Hoa này được sang California định cư. Những tưởng chính phủ của "quê cha" sẽ dang tay chào đón giọt máu của những người "chết vì lá cờ Mỹ", không ngờ, họ chẳng đoái hoài gì đến thân phận của hơn 20.000 đứa trẻ lai ở chiến trường Việt Nam. Anh chỉ nhận được tấm "thẻ xanh" như những người lưu vong khác. Khi gia đình người Hoa đã đạt được mục đích, thì họ cũng chẳng thiết đoái hoài đến anh nữa.

Theo quy chế, hàng tháng Chính phủ Mỹ trợ cấp cho gia đình người Hoa đó một khoản tiền tính theo số đầu người. Họ sòng phẳng trao cho anh 220 USD. Anh phải trả 100 USD cho gia đình này để được ngủ ở phòng khách, 80 USD còn lại cho tiền ăn.

Lạ khí hậu, anh đổ bệnh nhưng không ai chăm sóc. Nằm bẹp gí trong căn phòng khách cô đơn, nhớ về quê mẹ Việt Nam, anh khóc tủi thân một mình. Lạc lõng giữa đất Mỹ, anh lại muốn quay về quê mẹ nhưng không thể. Sau 7 tháng làm quen môi trường mới, anh tự mò mẫm đi làm hồ sơ xin nhập học. Nhờ bản tính hòa đồng, thân thiện anh có được nhiều bạn bè ở ngôi trường này.

Năm 1992, anh tham gia một cuộc thi karaoke có 80 thí sinh và đạt được giải khuyến khích. Phấn khích, anh tiếp tục tham gia cuộc thi hát karaoke được tổ chức ở quán cà phê Văn - California, lần này anh đã đoạt giải nhất với ca khúc "Lần đầu cũng là lần cuối". Giọng ca lạ, u buồn của anh đã thu hút sự chú ý của một nhạc sĩ (nay đã qua đời). Nhờ sự giới thiệu của nhạc sĩ ấy mà anh được Trung tâm Hải Âu ký hợp đồng mời hát. Trung tâm Hải Âu giao cho anh ca khúc "Nó". Lần đầu tiên thể hiện ca khúc này, anh cảm nhận được "thằng bé" mồ côi trong nhạc phẩm chính là thân phận thật của mình. Đồng cảm với ca khúc, anh đã hát như khóc than cho chính số phận con lai của mình. Những uất ức, buồn tủi ứ đọng từ thuở ấu thơ tràn hết qua giọng ca của anh. Những người lần đầu nghe anh hát đều rơi lệ thổn thức. Có người đã ôm lấy anh khóc òa.

Kiểu hát tự sự bằng giọng mộc, tự do phiêu, không cầu kỳ của anh đã khiến làng ca nhạc Việt ở hải ngoại có thêm màu sắc mới. Anh bắt đầu xuất hiện thường xuyên ở các sân khấu ca nhạc Việt ở Mỹ. Ở buổi hát nào anh cũng chọc vào tuyến lệ của người nghe.

Sau đó, anh cùng nữ ca sĩ Mỹ Huyền song ca nhạc phẩm "Ai cho tôi tình yêu". Hai giọng ca buồn gặp nhau đã trở thành một hiện tượng mới. Trung tâm Hải Âu thực hiện độc quyền với anh 6 album đơn ca và 3 album song ca với ca sĩ Mỹ Huyền. Sau này, anh được một số ca sĩ khác như Tuấn Vũ, Phượng Mai, Ngọc Sơn mời hát chung… Thời điểm vàng son, trung bình mỗi tháng anh thu nhập khoảng 20.000 USD. Đời anh rẽ sang trang mới, đầy ánh hào quang.

Không còn vật lộn với miếng ăn, chỗ ở nữa, anh có thời gian để nghĩ đến quá khứ của mình. Câu hỏi "mẹ là ai ở quê nhà" bắt đầu trào dâng trong tâm khảm anh. Những đêm cô đơn quạnh hiu, anh tưởng tượng mẹ ruột của mình là một bà lão mặc áo bà ba, tóc sương, hiền hậu. Cứ mỗi dịp đến ngày Mother's day, anh thèm được tặng quà cho mẹ như mọi người. Nỗi day dứt ấy xui khiến anh tự sáng tác một ca khúc về mẹ. "Cuộc đời tôi nơi đây, bước chân trên đường xa lạ. Dù là nơi quê cha, vẫn mang nhiều chua xót... Ôi nói sao cho vừa, bao nhớ nhung trong tim tràn dâng...".

Anh đến với nghiệp hát như một sự tình cờ của số phận. Anh không có chút kiến thức nhạc lý khi đã đăng quang trên sân khấu. Vì thế, ca khúc "Mẹ" của anh cũng chỉ nằm trong ý tưởng sáng tác. Anh quyết định đi học một lớp nhạc lý căn bản tại trường Golden West để có thể tự sáng tác. Đến năm 2000, anh mới hoàn chỉnh ca khúc "Mẹ". Ca khúc "Mẹ" của anh lập tức được nhiều người đón nhận. Ca khúc này anh sáng tác bằng tất cả nỗi niềm khát khao của một đứa trẻ mồ côi.

Dù sống trên đất Mỹ, anh chưa bao giờ có ý định tìm cha mình là ai, mặc dù, chuyện đó hoàn toàn không khó. Ở Mỹ, muốn tìm cha, anh chỉ việc đến Trung tâm lưu trữ hồ sơ lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam thử ADN là có kết quả. Nhưng anh không làm. Anh hận cuộc chiến tranh của quê cha đã tạo ra những nghịch cảnh ở quê mẹ. Anh căm ghét cái giả dối, đạo đức giả của chính phủ quê cha lúc bấy giờ, với ý nghĩ: "Họ thực hiện các chính sách đón con lai để kiếm phiếu bầu của cử tri chứ họ không hề đoái hoài đến số phận của những con người này". Trong anh chỉ có duy nhất tình yêu quê mẹ đã cưu mang đùm bọc anh từ thuở lọt lòng. Anh hướng lòng về quê mẹ trong những ca khúc buồn và tự hứa sẽ về Việt Nam tìm mẹ ruột.

Dấu tích ở viện mồ côi

Chân dung mẹ nhà ngoại cảm vẽ giúp Randy.
Trở thành ca sĩ nổi tiếng, anh đi diễn khắp các cộng đồng người Việt trên thế giới. Sau mỗi lần hát xong, anh luôn nhắn nhủ lời tìm mẹ với khán giả. Nhiều lần anh tự hỏi rồi tự trả lời với lương tâm mình: Điều tôi cần duy nhất trong đời này là chính thức một lần gặp mẹ, được cảm nhận tình cảm máu mủ ruột rà.

Năm 2007, sau nhiều lần thu xếp, anh quyết định về Việt Nam tìm về cội nguồn thật của mình. Nơi đầu tiên anh tìm đến là nhà mẹ nuôi đã hơn 80 tuổi để hỏi thăm một số thông tin về gốc gác của mình.

Lần theo thông tin của mẹ nuôi, anh đến Viện mồ côi Thánh Tâm ở Đà Nẵng. Sơ Diệu Thới ở Viện Thánh Tâm đã đặt trước mặt anh một quyển sổ ghi chép khá dày. Anh và sơ dò tìm suốt ngày mới tìm ra cái tên Trần Quốc Tuấn của anh. Theo ghi chép, anh sinh vào ngày 25/1/1971 tại Bệnh viện Hải Châu, Đà Nẵng. Một tháng sau, tức ngày 26/2/1971, chính mẹ ruột của anh mang anh đến gửi vào Viện. Tiếc rằng, tên mẹ ruột của anh không được ghi vào sổ. Bí mật này, có lẽ bà sơ ghi chép nắm giữ, nhưng bà đã qua đời. Cũng theo thông tin trong sổ ghi chép, ngày 15/11/1975, anh được giao cho người mẹ nuôi mà anh biết.

Sơ Diệu Thới phân tích, tất cả những đứa trẻ mồ côi không lai lịch, khi đến Viện đều được mang tên lót là "Bảo" và mang họ của người tiếp nhận. Riêng anh mang tên lót là "Quốc", chứng tỏ, khi vào Viện, anh đã có tên sẵn do chính mẹ ruột đặt cho. Điều đó cho anh chút hy vọng mong manh rằng, mẹ anh đang sống đâu đó trên đất nước Việt Nam và anh vẫn còn có cơ hội tìm gặp mẹ. Nhưng những dòng chữ ít ỏi lưu trong sổ, không hề có chỉ dấu nào để anh lần ra tông tích người mẹ. Anh bật khóc như đứa trẻ bị số phận đời chối bỏ. Anh còn khóc vì lần đầu tiên biết thân phận, gốc gác thật của mình.

Anh đi tìm nhà ngoại cảm Đoàn Việt Tiến với hy vọng mong manh. Nhà ngoại cảm cho biết, mẹ anh đã chết. Qua khả năng của mình, nhà ngoại cảm Đoàn Việt Tiến đã vẽ chân dung mẹ cho anh. Đi đâu anh cũng mang bức ảnh này theo. Nhà ngoại cảm hứa sẽ tìm mộ mẹ cho anh. Trong tâm khảm mình, anh không tin mẹ đã chết mà bà vẫn sống đâu đó trên đất nước Việt Nam này. Chính sự khao khát về mẹ đến vô bờ như vậy nên mỗi lần về Việt Nam anh vẫn mòn mỏi kiếm tìm…

Sau 4 lần về Việt Nam, chuyến này, anh dự định ở lại 2 năm để tìm cho ra tông tích mẹ.

Randy chia sẻ: "Tôi vẫn tin rằng, khi giao tôi cho Viện cô nhi, mẹ tôi rất khổ đau. Có lẽ do áp lực gia đình, áp lực chiến tranh, mẹ tôi buộc lòng phải làm thế. Nếu mẹ nhẫn tâm, có thể mẹ bỏ tôi đâu đó ngoài đường. Mẹ mang tôi đến tận Viện cô nhi, tức là mẹ mong tôi được các sơ chăm sóc tốt, sống nên người".

Anh tự hào về dòng máu Việt trong huyết quản của mình, thế nên trong tất cả các sáng tác của mình, anh đều hướng về quê mẹ. Ca khúc "Ước gì cho quê hương" là nỗi lòng thật của anh dành cho quê mẹ: "Ước mơ ngày trở về quê mẹ hiền tôi thương nhớ. Đường làng cây đa đó có bao giờ tôi quên. Ta cùng nhau ước cho quê hương hết những nhọc nhằn, cho mọi người ta thương ta mến…"


Có một bà mẹ Việt đang kiếm tìm đứa con lai​
“Linh cảm đã khiến tôi nghĩ mình có mối liên hệ thiêng liêng nào đó đối với Randy. Tôi đã dò hỏi mọi người về thân phận của Randy. Khi biết Randy là con lai tôi bàng hoàng”…

Sau khi bài viết “Ca sĩ Randy và cuộc kiếm tìm người mẹ Việt”, PV nhận được nhiều cuộc điện thoại của độc giả cho biết, họ đã nhận diện được “mẹ” của ca sĩ này. Khi chúng tôi hỏi về nhân thân của những bà mẹ này thì họ trả lời không trùng khớp với những thông tin "nhạy cảm" mà chúng tôi biết. Bất ngờ, một bà lão 72 tuổi đang cư ngụ ở Trảng Bom, Đồng Nai đích thân gọi điện thoại cho chúng tôi. Bà cho rằng, có thể ca sĩ Randy chính là đứa con mà bà đã rũ bỏ cách nay hơn 40 năm. Chúng tôi đến tận nơi ở của bà để tìm hiểu thực hư.

Nhớ một thời loạn lạc...

Bà sống một mình trong căn phòng trọ khoảng 12m2. Tài sản có giá trị duy nhất trong căn phòng là chiếc tivi cũ kỹ và có lẽ cả những dĩ vãng đau lòng...
Nét phong sương vẫn còn phảng phất đâu đó trên mái tóc bạc trắng, trong ánh mắt đượm buồn và trong giọng Huế nho nhã của bà lão đã bước sang tuổi xưa nay hiếm. Cách trò chuyện của bà khiến chúng tôi liên tưởng mình đang tiếp xúc với một trí thức hồi hưu chứ không phải một người chất chứa trong lòng ký ức thời trẻ lang bạt kỳ hồ. Bà cho biết, đây là lần đầu tiên trong đời bà chia sẻ những góc khuất đời tư mà bà giữ bí mật suốt 40 năm qua...

Bà tên D.T.H., sinh năm 1940 tại Huế trong một gia đình trọng nho hơn mạng, trọng lễ hơn tài. Bà có rất đông anh chị em. Cha bà làm việc cho chính quyền chế độ trước và được điều về Sài Gòn công tác vào khoảng năm 1963. Cha bà đã mang theo cái gia đình đông đúc ấy vào theo. Cô con gái xứ Huế lọt thỏm giữa chốn phồn hoa đô hội đã nhanh chóng sa ngã vào những cám dỗ cuộc đời. Giận đứa con gái không vâng lời, cha mẹ đã thẳng tay đuổi bà ra khỏi mái ấm. Thay vì lạy cha mẹ tạ lỗi, cô con gái 25 tuổi cương quyết ra đi để tìm cuộc sống riêng cho mình bằng hai bàn tay trắng, không một đồng lận lưng.
Nghe lời giới thiệu của bạn bè, cô gái xứ Huế vô gia cư xin vào làm bồi phòng ở cư xá Trương Minh Giảng. Đó là một chung cư dành cho quân nhân, nhân viên của phi trường Tân Sơn Nhất. Những ngày làm ở đây, bà quen với một quân nhân Mỹ gốc Phi có cái tên thường gọi là Kha Lưa. Chàng trai Mỹ xa gia đình luôn mang nỗi sợ chiến tranh và cô gái tứ cố vô thân nhanh chóng đồng cảm rồi yêu nhau lúc nào chẳng hay. Khi cô gái có bầu được 3 tháng, chưa kịp báo tin thì anh ta mãn hạn quân dịch trở về nước rồi bặt tin luôn.
ang nỗi mặc cảm "chửa dại", bà bỏ việc đi giặt đồ thuê kiếm tiền sinh con. Đứa bé trai ra đời với nước da đen nhẻm và mái tóc quăn tít. Dù biết sẽ chịu lời đàm tiếu của xã hội đang lên án cuộc xâm lược của quân đội Mỹ, bà vẫn giữ lấy giọt máu với hy vọng có ngày người cha trở lại tìm con. Sau này bà mới biết đó là điều hoang tưởng.
Không tiền, không nhà cửa và không thân nhân, cuộc đời bà rơi xuống tận đáy xã hội. Bà ôm đứa con không cha đi làm "ôsin" cho các quán bar. Cuối năm 1970, tại một quán bar ở Phú Thọ, bà phát hiện mình lại có thai hơn 3 tháng với một người Mỹ khác. Lần này, bà chưa kịp biết tên tác giả bào thai thì ông ta biệt tích.

Đầu năm 1971, lẩn trốn thị phi, bà ôm con rời Sài Gòn về Đà Nẵng sống nhờ một người chị họ để chuẩn bị cho đứa bé ra đời. Vợ chồng người chị nghèo khổ với 6 đứa con nheo nhóc chấp nhận cưu mang thêm 2 mẹ con bà. Tuy họ không nói ra nhưng bà hiểu mình chỉ được phép tá túc ở đó trong thời gian vượt cạn. Bà có liên lạc với cha mẹ nhưng chỉ nhận được lời tuyên bố: Từ con. Lý do đơn giản vì bà đã làm xấu hổ gia phong lễ giáo của gia đình. Đứa cháu ngoại lai đầu tiên ra đời trong bối cảnh cả miền Nam đang sục sôi phong trào biểu tình lên án Chính phủ Mỹ xâm lược đã khiến cha mẹ bà rời bỏ Sài Gòn, bỏ xứ để tránh tai tiếng do bà tạo ra. Bây giờ có thêm đứa con lai, kể như bà đã tự đẩy mình xa vĩnh viễn cha mẹ.

Rứt ruột gửi con
Lần sinh này do thai khó, bà phải chịu mổ. Thời đó chi phí cho một ca sinh mổ rất đắt, số tiền dành dụm của bà cạn sạch. Lượng sức mình không thể nuôi nổi 2 đứa con trong tình cảnh vô gia cư, nghe theo lời khuyên của người chị họ, khi đứa bé thứ hai mới 7 ngày tuổi, bà dứt ruột đem giao cho Viện mồ côi Thánh Tâm ở Đà Nẵng. Khi giao con cho các sơ, bà mong đứa bé sẽ được chăm sóc tốt hơn là sống trong cảnh lang bạt kỳ hồ cùng bà.
Nhớ lại điều này, bà rơi nước mắt: "Không người mẹ nào muốn rứt núm ruột của mình. Không có nỗi đau nào hơn khi rời xa nó. Nhưng cặp nách một đứa bé sơ sinh, trong khi túi đã cạn tiền, không chỗ tá túc thì cả 3 mẹ con cùng chết đói. Tôi phải đi làm việc ngay để có cái ăn".
Dù chưa hồi sức sau ca sinh, bà dắt đứa con lớn trở về Sài Gòn ngay. Lần này, bà thuê một căn phòng trọ ở chợ Sài Gòn sống an phận bằng nghề may thuê quần áo cho các shop ở chợ. Dù thương nhớ đứa con ở Viện mồ côi nhưng bà không đủ tiền để đi thăm. Cuộc sống giữa Sài Gòn khiến bà luôn thiếu hụt. Bà lại cắn răng đem đứa con đầu nhờ một linh mục nuôi ăn học.

Năm 1975, Sài Gòn được giải phóng, chính quyền cách mạng trợ cấp cho bà một năm lương thực, một ngôi nhà và một lô đất tại vùng kinh tế mới ở Bù Đăng, Sông Bé (nay là Bình Phước). Cuộc đời bà rẽ sang trang khác, tươi đẹp hơn. Lần đầu tiên trong đời thoát cảnh vô gia cư, bà xin nhận lại đứa con từ người linh mục. Phận mẹ góa nuôi con côi ở vùng đất mới khổ cực trăm đường, bà vẫn nuôi đứa con trưởng thành. Người con này lấy vợ, sinh cho bà 1 cháu trai và 1 cháu gái.
Năm 2000, vì không có tiền để làm thủ tục xuất cảnh theo diện con lai, bà làm thủ tục giao đứa con trai đầu cho một gia đình khá giả làm con nuôi. Người con này hiện đang sống ở Mỹ, thường xuyên gửi tiền về cho bà chi tiêu. Các cháu của bà cũng thỉnh thoảng về Việt Nam thăm bà. Hiện nay người con này đang làm thủ tục bảo lãnh bà sang Mỹ để chăm sóc. Chính vì vậy mà bà thuê căn phòng trọ này để ở tạm trong thời gian chờ xuất cảnh sang Mỹ.

Khi chúng tôi hỏi nếu bây giờ gặp lại đứa con mà bà gửi vào Viện mồ côi Thánh Tâm, bà sẽ nói điều gì. Bà bật khóc: "Tôi không mong nó tha thứ. Tôi chỉ mong gặp nó một lần để nói cho nó hiểu tôi đã khổ tâm như thế nào khi gửi nó vào viện mồ côi". Những giọt nước mắt ăn năn lăn dài theo những vết nhăn trên gương mặt đau khổ, chúng tôi càng thấy rõ hơn nỗi đau của bà.

Bà run rẩy lục tìm những chiếc đĩa CD, VCD nhạc của ca sĩ Randy, rưng rưng khóc: "Lần đầu tiên nghe Randy hát bài “Nó”, tôi đã bật khóc. Hình ảnh đứa bé mồ côi trong bài hát cứ ám ảnh, cào xé tâm can tôi hoài. Linh cảm đã khiến tôi nghĩ mình có mối liên hệ thiêng liêng nào đó đối với Randy. Tôi đã dò hỏi mọi người về thân phận của Randy. Khi biết Randy là con lai tôi bàng hoàng. Lúc đó, tôi chưa biết Randy xuất thân ở Viện mồ côi Thánh Tâm nhưng tôi cứ mang máng nhận ra nó mang thân phận giống đứa con thất lạc của mình. Tôi nhờ người lùng mua tất cả những đĩa ca nhạc của Randy về nghe và khóc thầm một mình. Mỗi khi Randy ra một album mới, tôi đều tìm mua cho bằng được. Nghe Randy hát bài “Mẹ”, tôi suy sụp tinh thần.

Khi đọc được bài báo “Ca sĩ Randy và cuộc kiếm tìm người mẹ Việt” trên Chuyên đề ANTG tôi bàng hoàng. Có một vài sự trùng hợp với đứa con mà tôi gửi vào Viện mồ côi Thánh Tâm và cũng có những chi tiết không đúng. Nhưng dù không đúng là nó, tôi vẫn hy vọng một ngày rất gần tôi sẽ được gặp mặt Randy".

Nỗi ân hận một thời lầm lỡ

Bà đặt những bìa đĩa CD có ảnh của ca sĩ Randy bên cạnh những bức ảnh của đứa con trai đầu trên bàn như để nguôi ngoai nỗi ray rứt. Trong khay nhựa, bà cất giữ rất nhiều đĩa CD của Randy, kể cả những đĩa in sang lậu.
Bồi hồi suy tưởng về quá khứ, bà cho biết, sau khi gửi đứa con mới 7 ngày tuổi vào Viện mồ côi Thánh Tâm khoảng vài năm bà có trở lại thăm nhưng đứa bé không còn ở đó nữa. Các sơ cho biết, một số đứa trẻ ở Viện, trong đó có con của bà được những người hảo tâm nhận làm con nuôi. Bà không đủ tiền để truy tìm tông tích đứa bé đành ngậm ngùi trở về Sài Gòn.
Thất lạc đứa con, lòng đau như cắt nhưng bà được an ủi phần nào khi nghĩ rằng, con bà được sống sung sướng, hạnh phúc trong một gia đình khá giả. Dù vậy, thỉnh thoảng bà vẫn khóc thầm vì xót xa lo ngại con bà sống trong cảnh lang thang cơ nhỡ. Mỗi lần cơn ác mộng đó ập về, bà lại tự dằn vặt mình. Mỗi khi ra đường trông thấy một thanh niên nào đó có màu da sẫm là bà đến nhìn thật kỹ rồi hỏi thăm nhân thân để tìm chút hy vọng mong manh. Nhiều lần đối diện với bóng đêm, bà tự vẽ chân dung đứa con trai thất lạc trong trí tưởng tượng. Mỗi ngày bà đều khẩn cầu ơn trên ban hạnh phúc cho đứa con lạc mẹ, không cha của bà.

Có một chi tiết không trùng khớp với nhân thân của Randy là khi giao con cho Viện Thánh Tâm, bà đã nói cho sơ biết đã đặt tên cho con là Tâm (Trong khi Randy có tên ở Viện Thánh Tâm là Tuấn). Chi tiết khác biệt này khiến chúng tôi e ngại bà thất vọng khi gặp Randy. Bà bấu víu vào một hy vọng mong manh là, Viện mồ côi đã đặt lại tên cho Randy khi làm khai sinh.
Bà rơi nước mắt bày tỏ: "Tôi không có ý thấy sang bắt quàng làm họ. Tôi đã lớn tuổi rồi. Cho dù không phải con tôi, tôi cũng muốn gặp để nói cho Randy biết rằng, nếu nỗi tủi thân của một đứa con lai mồ côi là 1 thì nỗi tủi nhục, đau đớn của bà mẹ có con lai như tôi phải là 10. Tôi sẽ nói rằng, hãy thông cảm và tha thứ cho những bà mẹ giống tôi. Những người phụ nữ có quá khứ tuổi trẻ không đẹp thường che giấu bằng cách không kể với mọi người. Còn những bà mẹ như tôi, đứa con tố cáo tất cả. Nghịch cảnh ở chỗ, tình yêu đứa con - chỗ dựa tinh thần, lại cũng chính là nỗi tủi nhục quá khứ cho dù mọi người xung quanh không lên tiếng".
Hóa ra con người không chỉ học cách tha thứ mà còn phải học cách nhận được sự tha thứ. Khi tha thứ, lòng người sẽ thanh thản vì trút được gánh nặng trong tâm khảm. Khi được tha thứ, người nhận sẽ gánh thêm mặc cảm buồn nặng nề.

Chúng tôi gọi điện thoại cho Randy thì anh đang bận túi bụi để chuẩn bị cho một chương trình ca nhạc ở Hà Nội. Anh hứa khi về Sài Gòn sẽ liên lạc ngay để kiểm tra thông tin.
Chia tay bà, lòng chúng tôi trĩu nặng. Chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng gần nửa thế kỷ vẫn còn dư âm nỗi đau số phận của những nạn nhân
 
Bên trên