Những Vụ Án Trên Thế Giới

hoahongden12

Active Member

Theo một số tài liệu còn lưu lại, một trong những kẻ giết người tàn ác nhất trong lịch sử nước Nga là Darya Nikolayevna Saltykova (sinh ngày 11/3/1730, chết ngày 27/11/1801), còn được biết đến dưới cái tên Saltichikha với những tội ác tày trời trong việc giết hại 100 nông nô khốn khổ để thỏa mãn thú vui bệnh hoạn của mình.

“Thích” tra khảo và tùng xẻo các nạn nhân xấu số, Saltichikha là hình ảnh thu nhỏ của một con quỷ chuyên rình mò, sát hại các nông nô nghèo khó ngay thời điểm tiền cải cách của Nga. Bà ta bị buộc tội chủ mưu, đã hạ sát ít nhất là 138 nông nô ngay tại lãnh địa của mình cũng như vô số người khác bị tra tấn đến thân tàn ma dại.

Thấy đàn bà đẹp… là giết

Darya Saltykova là một nữ bá tước Nga giàu có và quyền thế, và trong suốt một thời kỳ dài, nữ bá tước này đã tự biến mình thành một con quỷ “khát máu” với những phi vụ giết người hàng loạt không chút gớm tay.

Saltykova lập gia đình khá sớm với bá tước Gleb Saltykov, nhưng mới 26 tuổi đã phải sớm chịu cảnh góa bụa, thành góa phụ giàu có nhất ở Moscow, thừa hưởng một lãnh địa đẹp tuyệt nằm gần Moscow gọi là Troitskoe với 2 đứa con trai nhỏ và hơn 600 nông nô, chưa kể một bất động sản lộng lẫy khác ở ngay Moscow. Trong thời gian còn hạnh phúc với chồng, không ai nhìn thấy ở con người nữ bá tước một điểm gì đó khác biệt, ngoài việc là một người rất sùng đạo, hiến tặng không ít tiền của cho các nhà thờ và chủng viện.

Một ngày nọ, bá tước Saltykova tình cờ gặp một quý ông trẻ trung và rất điển trai trên là Nikolay Tyutchev (ông nội của nhà thơ Nga nổi tiếng Fyodor Tyutchev). Khi tuổi tác của Saltykova ngày càng lớn và sống trong cảnh cô đơn thì mối quan hệ “ngoài luồng” với Nikolay cũng khiến cho nữ bá tước chịu không ít điều ong tiếng ve.

Thế rồi, bà ta phát hiện ra Nikolay đang yêu say đắm một cô gái trẻ và làm đám cưới bí mật ngay trong nhà thờ. Trong cơn giận dữ gần như mù quáng, suýt chút nữa Saltykova đã giết chết anh chàng nhân tình. Nikolay Tyutchev và vợ lập mưu trốn thoát khỏi lãnh địa của Saltykova, đến nương náu tại nhà một người họ hàng của ông ở Moscow rồi nhanh chân lẩn khỏi vùng đó.

Không giết hại được tình nhân, Saltykova quay sang trút cơn giận lên đầu những người nông nô khốn khó mà hầu hết đều là phụ nữ, càng trẻ càng đẹp thì Saltykova càng đối xử như kẻ thù, đánh đập họ đến chết hoặc ném thân thể trần truồng của họ ra ngoài trời cho đến khi chết vì đông cứng, hoặc đổ nước đun sôi lên người mặc cho nạn nhân giãy dụa, gào khóc.

Cách bà ta trả thù đời cũng hết sức cay nghiệt: lùng bắt và giết hại những người đàn bà mà cánh đàn ông yêu say đắm. Nông nô của Saltykova từng người một dần dần “biến mất” một cách khó hiểu.

Không có lời giải thích nào thích hợp cho thói tàn độc của nữ bá tước Saltykova. Cơn tức giận của bà ta đến rất nhanh mà không có lý do nào rõ ràng, các hành vi ngược đãi cũng tăng nặng hơn theo thời gian. Bà ta đánh, tra tấn các cô gái trẻ và cả phụ nữ luống tuổi cho đến khi họ chết mới thôi. Nhiều lời tố cáo đã tới tai giới chức Moscow nhưng hết thảy đều bị các quan “làm lơ” hoặc thậm chí còn đánh đòn những người đã tố cáo cũng do bởi Saltykova có mối quan hệ khá tốt với các thành viên quyền lực của Hoàng gia Nga.

Ác quỷ bị tóm

Sau khi có quá nhiều những lời ai oán từ các gia đình có nạn nhân bị giết hại, cuối cùng ác phụ Saltykova cũng bị buộc tội đã giết hại 38 phụ nữ, song thực tế là hơn 100 nạn nhân.

Mùa hè năm 1762, hai nông nô Sakhvely Martynov và Ermolay Ilyin đã tìm cách chạy trốn khỏi lãnh địa của Saltykova để đến St. Petersburg, viết đơn đệ trình mọi sự trước mặt Nữ hoàng Catherine II. Từ trước đó, nữ hoàng đã nghe không ít phong thanh của thần dân về sự ngược đãi thậm tệ của nữ bá tước Saltykova nhưng không có bằng chứng thuyết phục để tróc nã kẻ phạm tội. Nay với lời chứng trước mắt, nữ hoàng Catherine II hạ lệnh cho Bộ Tư pháp nhanh chóng mở cuộc điều tra toàn diện, quyết mang bộ mặt thật của Saltykova ra trước công luận.

Với đủ bằng chứng, vật chứng, ác phụ Saltychikha đã bị bắt giữ vào năm 1762, bị giam giữ 6 năm để Tòa án Hoàng gia thu thập chứng cứ điều tra. Phần lớn nạn nhân sống sót và kể cả người làm chứng đều sợ hãi việc họ ra tòa cung cấp thông tin. Stepan Volkov - nhà điều tra khi đó - đã cho phép họ được ra tòa với sự bảo hộ của luật pháp.

Tại Tòa, Saltychikha không thừa nhận mình bị điên hay bệnh tật, cũng không hề tỏ thái độ ăn năn về những hành vi ngược đãi khủng khiếp của mình. Ngay cả các linh mục cũng bó tay trong việc khuyên nhủ “ác phụ” phải thú nhận hành động tội lỗi của mình. Saltykova đinh ninh mụ ta vẫn có thể thoát khỏi việc bị trừng phạt.

Theo các thám tử pháp y, trong vòng 6 - 7 năm ngắn ngủi, bá tước Darya Saltykova đã áp dụng đủ các hành vi, bức tử 139 người, chủ yếu là phụ nữ (chỉ 3 nạn nhân là đàn ông), bao gồm các cô gái trẻ từ 10 - 12 tuổi.

Bộ Tư pháp của Nữ hoàng Catherine II đã thẩm vấn nhiều nhân chứng, khảo nghiệm các hồ sơ tại lãnh địa của Saltykova và nhanh chóng kết luận, 138 trường hợp bị sát hại phần lớn đều do chính Saltykova ra tay, nhưng “ác phụ” chỉ bị khép tội đã giết hại 38 nông nô bằng cách đánh đập và tra khảo họ đến chết. Nữ hoàng phân vân không biết sẽ trị tội Saltykova bằng cách nào khi mà bản án tử hình đã được hủy bỏ ở Nga vào năm 1754, cũng như bản thân vẫn rất cần sự ủng hộ của tầng lớp quý tộc Nga khi đó.

Cuối cùng, ngày 2/10/1768, một bản án tù chung thân từ chủng viện Ivanovsky đã được áp dụng với bị cáo Saltykova, một nghi lễ “xử giảo dân sự” diễn ra ngay tại Moscow. Ngay trước mắt người dân, “ác phụ” Saltykova đã bị xiềng ngay trên mặt đường khoảng 1 tiếng đồng hồ trước đám đông, với một tấm biển gắn quanh cổ đề hàng chữ “Người đàn bà đã tra tấn và giết người” sau đó, mụ ta bị lôi vào giam giữ ngay dưới tầng hầm của một tòa tu viện.

Trong chốn lao tù…

Darya Saltykova bị tuyên án tù chung thân thay cho hình phạt tử hình, bị giam giữ trong tầng hầm tu viện và sống suốt đời trong bóng tối cho đến chết. Bị canh gác 24/24, Saltykova cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài trong suốt 11 năm ròng.

Vào năm 1779, Saltykova được chuyển tới một trong tòa tu viện khác với căn phòng có cửa sổ. Những người chứng kiến kể lại rằng, khi họ gặp nữ phạm nhân, bà ta thường nhổ nước bọt vào những người xem hoặc chửi rủa họ, ném một cây tăm qua cửa sổ.

Saltykova qua đời ngay trong ngục thất vào ngày 27/11/1801, thọ 71 tuổi và phải trải qua 33 năm “bóc lịch”. Tuy nhiên, một số tài liệu lại nói rằng, có lẽ năm 1800 mới đúng là năm Saltykova trút hết nợ đời...
 

hoahongden12

Active Member

Đến nay người ta vẫn chưa thể đưa ra được con số chính xác về số bệnh nhân đã chết dưới mũi tiêm của ông bác sĩ này. Nhưng dù thực tế con số là bao nhiêu thì hắn cũng là một trong những kẻ giết người chuyên nghiệp và nguy hiểm nhất trên thế giới.

Khi bạn nghĩ về những kẻ giết người hàng loạt, hình ảnh xuất hiện trong tâm trí của bạn là tên tội phạm với hình dáng dữ tợn, cầm vũ khí và gây ra nỗi kinh hoàng cho nhiều người.

Thế nhưng kẻ giết người hàng loạt nổi tiếng nhất của Vương quốc Anh lại là một vị bác sĩ - người mà đáng lẽ phải nhận được sự quý trọng, yêu mến từ tất cả mọi người vì sự nghiệp chữa bệnh cứu người.

Ông ta đã dùng chính mũi tiêm cứu người của mình để giết hại hàng trăm bệnh nhân trong suốt hơn 2 thập kỷ mà không ai phát hiện ra. Để rồi khi mọi chuyện vỡ lở, người ta mới rùng mình gọi ông ta là "bác sĩ tử thần".

Bà mẹ gia trưởng, độc đoán

Harold Frederick Shipman sinh ngày 14 tháng 1 năm 1946 trong một gia đình trung lưu ở Anh. Kể từ khi sinh ra, hắn đã phải lớn lên trong sự quản thúc nghiêm ngặt của bà mẹ tên Vera vốn có tính gia trưởng, độc đoán và bảo thủ vô cùng.

Trong số 3 đứa con của mình, bà ta đặt niềm tin vào đứa con thứ 2 là Harold nên gọi hắn là "Fred" và quản thúc mọi mối quan hệ bạn bè của con, từ việc làm gì, ở đâu, chơi với ai và chơi như thế nào...

Trên Harold còn có một chị gái và dưới hắn cũng có một em trai kém 4 tuổi nhưng hắn là đứa con có nhiều triển vọng nhất nên bà ta lại càng quản thúc chặt chẽ và hy vọng về tương lai của cậu con trai này hơn.

Bà ta luôn coi con mình là nhất và hơn tất cả những đứa trẻ khác, điều đó đã trở thành rào cản lớn đối với Harold trong quãng đời sau đó, thậm chí còn "giết chết" các mối quan hệ của hắn, biến hắn trở thành một thiếu niên bị cô lập. Mặc dù vậy, Harold vẫn kính trọng và phải nỗ lực gấp nhiều lần để đáp ứng sự kỳ vọng lớn lao của mẹ.

Khi bà Vera được chuẩn đoán mắc căn bệnh ung thư, Harold luôn ở bên cạnh túc trực và chăm sóc và trò chuyện cùng mẹ trong những tháng ngày đau đớn chống chọi với bệnh tật. Vậy nên chính mắt hắn được chứng kiến cảnh những mũi tiêm morphine đã làm dịu cơn đau của mẹ hắn như thế nào.

Nhưng cuối cùng bà ta cũng không thể vượt được bệnh tật và qua đời vào ngày 21 tháng 6 năm 1963.

Suy sụp trước cái chết của mẹ, 2 năm sau đó hắn đã quyết tâm thi đậu vào trường đại học Y khoa Leeds. Dù vậy phải thi đến lần thứ 2 hắn mới chính thức được trở thành sinh viên trường y. Nhưng vừa đỗ đại học chưa được bao lâu, hắn lại khiến người ta ngạc nhiên khi kết hôn ở tuổi 19 với cô gái tên Primrose mới 17 tuổi. Khi cưới, Primrose đã mang thai tới tháng thứ 5.

Từ một tay bác sĩ trẻ nghiện thuốc giảm đau

Năm 1974, sau khi tốt nghiệp trường y, Harold đã được nhận vào làm ở một bệnh viện tư ở Todmorden, vùng Yorkshire sau khi thực tập ở đó. Lúc này, hắn đã làm cha của hai đứa con, sống cởi mở hơn và bắt đầu học chuyên sâu vào lĩnh vực bác sĩ gia đình nên nhận được sự yêu mến của mọi người.

Tuy nhiên, ẩn bên trong vỏ bọc "bác sĩ hoạt động tích cực" ấy là sự thật đáng sợ.

Một y tá trong bệnh viện phát hiện hắn kê quá liều thuốc giảm đau pethidine cho bệnh nhân. Cô y tá lập tức báo cho bác sĩ khác trong bệnh viện và họ vô cùng sốc khi phát hiện ra rằng những bệnh nhân được kê đơn không hề nhận thuốc và chính Harold đã sử dụng số thuốc pethidine này.

Hắn đã tiêm trực tiếp rất nhiều thuốc pethidine vào tĩnh mạch của mình. Năm 1975, hắn bị buộc thôi việc tại bệnh viện và bị đưa tới trung tâm cai nghiện đồng thời phải nộp một khoản tiền phạt nhỏ vì tội kê đơn thuốc giả mạo.

Tới những mũi tiêm chết người

Sau khi ra khỏi trại cai nghiện, vài năm sau đó, hắn được nhận vào làm bác sỹ đa khoa tại Trung tâm Y tế Donnybrook. Tại đây, hắn đã làm việc chăm chỉ, cống hiến cho bệnh viện nên nhận được sự tin tưởng của rất nhiều bệnh nhân và đồng nghiệp, mặc dù vẫn mang tiếng là người có tính kiêu ngạo.

Từ đó trở đi, trong suốt 2 thập kỷ hắn đã gây ra không biết bao nhiêu tội ác mà không có bất kỳ ai phát hiện ra...

Năm 1998, một nhân viên làm trong nhà xác nhận thấy rằng số lượng bệnh nhân của Harold qua đời ngày càng nhiều mà lại đi đến cái chết rất chóng vánh. Điều kỳ lạ nữa là, hầu hết họ đều qua đời trong tư thế ngồi hoặc nằm trên ghế với quần áo ngay ngắn, chỉnh tề.

Tất nhiên, anh ta có bày tỏ sự thắc mắc với Harold về điều này nhưng câu trả lời anh ta nhận được là "không có gì phải lo lắng cả".

Sau đó, một đồng nghiệp y khoa khác của Harold, Tiến sĩ Susan Booth, cũng phát hiện ra "sự tương đồng đáng lo ngại" ấy và báo cáo lên lãnh đạo Trung tâm Y tế Donnybrook. Họ lập tức báo cho cảnh sát vào cuộc điều tra. Một cuộc điều tra bí mật được tiến hành nhưng Harold được chứng minh vô tội vì tất cả hồ sơ đều đã được sắp xếp cẩn thận.

Sau đó, cảnh sát triển khai cuộc điều tra kỹ lưỡng hơn và họ nhận ra hồ sơ Harold cung cấp là giả, hắn đã thay đổi bệnh án của bệnh nhân để chứng thực nguyên nhân cái chết của họ.

Điều khó khăn cho cảnh sát khi ấy là Harold lấy danh nghĩa bác sĩ gia đình. Họ không thể xác định chính xác được thời điểm chính xác khi hắn bắt đầu tội ác giết người hàng loạt và số lượng nạn nhân cũng không ai biết. Bên cạnh đó, hắn khăng khăng bác bỏ mọi cáo buộc từ phía các nhà điều tra.

Vậy nhưng "cái kim trong bọc lâu ngày cũng phải thò ra", tội ác của hắn đã bị phanh phui nhờ nỗ lực và quyết tâm đi đến cùng câu chuyện của nữ luật sư Angela Woodruff, con gái của một trong những nạn nhân của hắn, người đã từ chối chấp nhận mọi lời giải thích mà hắn đưa ra về cái chết của mẹ cô.

Ngày 24 tháng 6 năm 1998, bà Kathleen Grundy, một góa phụ giàu có 81 tuổi được phát hiện qua đời tại nhà riêng, ngay sau chuyến thăm khám của ông bác sĩ Harold. Hắn khuyên con gái bà Kathleen không nên khám nghiệm tử thi. Vậy là thi thể bà được đem đi chôn cất theo ý nguyện của cô Angela.

Tuy nhiên, sau đó Angela giật mình khi nhận được tờ di chúc của mẹ, trong đó viết bà muốn dành phần lớn tải sản (386.000 bảng Anh) cho vị bác sĩ riêng của bà, Harold Shipman.

Là một luật sư lại luôn xử lý mọi công việc giúp mẹ, Angela tỏ ra nghi ngờ về bản di chúc được đánh máy cẩu thả ấy. Cô báo cho cảnh sát địa phương và thám tử Bernard Postles nhanh chóng vào cuộc.

Để phục vụ cho việc thu thập bằng chứng, cảnh sát buộc phải khai quật ngôi mộ của bà Kathleen, lấy mẫu tóc và quần áo để đem đi xét nghiệm.

Kết quả pháp y khiến mọi người vô cùng sốc, nguyên nhân cái chết của bà Kathleen được xác nhận là do lượng morphine trong người quá cao trong vòng 3 giờ đồng hồ trước khi qua đời, đó cũng chính là khoảng thời gian tên bác sĩ Harold tới thăm khám.

Cảnh sát được lệnh lập tức lục soát nhà của hắn bị lục soát và phát hiện các hồ sơ các bệnh án, một bộ sưu tập trang sức kỳ lạ và một chiếc máy đánh chữ đã cũ, sau này được chứng minh là công cụ để hắn giả mạo hồ sơ rồi cả bản di chúc của bà Kathleen.

Sau đó, thi thể của tất cả nạn nhân qua đời sau khi được vị "bác sĩ tử thần" này thăm khám mà chưa bị hỏa táng đều được các cảnh sát khai quật để phục vụ điều tra.

Lúc này họ mới phát hiện ra tên "bác sĩ tử thần" đó luôn đề nghị và thuyết phục các gia đình bệnh nhân nên hỏa táng người thân của họ và nhấn mạnh rằng, cái chết của người bệnh là bình thường, không cần phải điều tra thêm về nguyên nhân cái chết, ngay cả trong những trường hợp người thân chưa biết rõ nguyên nhân.

Trong trường hợp có người thắc mắc, hắn sẽ đưa ra các giấy tờ, hồ sơ bệnh án được đánh máy lưu trữ sẵn để trấn an tâm lý họ. Tuy nhiên, tên bác sĩ tàn ác đó đã không thể ngờ được rằng mỗi lần thay đổi hồ sơ trên máy tính, lịch sử chỉnh sửa đều được lưu lại và đó là bằng chứng quan trọng giúp cảnh sát phá án.

Phiên tòa xét xử

Ngày 5/10/1999, phiên tòa xét xử đầu tiên diễn ra với sự có mặt của cô Angela Woodruff với tư cách là nhân chứng. Cách nói chuyện thẳng thắn và thái độ kiên quyết của cô đã thực sự gây ấn tượng cho bồi thẩm đoàn, bất chấp rằng tên bác sĩ cố đưa ra lời lẽ phản bác.

Kết quả phân tích dấu vân tay trên tờ di chúc cho thấy cô Angela Woodruff không hề chạm tới bản di chúc, và chữ ký trên đó là giả mạo.

Đến ngày 31/1/2000, thẩm phán tòa án tuyên án tù chung thân đối với Harold Shipman vì phạm tội giết 15 bệnh nhân và giả mạo chữ ký để chiếm đoạt tài sản của bà Kathleen Grundy.

Một ủy ban điều tra, do Thẩm phán Tòa án tối cao Dame Janet Smith chủ trì, đã kiểm tra hồ sơ của 500 bệnh nhân chết trong khi được Harold chăm sóc và bản báo cáo 2.000 trang kết luận rằng có khả năng hắn giết ít nhất 218 bệnh nhân, mặc dù con số này mới chỉ là ước tính, chưa phải là con số chính xác.

Ủy ban điều tra cũng cho rằng tên bác sĩ này đã trở thành một tên sát nhân "nghiện giết người". Đến nay người ta vẫn chưa thể đưa ra được con số chính xác về số bệnh nhân đã chết dưới mũi tiêm của hắn. Nhưng dù thực tế con số là bao nhiêu thì hắn cũng là một trong những kẻ giết người chuyên nghiệp, nguy hiểm nhất trên thế giới.

Sáng sớm ngày 13/1/2004, kẻ giết người hàng loạt đáng sợ nhất nước Anh Harold Shipman đã treo cổ chết trong nhà tù Wakefield lúc 6 giờ sáng, chỉ một ngày trước ngày sinh nhật tuổi 58.
 

hoahongden12

Active Member

Câu chuyện bắt đầu vào ngày 30 tháng 3 năm 1896 khi người ta phát hiện ra một gói bưu kiện bị gạch đè dưới lòng sông Thames. Trong gói bưu kiện có chứa thi thể của một đứa trẻ bị quấn chặt băng trắng quanh cổ và đã bị phân hủy nghiêm trọng.

Ngay sau đó cảnh sát và các thám tử đã bắt tay cùng nhau điều tra vụ án này. Không ai ngờ rằng cũng chính từ đây, người ta sẽ khám phá ra được một trong những vụ án giết trẻ em hàng loạt rùng rợn nhất lịch sử nước Anh.

1. Amelia Dyer và tuổi thơ đau khổ: Đây chính là nguồn cơn?

Amelia Dyer sinh ra trong một gia đình khá giả có năm người con ở Bristol, Anh. Cha của Amelia là một bậc thầy đóng giày có tiếng nên từ nhỏ Amelia Dyer đã được giáo dục rất tốt và bà ta còn rất yêu thích thơ văn. Tuy nhiên thật không may, mẹ của Amelia Dyer lại mắc chứng bệnh tâm thần do di chứng từ một cơn sốt phát ban, nên Amelia luôn phải hứng chịu những trận đòn roi, hành hạ tàn bạo từ mẹ mình.

Sau cái chết của người mẹ, Amelia chuyển đến sống với người dì. Lớn lên, mụ kết hôn với một người đàn ông lớn tuổi tên George Thomas và học nghề y tá. Thời đó, y tá là một công việc được trọng vọng nhưng thu nhập lại không cao. Chính vì thế mụ ta quyết định bỏ việc sau khi sinh con gái.

Năm 1869, người chồng của mụ ta qua đời vì già yếu. Vì gánh nặng tài chính, mụ Amelia đã mở một nơi tạm trú để chứa chấp những người phụ nữ không chồng mà chửa, hoặc những đứa trẻ sinh ra nhưng không được xã hội bấy giờ công nhận.

2. Hành trình tội ác kinh hoàng

“Nhà tình thương” của mụ Amelia tất nhiên cũng thu phí, nhưng tính ra tiền phí đó ít hơn rất nhiều so với chi phí để nuôi lớn một đứa trẻ. Người thông minh chỉ cần chú ý quan sát một chút sẽ hiểu được rằng ngay từ đầu, mụ ta chẳng hề muốn dưỡng dục những đứa trẻ để chúng trưởng thành tốt đẹp.

Thế nhưng, với những kỹ năng y tá của mình, mụ ta vẫn nhận được sự tin cậy của khách hàng. Mụ luôn đảm bảo với họ rằng sẽ tìm cho những đứa con ngoài giá thú của họ một mái ấm thực sự với tình yêu thương và sự chăm sóc đầy đủ.

Mụ ta nhận tiền của những bậc phụ huynh nhưng không chăm sóc hay tìm cha mẹ nuôi cho đứa trẻ. Amelia Dyer thường xuyên bỏ đói chúng, thậm chí mụ ta còn cho những đứa trẻ tội nghiệp hút thuốc phiện để chúng nhanh chóng tử vong. Các bà mẹ của những đứa trẻ cũng thỉnh thoảng đến thăm chúng nhưng Amelia Dyer thường xuyên tìm đủ lý do để trì hoãn cũng như không cho họ gặp con mình. Mặc dù các bà mẹ đã sớm nghi ngờ nhưng họ lại không dám báo cảnh sát vì sợ bị phát giác “chửa hoang”.

Không chỉ vậy, Amelia còn tiếp tay cho những người mẹ lầm lỡ muốn chối bỏ đứa con mà mình dứt ruột đẻ ra ngay từ khi mới lọt lòng rồi đem đi giấu xác.

Năm 1879, Amelia bị bắt khi một bác sĩ nghi ngờ việc quá nhiều trẻ em chết gần khu vực chăm sóc trẻ của mụ. Ông khẳng định, bà liên quan đến những cái chết bất thường đó và báo với cảnh sát. Tuy nhiên, với lý do bị khủng hoảng tinh thần, thay vì bị kết tội giết người hay ngộ sát, mụ ta lại được sự “ân xá đặc biệt” khi chỉ phải nhận án phạt 6 tháng lao động khổ sai vì đã không chăm sóc trẻ em cẩn thận.

Sau khi được phóng thích, bà tìm được một công việc trong bệnh viện tâm thần. Lúc này, Amelia nhận ra rằng, giết chết trẻ em ngay lập tức sẽ dễ dàng và an toàn hơn so với việc để chúng chết từ từ.

Mụ đã học được những cách mới để “lẩn trốn” tai mắt của cảnh sát. Kẻ sát nhân tiếp tục mở “nhà tình thương” và đứng ra nhận nuôi các đứa trẻ. Nhưng lần này mụ ta không những sử dụng tên thật của mình mà còn sử dụng cả những cái tên giả khác nhau, thường xuyên chuyển vị trí nhà của mình để tránh khỏi nghi ngờ.

Năm 1895, Amelia chuyển đến Kensington, Reading để “hành nghề”. Amelia cho đăng những mẫu quảng cáo chăm sóc trẻ vô cùng hấp dẫn và đầy tính nhân đạo trên báo nhằm thu hút những bà mẹ “trót dại”.

3. Chuỗi những vụ án chấn động

Tháng 1/1896, Evelina Marmon - một cô hầu bàn lỡ sinh đứa con ngoài giá thú. Amelia đã đến tận nhà Evelina nhận tiền công và hứa sẽ đưa trẻ đến với một gia đình có điều kiện đang cần nuôi con ở Reading.

Nhưng thay vì đưa đứa trẻ đến Reading, mụ ta lại đến nhà con gái Polly của mụ ở London. Tại đó, mụ đã thẳng tay siết cổ đứa bé bằng một dải băng trắng rồi bọc thi thể đứa bé lại trong một chiếc khăn trải bàn.

Mụ đem bán tất cả áo quần, đồ đạc của đứa bé cho tiệm cầm đồ để lấy tiền. Đứa trẻ mang tên Harry Simmons là nạn nhân tiếp theo được đưa đến ngôi nhà “ấm áp” đó và cũng bị sát hại bởi cách mà bà đã làm với con của Evelina. Sau đó, mụ bọc hai xác chết lại kèm theo một số gạch và tìm đến một đoạn hẻo lánh của sông Thames để thả xuống sông phi tang.

Cùng thời điểm đó, người ta phát hiện được một xác chết trẻ em (sau này xác định được là Helena Fry) trên sông Thames đoạn chảy qua Reading. Các thám tử nhanh chóng vào cuộc và lần ra được cái tên “Thomas” cùng với một địa chỉ. Trong quá trình điều tra, cảnh sát đã tìm ra “trang trại trẻ em” của “mụ phù thủy” Amelia Dyer nhưng vẫn chưa đủ bằng chứng để khởi tố.

Sợ mụ ta sẽ “lặn” mất nếu phát hiện ra đang bị giám sát, họ đã quyết định dùng một phụ nữ trẻ làm mồi nhử. Nhưng Amelia cũng đã rất tinh ranh khi phát hiện được đang bị các thám tử theo dõi. Kế hoạch thất bại.

4. Dấu chấm hết cho “mụ phù thủy nước Anh”

Ngày 3/4, cảnh sát đã ập vào nhà Amelia để lục soát, họ ngửi thấy mùi xác thối nồng nặc khắp căn phòng nhưng không tìm thấy một thi thể nào. Thay vào đó, họ tìm được một số bằng chứng quan trọng khác là dải băng gây án, hóa đơn cầm đồ, thư từ của những bà mẹ hỏi thăm về con cái của họ… Ngay lập tức, mụ ta bị bắt về đồn.

Sau cuộc điều tra, ước tính rằng có tới 400 đứa trẻ đã bị giết. Đây có thể coi là vụ sát hại lớn nhất trong lịch sử nước Anh. Cảnh sát ngay lập tức bắt giữ Amelia và cuối cùng Amelia Dyer cũng thừa nhận tội ác của mình.

Ngày 22 tháng 5 năm 1896, tại Old Bailey (Tòa án hình sự trung ương của Anh) quan tòa chỉ mất chưa đầy 5 phút đã có thể đưa ra bản án cho Amelia Dyer, mụ ta bị kết án tử hình sau ba tuần.

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 10 tháng 6, bản án tử dành cho Amelia Dyer được thi hành tại nhà tù Newgate. Trước khi Amelia chết, mụ ta đã viết một bản thú nhận toàn bộ tội lỗi của mình và đưa chúng cho các mục sư, mụ ta nói “Bây giờ, tôi không còn gì để nói nữa”.

Với những tội ác đã gây ra, nhiều người cho rằng bản án tử hình có lẽ vẫn là quá nhẹ đối với Amelia Dyer.
 

hoahongden12

Active Member

Khi Elena qua đời, Carl đã "trộm" mộ về, tìm mọi cách bảo quản thi thể của người yêu và cùng chung sống với cái xác ấy suốt gần 7 năm.

Câu chuyện tình yêu giữa bác sĩ Georg Carl Tanzer và cô gái xinh đẹp nhưng bạc mệnh Maria Elena Milagro de Hoyos Mesa, thu hút sự tò mò của công chúng không chỉ bởi tình yêu mãnh liệt của Carl mà còn chính bởi những bí ẩn ly kỳ đằng sau đó.

Thiên tài phiêu bạt

Georg Carl Tanzler, sinh ngày 8/2/1877 tại Dresden, Đức. Ông bộc lộ tố chất tài giỏi ngay từ khi còn nhỏ tuổi. Lớn lên, Carl có trong tay tới 9 tấm bằng xuất sắc nhưng lại sở hữu vẻ bề ngoài bình thường, không có gì ấn tượng. Người đàn ông này từng làm nhiều nghề, một trong số đó là kỹ sư đóng tàu.

Ngay từ thuở thơ ấu, Carl đã bị ám ảnh với giấc mơ về tổ tiên của ông - nữ bá tước Anna Constantina von Cosel. Bà thường xuyên nhắc rằng tình yêu đích thực của cuộc đời ông sẽ là một cô gái vô cùng xinh đẹp với mái tóc đen nhánh.

Với tài năng xuất chúng của mình, Carl Tanzler có cơ hội chu du nhiều nước trên thế giới như Australia, Ấn Độ, hay Italy. Do vậy, cuộc hôn nhân với người vợ Doris Shafer chẳng thể kéo dài lâu do tính cách thích dịch chuyển của Carl, thêm vào đó là thái độ chẳng mấy mặn mà của ông với gia đình. Carl cho rằng Doris không phải là tình yêu mà ông đang tìm kiếm.

Năm 1926, Carl Tanzler nhập cư vào nước Mỹ và đến sống ở Key West, Florida. Tại đây, ông đổi tên thành Carl von Cosel, rồi xin vào làm bác sĩ chụp X-quang cho bệnh viện Marine. Vì tính cách khó gần và khá lập dị nên hầu hết đồng nghiệp không thích Carl. Tuy nhiên, ai cũng nể phục và kính trọng tài năng hiếm có khó tìm của ông vào thời điểm đó.

Mọi chuyện ngỡ sẽ chẳng có gì cho đến ngày Carl gặp Maria Elena Milago de Hoyos Mesa - người phụ nữ đích thực mà Carl đang tìm kiếm.

Cuộc gặp gỡ định mệnh

Maria Elena Milagro de Hoyos Mesa sinh năm 1909. Khi lớn lên, Elena trở thành một phụ nữ cực kỳ xinh đẹp với mái tóc đen tựa gỗ mun và gương mặt như bước ra từ trong thần thoại.

Đã có hàng trăm người xin được cưới nàng nhưng cuối cùng Elena lựa chọn gả cho Luis Mesa khi vừa tròn 16 tuổi. Tuy nhiên, ngay sau khi Elena bị sảy thai, Luis đã rời bỏ người vợ trẻ và chuyển đến sinh sống ở thành phố Miami.

Tháng 4/1930, Elena bị ốm nặng và không có dấu hiệu thuyên giảm. Quá lo lắng cho con gái, mẹ Elena đưa cô vào bệnh viện Marine để thăm khám và phát hiện Elena đã mắc bệnh lao - căn bệnh vô phương cứu chữa vào thời điểm đó.

Trong một lần tình cờ, Elena đã đi lướt qua Carl Tanzler, ngay lập tức, người đàn ông này không thể rời mắt khỏi vẻ đẹp của cô.

Khoảnh khắc bắt gặp Elena, Carl Tanzler đã khăng khăng cho rằng cô chính là tình yêu đích thực mà ông luôn tìm kiếm bấy lâu nay. Không màng đến khoảng cách 34 tuổi, Carl ngỏ lời yêu thương Elena và tặng cô nhiều món đồ quý giá. Nhưng dường như thiếu phụ trẻ chẳng mấy bận tâm.

Tình yêu không thắng nổi số mệnh

Biết tin Elena mang trọng bệnh, Carl quyết tâm cứu sống người mình yêu bằng mọi giá. Ông xin phía bệnh viện cho phép mình trở thành bác sĩ chính điều trị bệnh lao cho cô ấy.

Carl cố gắng thử nghiệm mọi phương thuốc đặc biệt, bao gồm thuốc tự chế, thảo mộc, thuốc bổ… với mong muốn chữa khỏi căn bệnh hiểm ác cho người mình yêu. Carl liều lĩnh đến mức ăn trộm cả máy X-quang mang đến nhà để chữa bệnh cho Elena.

Mặc cho bao cố gắng của Carl Tanzler, Elena đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 25/11/1931. Quá đau lòng, ông năn nỉ gia đình Elena cho phép mình được thanh toán mọi chi phí tang lễ, thậm chí mời hẳn một bậc thầy ướp xác về. Carl cũng tự bỏ tiền túi xây dựng một lăng mộ bằng đá vô cùng đắt đỏ dành riêng cho người phụ nữ mình yêu.

Mọi chuyện tưởng như chấm dứt nhưng hóa ra đó mới chỉ là bắt đầu cho những hành động "kinh dị" sau này của vị bác sĩ.

Trộm mộ và sống cùng... xác chết

Hóa ra việc Carl đòi tự xây lăng mộ cho Elena đều có nguyên do. Ông lén làm một chiếc chìa khóa của ngôi mộ và thường xuyên đến thăm thi thể của người tình vào ban đêm.

Bên trong, ông cho lắp đặt một đường dây điện thoại để thỉnh thoảng có thể gọi điện trò chuyện với cô gái quá cố. Hành động kỳ quái này của Carl kéo dài suốt 2 năm khiến những tin đồn bắt đầu xuất hiện khắp thành phố nhỏ. Phía bệnh viện buộc phải sa thải Carl để tránh bị liên lụy đến danh tiếng của mình.

Có lẽ chính điều này đã đẩy Carl đến quyết định lấy cắp thi thể của Elena rồi đưa về nhà bằng một chiếc xe đẩy của trẻ con. Sau này Carl khẳng định chính Elena đã... bảo ông làm như thế.

Khi đã được “ở bên nhau” thêm một lần nữa, Carl phát hiện cơ thể của người yêu bắt đầu có dấu hiệu phân hủy. Vì thế, ông đành tìm mọi cách để bảo quản thi thể: nhét giẻ và chất bảo quản để giúp cơ thể vẫn đầy đặn như hồi còn sống, dùng dây đàn buộc các mảnh xương, thay thế mắt bằng hai viên thủy tinh, trộn sáp và thạch cao đắp vào người thay cho phần da đã bị mục nát, uốn những lọn tóc xơ xác còn sót lại, khử mùi hôi thối bằng cách xịt rất nhiều nước hoa, mặc cho những bộ váy thời thượng đắt tiền, và đặt thi thể cực kỳ cẩn trọng trên chính giường ngủ của ông.

Trong gần 7 năm ròng rã, Carl Tanzler đã sống và sinh hoạt “hạnh phúc” cùng xác của Elena.

Những tin đồn tiếp tục được truyền tai nhau khắp nơi, người ta nói rằng thỉnh thoảng nhìn thấy bác sĩ nhảy múa cùng với một con búp bê khổng lồ. Họ thấy Carl lắp đặt cả một chiếc máy bay nhìn rất lạ. Ông nói rằng sẽ dùng nó đưa chính ông và Elena đến tầng bình lưu, nhằm cứu sống và trẻ hóa lại người yêu.

Tin đồn này dần đến tai Florinda - chị gái của thiếu phụ Elena. Cô quyết định đến nhà Carl để xác minh và rồi bàng hoàng phát hiện ra sự thật. Florinda nhìn thấy thi thể của em gái nằm trên giường nên vội vàng gọi điện báo cảnh sát.

Năm 1940, Carl Tanzler bị bắt vì tội trộm mộ nhưng nhanh chóng được thả tự do vì thời hạn của vụ án đã hết.

Thi thể của Elena được thu hồi, sau đó được trưng bày tại nhà tang lễ địa phương rồi đưa đi chôn ở một ngôi mộ không tên, tránh việc bị xâm phạm thêm một lần nữa. Tuy nhiên, Carl lại dám đứng ra xin lại cơ thể của Elena. Tất nhiên ông ta không nhận được sự đồng ý.

Thời điểm đó, hàng nghìn người đến trả tiền để được chiêm ngưỡng thiếu phụ Elena tại nhà tang lễ. Không ít người chỉ trích hành động điên rồ của Carl Tanzler, nhưng cũng có người cho rằng đây là một câu chuyện vô cùng lãng mạn về tình yêu nồng cháy mà ông dành cho người tình xấu số.

Năm 1952, Carl Tanzler được tìm thấy đã qua đời tại nhà riêng ở Pasco County, Florida. Bên cạnh thi thể của ông, người ta thấy... một con búp bê cỡ người thật, được đắp chiếc mặt nạ thạch cao trông giống hệt Elena.
 

hoahongden12

Active Member

Trong suốt 11 năm trời, Edward Paisnel khoác một vỏ bọc hoàn hảo là một người chồng, người cha lý tưởng, thậm chí còn là "ông già Noel" với trẻ mồ côi. Không ai biết hắn chính là một trong những tên giết người gớm ghiếc nhất lịch sử Anh.

Tháng 4-2018, bộ phim Quái thú (Beast) ra rạp tại Mỹ và lập tức gây ám ảnh cho người xem. Bộ phim kể câu chuyện cuộc đời của một nghi phạm giết người hàng loạt và chuyện tình yêu của hắn với cô vợ trẻ. Đạo diễn phim sau đó khẳng định tác phẩm dựa trên nguyên mẫu có thật - Edward Paisnel, kẻ được mệnh danh là “Quái thú Jersey”

Trong suốt những năm 1960-1970, người dân sống quanh hạt Jersey thuộc Quần đảo Eo Biển, Anh quốc bị ám ảnh bởi một kẻ tấn công thường xuất hiện ban đêm với chiếc mặt nạ cao su ghê sợ. Nạn nhân của Quái thú Jersey là phụ nữ và trẻ em. Hắn thường đột nhập nhà họ lúc nửa đêm, sau đó hành hung và hãm hiếp. Hai bên tay hắn là hai chiếc vòng đinh dùng để đâm những người dám chống cự lại. Đinh vặn cũng được khâu trên cổ áo để vô hiệu hóa bất cứ ý định trốn chạy nào của nạn nhân.

Tháng 7-1971, cảnh sát dừng xe của Edward Paisnel vì vượt đèn đỏ và tìm thấy phục trang của Quái thú Jersey trong chiếc xe, vốn là tang vật trộm cắp. Edward Paisnel lập tức bị bắt và tống giam trong điều kiện bảo vệ nghiêm ngặt.

Về gia cảnh:

Paisnel sinh năm 1925 trong một gia đình hạnh phúc. Không có nguyên nhân tâm lý nào cho những hành vi bệnh hoạn của y. "Quái thú" cũng có một cuộc hôn nhân tốt đẹp với người vợ Joan Paisnel. Căn nhà hai vợ chồng Paisnel chung sống với 3 đứa con.

Joan Paisnel không hề biết gì về tội ác của chồng. Chính bà là người đã xuất bản cuốn “Quái thú Jersey” sau này.

Bạn gái của Paisnel - Florence Hawkins xuất hiện tại tòa làm chứng rằng Paisnel ở với bà ta trong thời điểm xảy ra các vụ tấn công. Tuy nhiên, Paisnel vẫn bị tuyên án 30 năm tù sau đó vì tội hành hạ người khác và hiếp dâm hàng loạt.

Trong thời gian thi hành án, Paisnel đã đăng ký kết hôn với Florence dưới sự giám sát của cảnh sát. Sau khi được phóng thích trước thời hạn, Paisnel quay về Jersey nhưng bị cộng đồng xua đuổi. Hắn chuyển đến Isle và qua đời năm 1994...
 

hoahongden12

Active Member

Năm 1994, tại New York, một phiên tòa gây được sự chú ý của nhiều người dân nước Mỹ đã diễn ra, phiên tòa xét xử David Rifkin, kẻ được cho là có liên quan đến cái chết của 17 người.

Trong suốt phiên tòa, luật sư của Rifkin đã cố gắng thuyết phục đoàn bồi thẩm rằng Rifkin có vấn đề về thần kinh, có triệu chứng bệnh hoang tưởng. Thêm vào đó Rifkin đã có thời gian dài chứng kiến bạo lực khiến cho hành động của hắn ít nhiều bị ảnh hưởng.

Bất chấp cố gắng của luật sư, đoàn bồi thẩm đã bác bác bỏ toàn bộ lời biện hộ, Rifkin phải chịu trách nhiệm cho tất cả những tội ác hắn đã gây ra. Tổng hình phạt dành cho Rifkin có thể lên đến 203 năm tù giam.

Bị bắt

3h15 sáng ngày 28/6/1993, hai nhân viên cảnh sát Sean và Deborah đang trong ca trực tại một trạm kiểm soát trên đường Parkway thì phát hiện một chiếc xe tải nhỏ hiệu Mazda không có biến số. Cả hai đã dùng đèn tín hiệu yêu cầu lái xe dừng lại. Tuy nhiên chiếc xe bất ngờ tăng tốc lao nhanh hơn trong đêm.

Ruane và Spaargaren nhảy lên chiếc xe tuần tra cùng một vài đồng nghiệp của mình đuổi theo, còi báo động vang lên ầm ĩ. Chiếc xe tải Mazda buộc phải dừng lại khi nó tránh một chiếc xe khác và đâm vào một bốt điện thoại bên đường. Lúc đó là 3h36. Gã tài xế nhảy ra khỏi xe, không quên nhét trong túi một con dao bấm. Hắn nhanh chóng đi về phía cảnh sát.

Theo thông tin trên giấy phép lái xe, người tài xế tên là David Rifkin, 34 tuổi, hiện đang cư trú tại đường Garden, East Meadow, đảo Long. Khi được hỏi về tấm biển số xe và lý do cho ý định chạy trốn cảnh sát, Rinkfin tỏ ra lúng túng và thoáng chút sợ hãi, hắn trả lời rằng muốn tránh bị nộp phạt.

Có một mùi lạ, rất khó chịu từ phía thùng xe. Kiểm tra, cảnh sát phát hiện xác một phụ nữ dưới tấm che màu xanh đang trong quá trình phân hủy. Nạn nhân có thể đã chết trước đó vài ngày. Mùi Noxema, một loại hóa chất để xử lý xác chết nồng nặc trên xe.

Khi được hỏi về cái xác, Rifkin trả lời rằng đó là xác một cô gái mại dâm. Hắn thành thật khai rằng đã đón cô gái cách đây vài hôm. Sau khi có quan hệ với cô, hắn đã bóp cổ cô đến chết. Ngay sau khi khai nhận, Rifkin yêu cầu được gặp luật sư của mình.

Rifkin bị tạm giam tại Hempsted để đợi thẩm vấn. Cảnh sát cũng đã liên hệ tới nhà riêng của Rifkin để thông báo cho mẹ và em gái hắn.

Điều tra

Sau nhiều giờ điều tra, nạn nhân của Rifkin được xác định là Tiffany, 22 tuổi, nghiện ma túy và hoạt động mại dâm đã hơn 2 năm. Trong qua trình thẩm vấn, Rifkin không ngần ngại kể chi tiết những gì đã xảy ra giữa hắn và Tiffany. Cảnh sát nghi ngờ, đây không phải là nạn nhân đầu tiên và duy nhất của gã đàn ông không bình thường này. Và họ thực sự bị bất ngờ khi hắn thản nhiên thông báo Tifany là nạn nhân thứ 17 của hắn.

Khoảng 8h tối ngày 29/6, lệnh khám xét nhà riêng của Rifkin được ban hành. Cả căn nhà hai tầng được lục soát trong sự bất ngờ của mẹ hắn, bà Jeanne 71 tuổi và cô em gái. Phía dưới giường ngủ của Rifkin, cảnh sát thu được 75 món đồ trang sức của phụ nữ, những tấm hình hắn chụp cùng với một số cô gái chưa xác định danh tính. Rất nhiều đồ dùng phụ nữ như quần áo, các vật dụng như ví đựng tiền, đồ trang điểm, thẻ tín dụng cũng được tìm thấy, chúng hoàn toàn không phải của mẹ và em gái Rofkin.

Đồ đạc trong nhà Rifkin khá lộn xộn. Một số vật dụng trong nhà có dính những vết máu đã khô. Trong bãi để xe, khu vực chỉ có mình Rifkin lui tới, cảnh sát phát hiện có mùi hóa chất, họ nghĩ đó là mùi thuôc sâu mà Rifkin đã dùng cho vườn hoa và cây cảnh của hắn. Nhưng họ đã nhầm. Đó chính là mùi hóa chất Noxema dùng để xử lý các xác chết.

David Rifkin sinh ngày 20/1/1959, cha mẹ Rifkin sinh hắn khi mới chỉ là sinh viên năm thứ nhất, cả hai chưa thực sự sẵn sàng cho cuộc sống gia đình. Một cặp vợ chồng hiếm muộn ở New York tên là Bernard và Jeanne Rifkin đã nhận nuôi Rifkin cùng với một bé gái khác. Cái tên “Rifkin” do Bernard đặt.

Tháng 1/1962, gia đình Bernard chuyển đến Meadow, đảo Long. Rifkin bắt đầu học tiểu học tại trường Tiểu học Avenue. Những ngày tháng ở đây thực sự là địa ngục đối với Rifkin.

Ngay khi bắt đầu đi học, Rifkin đã cảm thấy cuộc sống của mình thật tồi tệ. Hắn trở thành trò đùa cho các bạn cùng lớp.

Bạn bè gọi Rifkin là con rùa vì dáng đi chậm chạp và khom người. Rifkin không có cơ hội được tham gia các cậu lạc bộ thể thao ở trường và ở khu phố. Trò đùa quái đản nhất mà bạn cùng lớp hay làm với Rifkin là lấy trộm đồ ăn trưa và sách vở, thậm chí tụt quần Rifkin ngay trước mặt mọi người. Rifkin càng bị trêu trọc nhiều hơn bởi chứng khó phát âm của mình mặc dù chỉ số IQ của Rifkin là 128.

Kết quả học hành không được tốt của Rifkin là sự xấu hổ của ông Bernard với các đồng nghiệp. Đó là điều dễ hiểu khi ông Bernard làm việc tại Hội đồng Giáo dục ở East Meadow. Bà Jean cảm thấy con trai mình luôn cô độc với bạn bè và bênh vực Rifkin trước những trận đòn của cha mình, bà quên đi mất chồng mình cũng cảm thấy lạc lõng với các đồng nghiệp.

Mọi thứ trở nên tồi tệ hơn với Rifkin khi hắn theo học ở trường cấp hai East Meadow. Những nỗ lực tham gia các câu lạc bộ của Rifkin đều bị bạn bè ngăn cản và tìm cách cách phá hoại. Rifkin luôn phải gồng mình chống lại, ngay cả trong giấc mơ Rifkin cũng mơ mình đang chiến đấu với những người bắt nạt mình.
 

hoahongden12

Active Member

Năm 1977, tốt nghiệp trung học với kết quả thấp nhất lớp những điều này không khiến Rifkin cảm thấy buồn, ngược lại hắn hi vọng mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn khi hắn trưởng thành và vào đại học.

Những những điều Rifkin đã trải qua chưa phải là quá tồi tệ, nhưng điều tồi tệ hơn đang chờ đón hắn phía trước.

Trường đại học đầu tiên Rifkin theo học là đại học Nassau ở đảo Long. Rifkin chỉ hoàn thành được năm thứ nhất ở đây, hắn ngừng học ở năm thứ hai vì lý do nghỉ học quá nhiều. Mùa thu năm 1978, Rifkin lại theo học ở một trường đại học công lập tại Brockport, một vùng ngoại ô Rochester nhưng cũng bị đuổi khỏi đó vào năm 1980.

Quay trở lại đại học Nassau ở đảo Long theo mong muốn của cha mẹ. Nhưng có cố gắng hơn thì Rifkin cũng chỉ hoàn thành được vài môn học. Rifkin quyết định bỏ học lần cuối cùng năm 1984.

Rifkin thực sự thích nhiếp ảnh và mong muốn trở thành một nhà văn nổi tiếng để có thể phá vỡ cuộc sống hiện tại bằng những tác phẩm của mình. Rifkin từng ra ngoài thuê một căn hộ sống để thực hiện đam mê của mình, nhưng thời gian không kéo dài được bao lâu khi thất bại với sự nghiệp của mình. Đó là thời gian Rifkin bắt đầu làm quen với gái mại dâm và phạm tội.

Số tiền kiếm được tròng thời gian này Rifkin đều dành cho những cuộc gặp gỡ với gái mại dâm. Sau này khi không có tiền, hắn bắt đầu giở nhiều chiêu trò để cướp tiền của những cô gái này.

Cha Rifkin bị nghiện thuốc lá, ông được kết luận ung thư tuyến tiền liệt vào mùa thu năm 1986. Quá chán nản với cuộc sống bệnh tật, Bernard đã tự tử bằng liều lớn thuốc an thần vào tháng 2/1987. Chính Rifkin đã viết lời cuối cùng tiễn biệt người cha nuôi của mình. Rifkin mắc chứng trầm cảm sau cái chết của ông Bernard.

Tháng 8/1987, Rifkin bị bắt ở Hempsted khi đang cố gạ gẫm một cô gái mà hắn cho là gái mại dâm, nhưng vô tình đó là một nữ cảnh sát giả danh. May mắn cho hắn khi không bị tạm giam.

Năm 1988, Rofkin theo học một khóa học làm vườn kéo dài hai năm tại một trường cao đẳng ở Farmingdale, New York. Lần đầu tiên trong suốt thời gian đi học, Rifkin vượt qua các kì thi một cách dễ dàng, thậm chí còn nhận được bằng khen, học bổng. Rifkin được nhận thực tập tại một trung tâm ươm giống cây trồng có uy tín ở Oyster Bay, New York.

Điều này khiến Rifkin cảm thất mình tự tin và thu hút hơn. Rifkin để ý đến một cô gái tóc vàng xinh đẹp và có ý định tán tỉnh cô gái này. Việc cô gái này từ chối lời tỏ tình của mình khiến Rifkin thực sự tức giận. Dường như bao nhiêu chuyện trước đây Rifkin đã phải chịu đựng dồn nén vào chuyện này. Lúc này, hắn cần tìm kiếm một ai đó để giải tỏa cơn giận giữ.

Tháng 3/1989, bà Jeanne và cô con gái rời khỏi nhà cho chuyến du lịch, một mình Rifkin với ngôi nhà 2 tầng tại East Meadow. Thời điểm này, Rifkin đã có kế hoạch giết nạn nhân đầu tiên của mình.

10h tối một ngày tháng 3, Rifkin tới Manhattans để tìm kiếm một gái mại dâm cho mình, hắn chọn một cô gái trẻ tên là Susie. Susie nghiện ma túy nặng và đang cần tiền mua thuốc. Rifkin đưa Susie về nhà. Vìa tiếng sau đó, Susie yêu cầu Rifkin đưa cô đi mua thuốc, thay vì giúp cô như đã hứa, Rifkin đã dùng một vật cứng đánh mạnh vào đầu Susie. Rifkin đánh liên tục cho đến khi hắn cảm thấy mệt hoàn toàn.

Susie vẫn còn sống và cố gắng phản kháng lại trước khi Rifkin bóp cổ cô cho đến khi chết hẳn. Rinfkin nhét cái xác vào trong một chiếc túi rác loại lớn, lau sạch vết máu, xóa dấu vết và nằm ngủ như không có chuyện gì xảy ra

Rifkin tới Manhattans để tìm kiếm một gái mại dâm cho mình. Hắn chọn một cô gái trẻ tên là Susie. Susie nghiện ma túy nặng và đang cần tiền mua thuốc. Rifkin đưa Susie về nhà. Vài tiếng sau đó, cô gái bán dâm yêu cầu Rifkin đưa đi mua thuốc. Thay vì giúp cô như đã hứa, Rifkin đã dùng một vật cứng đánh mạnh vào đầu Susie. Rifkin đánh liên tục cho đến khi hắn cảm thấy mệt hoàn toàn.

Susie vẫn còn sống và cố gắng phản kháng lại trước khi Rifkin bóp cổ cô cho đến chết. Rinfkin nhét cái xác vào trong một chiếc túi rác loại lớn, lau sạch vết máu, xóa dấu vết và nằm ngủ như không có chuyện gì xảy ra.

Rifkin đưa xác của nạn nhân dọc theo đường xuyên bang New Jersey. Hắn phi tang đầu và xác cô gái xấu số trong rừng Hopewell. Sau khi lái xe trở về Manhattan, hắn ném tay và những bộ phận còn lại của cô gái xuống sông. Rifkin tin rằng nạn nhân sẽ không bao giờ bị phát hiện. Tuy nhiên, hắn đã phạm một sai lầm.

Ngày 5/3/1989, một thành viên của câu lạc bộ chơi golf Hopewell đã đánh bóng vào rừng. Trong quá trình lấy bóng, người đàn ông này đã tìm thấy chiếc bình đựng đầu của Susie.

Đặc biêt, Rifkin đã vô cùng lo lắng khi biết rằng Susie đã nhiễm HIV. Sau đó cảnh sát đưa nạn nhân vào danh sách 700 phụ nữ đã mất tích vì họ không nhận diện được tung tích nạn nhân. Vụ việc này chỉ được phát hiện khi Rifkin khai nhận vào năm 1993.
 

hoahongden12

Active Member

Hơn một năm sau, Joel Rifkin thực hiện vụ sát hại nạn nhân thứ hai của mình. Đó là vào cuối năm 1990. Nạn nhân lần này cũng là một cô gái bán dâm tên là Julie. Cô gái này có bề ngoài trang điểm và ăn mặc khá giống với thần tượng Madonna của mình.

Theo đó, Rifkin đã lái xe đưa cô gái tới East Meadow và qua đêm tại đây. Vào chừng 9h sang hôm sau, Rifkin mới nhớ lại dự định và hắn đánh đập Julie tàn tệ bằng một cái chân bàn. Sau đó gã bóp cổ cô gái tới chết.

Sau khi nạn nhân đã chết, Rifkin tiếp tục cưỡng hiếp thi thể cô gái xấu số.

Để che giấu tội ác của mình, Rifkin đi ra ngoài mua xi măng. Như lần trước, hắn chia xác nạn nhân ra nhiều phần, bỏ đầu, tay và chân cô gái ra trộn cùng xi măng.

Rifkin lái xe tới con sông gần đó, ném một phần thi thể trộn bê tông của nạn nhân xuống. Phần còn lại hắn đi xe quay ngược về Brooklyn và phi tang tại đó.

Những phần thi thể của Julie không bao giờ được tìm thấy vì Rifkin đã trộn xi măng và phi tang rất kỹ. Cảnh sát và tòa án sau này chỉ có thể kết án Rifkin qua những gì hắn thú nhận và qua lời khai của người thân nạn nhân.

"Nghiện" giết người

Sau hai lần giết người không bị phát hiện, Rifkin bắt đầu coi việc giết người là một việc cần thiết khi không thể giải quyết vấn đề theo ý mình. Hắn không còn phải đợi gần một năm để cho các vụ giết người tạm lắng xuống như hai vụ giết người đầu tiên nữa.

Tháng 4/19991, Rifkin bắt đầu công việc kinh doanh cây cảnh của mình. Hắn thuê một khu khá rộng tại nhà trẻ địa phương để chứa những dụng cụ, thiết bị của mình. Đây là nỗ lực lớn nhất mà Rifkin có thể làm. Nhưng những ám ảnh về hai vụ giết người trước khiến Rifkin không tập trung được vào công việc. Chính nơi Rifkin thuê để kinh doanh này là nơi hắn xử lý xác những nạn nhân tiếp theo.

Nạn nhân tiếp theo là Barbara Jacobs, 31 tuổi, có tiền án về tội trộm cắp và mại dâm. Rifkin gặp Barbara, đưa cô về nhà và sau đó cũng giết hại cô như đã làm với hai nạn nhân trước. Nhưng xác Barbara không bị phi tang tại nhiều nơi. Hắn đã thả xác Barbara xuống một hố nước sâu gần nhà máy xi măng và không lâu sau đó một nhóm lính cứu hỏa trong khi làm nhiệm vụ đã phát hiện ra.

Các nhân viên điều tra kết luận Barbara chết do dùng ma túy quá liều. Barbara được chôn tại nghĩa trang Potters. Không ai xác định được nguyên nhân chính xác và tìm ra hung thủ cho đến khi Rifkin thú nhận mình là hung thủ hai năm sau đó.

Rifkin liên tiếp ra tay với các nạn nhân nữ, chủ yếu là những gái mại dâm. Theo lời thú tội, trong năm 1992, hắn đã sát hại thêm 9 nạn nhân, có những nạn nhân hắn còn không thể nhớ được tên.

Mùa xuân năm 1992, Rifkin trở lại trường học. Hắn tham gia một khóa học thêm. Việc kinh doanh của hắn có vẻ thuận lợi hơn.

Nạn nhân cuối cùng của Rifkin trong năm 1992 là Jenny Soto, một cô gái 23 tuổi, nghiện ma túy. Rifkin đã hãm hiếp Jenny, bóp cổ cô và phi tang cái xác dưới sông Harlem. Xác của Jenny được phát hiện vài ngày sau đó. Cảnh sát nghi ngờ kẻ gây nên cái chết của Jenny chính là bạn trai cũ của cô.

Thêm nhiều nạn nhân nữ bị giết hại một cách rất tình cờ. Rifkin không hề lên kế hoạch cho bất cứ lần ra tay nào.

Nạn nhân cuối cùng trong cuộc đời của Rifkin là Tiffany, một cô gái đến từ miền Nam nước Mỹ. Tiffany đến New York với giấc mơ trở thành vũ công. Sau nhiều năm sống tại New York, Tiffany dính vào ma túy và trở thành gái mại dâm.

Ngày 24/6/1993, Rifkin gặp Tiffany và giết hại cô vào sáng sớm ngày hôm sau, lúc đó khoảng 5h30. Rifkin đã quấn chặt Tiffany bằng vải dày và nhét vào thùng sau xe.

Cái xác được dấu trong xe đến 3 ngày, dưới cái nóng ỏi ả của mùa hè, nó bắt đầu phân hủy và tạo nên mùi khó chịu. Rifkin đã nghĩ đến chuyện phi tang cái xác trước khi bị phát hiện. Và sáng sớm 28/3, trên đường mang cái xác đi phi tang, hắn đã bị cảnh sát yêu cầu dừng xe. Trò chơi giết người của Rifkin kết thúc.

Án tử 203 năm

Các thám tử bắt đầu thẩm vấn Rifkin lúc 8h25 sáng ngày 28/6/1003.

Rifkin đã miêu tả lại tất cả 17 vụ giết người, thậm chí hắn còn vẽ sở đồ để hướng dẫn các nhân viên điều tra tìm xác những nạn nhân hắn đã phi tang. Hắn tỏ ra rất vô tư khi kể về những vụ án, không nghĩ đến hình phạt sẽ phải nhận sau này.

15/7/1993, Rifkin bị buộc tội giết người, bất chấp những lời khai trước đấy, hắn luôn miệng kêu mình vô tội.

Ngày 11/4/1004, phiên tòa xét xủa chính thức được mở.

Trong suốt quá trình xét xử, luật sư của Rifkin không ngừng biện hộ rằng Rifkin có vấn đề về tâm lý và hắn đã không thể kiểm soát được hành vi giết người của mình. Có tới 4 tiến sĩ tâm lý nổi tiếng đã tham gia vào việc giám định tình trạng của Rifkin. Họ đều kết luận hắn không có dấu hiệu bị điên, hắn biết chính xác những gì đã làm. Án chung thân chắc chắn được áp dụng cho Rifkin.

Trước khi bị kết án, ngày 9/5/1994, Rifkin được chuyển đến Suffolk, thời gian tại đây, Rifkin đã dần nhận tội, hắn sẽ phải chịu ít nhất 183 năm từ giam.

Sau nhiều tranh cãi từ phía các bên, cuối năm 1994, Rifkin bị kết án 203 năm tù giam cho 17 vụ giết người mà hắn trực tiếp ra tay.

Hiện tại, Rifkin đang thi hành án tại nhà giam Clinton, New York. Rifkin sẽ có đủ điều kiện tạm tha vào năm 2197.
 

hoahongden12

Active Member

1. Sự mất tích kì lạ

Đã từ khá lâu, sau cái lần cuối cùng họ trò chuyện, người bạn của nạn nhân cảm thấy lạ vì sự mất tích bí ẩn này. Vì quá lo và cũng phần linh tính chẳng lành, bà ấy đã báo ngay với sở cảnh sát để tìm kiếm sự hỗ trợ.

Vào thứ năm, sau khi một người bạn của người quá cố báo cáo rằng cô đã không gặp bà trong khoảng một tháng, một cảnh sát tuần tra đã đến nhà để khám xét cũng như xác nhận việc mất tích.

Thế nhưng khi đến nơi, họ đã tìm thấy nạn nhân những trong một tình huống kinh dị không thể tả nổi.

2. Hiện trường ám ảnh kinh hoàng

Mùi tanh của máu, nặng mùi từ những mảnh thịt đang dần phân hủy bốc ra từ căn bếp, mở cửa ra thì một cảnh tượng tưởng chừng chỉ có trong phim kinh dị. Xác nạn nhân bị cắt thành những mảnh nhỏ, bỏ trong các hộp nhựa, và sau đó cất giấu trong chạn bếp, tủ lạnh và tủ chén. Những hình ảnh của vụ án đáng sợ đến mức giới cảnh sát dày dặn kinh nghiệm vẫn không dám xem lại.

3. Tên sát nhân lại chính là con trai nạn nhân

Theo những gì thu thập tại hiện trường, cảnh sát nhanh chóng tìm ra tên sát nhân máu lạnh. Thật đau lòng và cũng khiếp đảm không kém khi biết đó lại chính là Alberto Sanchez Gomez - con trai nạn nhân, 26 tuổi, hiện đang sinh sống tại Madrid. Sự việc chưa dừng ở đó, bên cánh pháp y đã thu thập lại tất cả mảnh thịt ấy và đưa ra phán đoán bị mất đi một phần khá lớn. Tồi tệ hơn nữa, kẻ này đang bị phía cảnh sát nghi ngờ rằng đã ăn một số thịt bị mất ấy.

4. Lời thú tội vô cảm, đầy kinh hoàng của đứa con trai giết mẹ

Khi bị cảnh sát giam giữ, hắn ta đã tự thú thú nhận về vụ giết mẹ khủng khiếp và hành động cắt cái xác làm trăm mảnh. Kẻ sát nhân cũng thừa nhận rằng hắn đã ăn một phần thịt trong số đó và cho chó ăn.

Hắn hẳn đã có một cuộc tranh cãi lớn dẫn đến mâu thuẫn cực đoan, cuộc xung đột đã tạo nên những suy nghĩ xấu xa, lệch lạc. Cái kết bi thảm chính là Alberto Sanchez Gomez thẳng tay giết chết mẹ mình, không chỉ vậy hắn còn khá kiên nhẫn khi cắt bà ấy ra từng mảnh nhỏ và đem cất mọi ngóc ngách trong bếp. Điều khiến công chúng rùng mình hơn cả, chính là không hiểu vì lý do gì một tên giết người lại mất đi nhân tính để ăn cả thịt mẹ ruột.
 

hoahongden12

Active Member

Cách đây 22 năm, vào năm 1996, tại Nam Kinh (Trung Quốc) đã xảy ra một vụ án giết người phanh thấy chấn động dư luận. Cho đến nay, đó vẫn là một bí ẩn...

Có một sự thật nhức nhối và đau lòng rằng không phải kẻ thủ ác nào cũng sa lưới pháp luật, và nhận những sự trừng phạt mà chúng đáng phải nhận.

Thế giới tồn tại rất nhiều vụ án kéo dài đã mấy chục năm nhưng vẫn chưa hề có lời giải đáp. Những vụ án này đều có diễn biến phức tạp, tình tiết bí ẩn và tính chất nghiêm trọng. Hôm nay, trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng lật lại hồ sơ vụ án giết người phanh thây nổi tiếng năm 1996 tại Nam Kinh, Trung Quốc.

1 - Vụ án xảy ra:

Nạn nhân vụ án là Điêu Ái Thanh, nữ, người trấn Trầm Cao, Khương Yển tỉnh Giang Tô (cuối năm 96, trấn Trầm Cao thuộc Dương Châu, sau khi phân lại khu hành chính thì nay thuộc Giang Tô), sinh tháng 3 năm 1976 (căn cứ khi xảy ra vụ án thì còn chưa đầy 2 tháng là đến sinh nhật 20 tuổi của cô), cao khoảng 165cm - 170cm, dáng người trung bình, tóc ngắn, cận nhẹ, phía trên khóe miệng bên phải có nốt ruồi, cân nặng không quá 50kg.

Thứ tư, ngày 10 tháng 1 năm 1996, Điêu Ái Thanh vào học chưa được ba tháng (hồ sơ của trường đại học có ghi sau ngày khai giảng 1 tháng Điêu Ái Thanh mới nhận được tin báo trúng tuyển, vì vậy cô mới học gần ba tháng) tự ý nghỉ buổi học chiều, sau bữa cơm chiều Điêu Ái Thanh một mình rời khỏi trường học, theo nhân chứng thuật lại, Điêu Ái Thanh được nhìn thấy lần cuối tại đại học Nam Kinh thuộc Thanh Đảo, lúc đó Điêu Ái Thanh mặc áo khoác màu đỏ kiểu dáng phổ thông dành cho nữ.

9 ngày sau không có bất kỳ tin tức nào từ Điêu Ái Thanh, ngày 18 tháng 1, thành phố Nam Kinh có bão tuyết, sáng sớm ngày 19 tháng 1, ở phía nam đại học Nam Kinh, gần trung tâm thành phố Nam Kinh, trong một hẻm nhỏ, một bác gái lao công trong lúc quét đường đã nhặt được trong thùng rác một túi ni lông đen gồm nhiều miếng thịt được cắt nhỏ, lúc đó bác gái tưởng là thịt heo, bèn mang về nhà rửa sạch, kết quả ở trong túi thịt đó phát hiện 3 ngón tay người, lúc này mới báo công an. Cảnh sát khu vực tiến hành điều tra cẩn thận, phát hiện chắc chắn túi thịt này chính là một phần thi thể của nữ sinh viên Điêu Ái Thanh.

Sau đó cảnh sát lấy đại học Nam Kinh làm trung tâm, dự đoán khả năng địa điểm gây án rồi cho người tiến hành tìm kiếm, thu thập tin tức từ người dân, thế nhưng tới giờ cũng không tìm thấy địa điểm gây án ban đầu, tức là địa điểm mà hung thủ đã phanh thây nạn nhân, từng bắt giữ nhiều kẻ tình nghi nhưng tất cả đều được minh oan.

2 - Điêu Ái Thanh trước khi mất tích:

Tháng 9 năm 1995, vì nguyên nhân không rõ, Điêu Ái Thanh vào học chậm gần một tháng so với những học sinh khác, cô học khoa quản lý thông tin và ứng dụng máy tính hiện đại chuyên nghiệp hệ tại chức tại đại học Nam Kinh. Mới đây, phía nam khu ký túc xá 4 đại học Nam Kinh tu bổ lại, khu này trở thành ký túc xá cũ của trường.

Chủ nhật, ngày 7 tháng 1 năm 1996, trước ngày Điêu Ái Thanh mất tích 3 ngày, Điêu Ái Thanh tham dự tiệc sinh nhật bạn thân thời phổ thông ở Khương Yển giờ cũng học đại học tại Nam Kinh (tờ Southern Weekly lúc đưa tin đã dùng tên giả là Phan Tú Lệ, đây là bạn học thời phổ thông của Điêu Ái Thanh, năm 1994 thi vào đại học Nam Hàng, thời điểm Điêu Ái Thanh mất tích đang học đại học năm 2). Dựa theo hồi ức của Phan Tú Lệ, đêm đó, Điêu Ái Thanh không về trường mà ở lại nhà Phan Tú Lệ, hôm sau mới trở về.

Thứ hai, ngày 8 tháng 1 năm 1996, trước ngày Điêu Ái Thanh mất tích 2 ngày, không thu thập được bất kỳ thông tin gì.

Thứ ba, ngày 9 tháng 1 năm 1996, trước ngày Điêu Ái Thanh mất tích 1 ngày, Điêu Ái Thanh không đi học mà ra ngoài đi chơi cả ngày, đến khuya mới về, Điêu Ái Thanh nói là cùng đồng hương đi chơi.

Thứ tư, ngày 10 tháng 1 năm 1996, buổi sáng của Điêu Ái Thanh như thế nào thì tôi không biết rõ lắm, nhưng buổi trưa, Điêu Ái Thanh về đến ký túc xá, buổi chiều bạn cùng phòng đi học thì Điêu Ái Thanh nói mình “thân thể khó chịu”, vẫn nghỉ học, sau đó không có tin tức về hướng đi của Điêu Ái Thanh, tới chạng vạng, căn cứ lời kể thống nhất của các nhân chứng và các bản điều tra, Điêu Ái Thanh ăn cơm tối xong lập tức rời khỏi ký túc xá, sau đó, vào chạng vạng ngày 10 tháng 1 năm 1996, Điêu Ái Thanh vĩnh viễn biến mất, cho đến khi cô xuất hiện trở lại đã là 9 ngày sau, theo một phương thức mà chúng ta không bao giờ mong muốn.

3 - Những địa điểm phát hiện thi thể bị phanh thây:

Trên diễn đàn Thiên Nhai có một topic tên là “Tổng hợp lại đầu mối vụ án phanh thây tại đại học Nam Kinh”, người tạo topic có tên là “Vi Quang Bằng” là một cư dân mạng quan tâm vụ án này đã nhiều năm. Anh cùng những người bạn trên mạng khác như “asdf sartre”, “dragut”, “Trời xanh sinh trăng sáng” không ngừng sàng lọc các loại tin tức, chỉnh lý và bổ sung tin tức, thu thập chứng cứ từ cảnh sát, từng bước tập hợp địa điểm phân bố thi thể thực sự. Căn cứ tin tức của họ, chúng ta có những địa điểm sau:

1. Địa điểm đổ rác số 13 ngõ Đại Giản Ngân đường Thượng Hải: là nơi mà bác gái quét đường nhặt được túi nilon đen có những tảng thịt và chứa ba ngón tay.

2. Công trường đang thi công ở đường Hoa Kiều: chính là đường Hoa Kiều được nhắc đến rất nhiều, nơi mà năm 1996 có công trường đang xây dựng.

3. Cửa phụ của trường đại học Nam Kinh trên đường Thiên Tân (trên lan can?): tuy không có tin tức hay bằng chứng xác thực, nhưng có hồi ức của nhân chứng thời điểm xảy ra vụ án rằng “có túi đựng thi thể bị quăng vào lan can đối diện cửa trường”.

4. Cầu Tiểu Phấn gần khu đổ rác: là nơi phát hiện hai người khả nghi cầm theo túi nilon màu đen cùng chủng loại với túi đựng thi thể

5. Khu vực bệnh viện trực thuộc đại học Nam Kinh gần đường Hán Khẩu (cửa phụ nào đó?): cũng dựa theo hồi ức của “Lặn xuống nước a lặn xuống nước nhiều năm”.

6. Sân thể dục đại học Nam Kinh (gốc cây?): vẫn chưa xác định được.

7. Khu vực sông gần khu đổ rác: là nơi phát hiện phần đầu của Điêu Ái Thanh.

8. Khu vực sông gần chỗ nước thải: là nơi phát hiện áo khoác màu đỏ của Điêu Ái Thanh.

9. Những địa điểm phát hiện các phần thi thể khác: căn cứ hồi ức của một số nhân chứng lúc đó (chủ yếu là sinh viên đại học Nam Kinh thời điểm xảy ra vụ án năm 1996), rất có khả năng hung thủ còn vứt những phần thi thể ở nhiều nơi khác quanh đại học Nam Kinh.

Danh sách địa điểm phía trên không xếp theo thời gian phát hiện các phần thi thể, không theo thứ tự logic nào, chỉ đơn giản là liệt kê. Dựa vào những địa điểm được nhắc đến trong topic “Tổng hợp lại đầu mối vụ án phanh thây tại đại học Nam Kinh” trên diễn đàn Thiên Nhai, đối chiếu với một số hồi ức của đương sự cùng những tin tức đã được chứng thực.
 

hoahongden12

Active Member

Khi phỏng chừng được những địa điểm hung thủ vứt xác, chúng ta lại điểm qua chi tiết về những phần thi thể và vật chứa thi thể ở những địa điểm trên.

Có thông tin về những túi được các phần thi thể của Điêu Ái Thanh như sau:

- Túi thứ nhất là túi du lịch màu xám đen, mặt trước có in dòng chữ Thượng Hải, mặt sau có hình máy bay và hình cầu Trường giang.

- Túi thứ hai là túi du lịch màu xanh lá mạ bằng vải bạt, mặt trước có in chữ non nước Quế Lâm, mặt sau không rõ.

- Túi thứ ba là là một cái ba lô da trâu màu lam, không rõ hình dạng kiểu dáng, theo người biết tin kể lại thì đó là túi đựng xương.

- Túi thứ tư là một tấm trải giường in hoa bị xé làm hai nửa, bọc lấy phần thi thể gồm đầu lâu, nội tạng cùng với quần áo dính máu, được phát hiện trong một đống rác ở một khu phố nhỏ. Ngay sau khi phát hiện, cảnh sát đã tăng quy mô điều tra ở khu phố này nhưng không thu hoạch được gì, thật làm người ta khó hiểu.

- Túi cuối cùng là quần áo của Điêu Ái Thanh, màu đỏ thẫm có viền đen, cũng là thứ dùng để bọc một phần thi thể của cô, được phát hiện khi mắc vào miệng cống thoát nước hình chữ nhật, cảnh sát phát hiện ra khi đang đi tuần tra gần đó.

Còn về tình trạng của các phần thi thể ở các địa điểm phát hiện thì thế này:

- Ngày 19/1/1996:

1. Địa điểm đổ rác số 13 ngõ Đại Giản Ngân: Túi rác màu đen đựng 0.7kg thịt và 3 ngón tay

2. Công trường đang thi công ở đường Hoa Kiều: túi rác màu đen đựng 0.8kg thịt

3. Đường Tiểu Phấn Kiều gần khu đổ rác: phát hiện 2 túi du lịch

Túi du lịch Quế Lâm: 6.5kg thịt và nội tạng

Túi du lịch Thượng Hải: 5.0kg thịt nội tạng

- Ngày 19 hoặc 20/1/1996:

4. Khu vực bệnh viện trực thuộc đại học Nam Kinh gần đường Hán Khẩu: túi rác đựng 0.8kg thịt

5. Cửa phụ của trường đại học Nam Kinh trên đường Thiên Tân: ba lô da trâu màu lam 7.5kg

6. Sân thể dục đại học Nam Kinh: túi rác màu đen đựng thịt nội tạng 0.6kg

- Ngày 21-31 tháng 1 năm 1996:

7. Khu vực sông gần khu đổ rác:

Ga giường 1 có dính máu, đầu lâu và 3kg thịt

Ga giường 2 có quần áo dính máu và 1.5kg thịt

8. Khu vực sông gần cống thoát nước áo khoác màu đỏ đựng 3kg thịt

Túi nặng nhất, là ba lô phát hiện ở cửa trường đại học Nam Kinh, ước chừng 7.5 kg đựng xương của người bị hại. Căn cứ những gì cảnh sát miêu tả, lúc Điêu Ái Thanh bị phanh thây, hung thủ cố ý róc xương cô ra, cắt nhỏ thịt trên người cô, thì cái ba lô đựng xương này phù hợp với miêu tả của cảnh sát.

Khu vực có nhiều phần thi thể bị vứt nhất, là đống rác gần Tiểu Phấn Kiều, tổng cộng phát hiện 2 túi du lịch, tổng cộng khoảng 12.7kg, chiếm khoảng 1 phần 3 tổng trọng lượng các phần thi thể tìm được.

Phần thi thể đặc biệt nhất là hai phần thi thể được vứt gần bờ sông, đầu lâu và quần áo của Điêu Ái Thanh được bọc trong 2 mảnh ra giường, tiếp theo là phần thi thể và áo khoác được phát hiện ở cống thoát nước, đây là 2 phần thể hiện rõ ràng đặc trưng của Điêu Ái Thanh nhất.

4 - Tình trạng thi thể của Điêu Ái Thanh sau khi bị phanh thây:

Dựa theo các tư liệu bên trên, chỉ tính những địa điểm chính xác, thì tổng trọng lượng thi thể của cô vào khoảng 30.6kg, nếu cộng thêm những phần thi thể được phát hiện rải rác thì trọng lượng này vào khoảng trên dưới 32kg.

Về trạng thái của các phần thi thể, đa phần đều được miêu tả là “hơn một ngàn phần, có dấu vết bị nấu, ruột được xếp đặt chỉnh tề”, đương nhiên miêu tả này cũng chưa chắc chắn, trong tờ Thời báo hiện đại đưa tin nói là có hơn ngàn phần, lại có báo khác đưa tin nói là hơn hai ngàn, ba ngàn phần, còn việc thi thể có bị nấu không thì có nơi ghi là bị nấu hết toàn bộ, có nơi lại ghi là bị trụng nước sôi.

Căn cứ theo topic “Tổng hợp manh mối vụ án phanh thây ở đại học Nam Kinh”, ta tổng hợp sơ được thế này:

Hơn 2000 miếng thịt, cắt rất nhỏ, tứ chi chỉ bị cắt đúng 1 lần, năm 08 có phát hiện thêm vụn gỗ trong thịt, thế nhưng khá bất ngờ là trong đó lại phát hiện vài mẫu thịt heo, tử cung nội tạng đều tìm được, chỉ không để chung một chỗ mà thôi.

Các ngón tay đều bị chặt riêng, các bộ phận đặc thù bị phân ra rồi vứt đi, thịt một phần, xương một phần, tứ chi bị một vật sắc nhọn cắt, xương bị chặt ở các đốt, nội tạng bị lần lượt tìm thấy, một vài bộ phận bị trụng nước sôi, từ vết cắt thịt cho thấy có trên hai cách cắt, các phần thịt và xương xếp khá có quy luật.

Ruột xếp theo quy tắc, dựa theo chiều dài đáy túi xếp qua lại, tổng cộng có bốn tầng rưỡi, trộn lẫn với các miếng thịt nát, có chỗ vật bài tiết tràn ra khỏi ruột.

Một người bình thường, các dịch nước tạo thành từ tế bào nội dịch và ngoại dịch chiếm khoảng 60% cơ thể, trong đó dịch tạo thành từ tế bào nội dịch chiếm 40%, tế bào ngoại dịch, dịch giữa các tổ chức cơ thể và huyết tương trong máu lần lượt chiếm 16% và 5% cơ thể, tổng sản lượng máu lại chiếm khoảng 7-8% tổng trọng lượng cơ thể người.

Hung thủ sau khi phanh thây, máu và các dịch giữa các tổ chức cơ thể của Điêu Ái Thanh xem như đã chảy hết, tức khoản 20% tổng trọng lượng cơ thể, thêm các phần cơ thể bị tìm thấy có dấu hiệu bị nấu, như vậy mỡ cơ thể cũng đã gần hết, thể trọng lại giảm đi hơn 10% nữa, tức là, dù có tìm được toàn bộ thi thể của nạn nhân, thì tổng trọng lượng cũng thấp hơn 35kg, căn cứ phần 5 đã phân tích ở trên, ta biết tổng trọng lượng thi thể của Điêu Ái Thanh sau khi thu thập vào khoản trên 32kg, đó là chưa tính các phần thi thể rải rác khác, như vậy con số xấp xỉ 35kg đã đủ chứng minh, vào tháng 1/1996 cảnh sát đã thu thập tương đối đầy đủ thi thể Điêu Ái Thanh, nội tạng không thiếu thứ gì.

5 - Xác nhận thân phận của thi thể và quá trình điều tra của cảnh sát:

Cảnh sát phát thông báo bắt đầu điều tra án, các xí nghiệp trường Đại học hoặc Cao đẳng có nhân viên hoặc sinh viên nữ mất tích hoặc nghỉ không xin phép trong thời gian dài có những đặc điểm nhận dạng trùng khớp đến xác nhận thi thể.

Trường Nam Kinh đã cử 3 giáo viên và 6 học sinh đến, không thể xác nhận qua hình ảnh nên có 4 người đã nhìn thi thể, dù đã chuẩn bị sẵn tâm lý, nhưng nhìn xong thì đều khóc ói hết, người nhận ra thi thể là bạn chung phòng của Điêu Ái Thanh.

Cảnh sát sau khi xác định nạn nhân là Điêu Ái Thanh, lập tức tổ chức tập trung các nữ sinh trong trường đến, trong buổi họp cảnh sát đã nói sơ qua về vụ án, mục đích chủ yếu là cung cấp manh mối chung quanh vụ án, lúc đó cảnh sát đã để lại rất nhiều số điện thoại, email hy vọng có người sẽ báo cáo hoặc tố giác.

Sau đó, tổ điều tra của cảnh sát đã thường trú ngay trong Đại học Nam Kinh, thông qua báo cáo, thu thập tư liệu, vân tay, khảo vấn những đối tượng hoài nghi trong trường.

Cảnh sát lấy đại học Nam Kinh làm trung tâm rồi phân bố tìm kiếm địa điểm có khả năng là hiện trường phanh thây nạn nhân, các địa điểm tập trung điều tra là nơi có bồn tắm lớn và có cống thoát nước. Đồng thời họ cũng điều tra những nhóm người đặc biệt như đồ tể, còn sắp xếp điều tra những người có các vật phẩm đặc thù như súng săn kiểu cũ và xe đạp dùng để vận chuyển và vứt bỏ thi thể.

Nhiều cư dân mạng đề cập tới xét nghiệm DNA, tuy rằng đây là cách làm rất bình thường trong việc điều tra án, nhưng ở Trung Quốc, năm 1996 xét nghiệm này chưa được phổ biến, dựa theo tư liệu của tôi, thì giữa những năm 90 ở Trung Quốc, chỉ có vài thành phố có làm xét nghiệm DNA song đó chỉ là xét nghiệm lấy thông tin DNA, tới tận thế kỷ 21 mới có xét nghiệm so sánh DNA. Nói cách khác, tại thời điểm đó dù có thu thập được DNA của hung thủ, cũng không thể biết được hung thủ là ai.

Phần 8 - Phần cuối: Suy luận của cư dân mạng

Nhắc tới vụ án phanh thây "1.19", nhất định phải nhắc tới cư dân mạng tên "Hắc Di Tát" và topic “Một vài ý kiến về vụ án phanh thây ở Đại học Nam Kinh” của anh ta.

"Hắc Di Tát", nam, sinh năm 1982, một cư dân mạng trên diễn đàn Thiên Nhai, người Nam Kinh, học chuyên ngành luật, từng làm việc ở pháp viện và văn phòng luật sư, thích âm nhạc và văn học, cha là cảnh sát, vào năm 2008 khi lập topic đó, anh ta đang làm việc cho một ngân hàng, khi vụ án “1.19” được phát hiện, anh ta chỉ mới 14 tuổi.

Năm 2008, những suy đoán của "Hắc Di Tát" về vụ án phanh thây ở đại học Nam Kinh, khiến cho vô số cư dân mạng chú ý, càng khiến cho cư dân mạng hoài nghi thân phận của anh ta, thậm chí có vô số người nghi ngờ anh ta chính là hung thủ của vụ án “1.19”. Sau hàng loạt hành động như vạch trần thân phận thật ngoài đời, rồi phân tích, điều tra gốc gác của anh ta, đến cuối cùng cảnh sát Nam Kinh phải tham gia điều tra, bắt “Hắc Di Tát” đi thẩm vấn, mới có những tin tức sau này.

Toàn topic chỉ có 2500 chữ, không dài, có thể chia làm 11 đoạn ngắn, 11 đoạn này lại có thể chia làm 6 phần:

1. Căn cứ vào trạng thái thi thể của nạn nhân xác định hung thủ có tâm lý và chỉ số thông minh rất cao, từ đó kết luận hung thủ có học thức cao.

2. Suy đoán nạn nhân chủ động theo hung thủ tới hiện trường, từ đó kết luận hung thủ và nạn nhân là người quen, lại suy ra hai người có chung sở thích.

3. Căn cứ vào việc nạn nhân ở Nam Kinh nơi có văn hoá vô cùng đậm đà, suy ra nạn nhân và hung thủ quen nhau là vì niềm yêu thích "Cracked CD".

4. Suy đoán nạn nhân làm hung thủ nhớ lại những hồi ức bất hạnh lúc nhỏ, hung thủ giết nạn nhân sau đó phanh thây, từ đó đạt được cân bằng trong tâm lý.

5. Phác thảo tranh tâm lý của hung thủ.

6. Nói rõ những điều trên đều là suy luận từ cá nhân chủ topic.

Dù đã rất nỗ lực điều tra nhưng cảnh sát Nam Kinh vẫn không thể khiến hung thủ sa lưới pháp luật. Mặt khác, mặc kệ những sự đào xới của cư dân mạng với hy vọng vụ án không “chìm xuồng”, thì cho đến thận bây giờ, sau tận 22 năm, đây vẫn là một trong những thảm án kinh hoàng nhất, bí ẩn nhất và vô vọng nhất của Trung Quốc.
 

hoahongden12

Active Member

Không ai ngờ một người có lý lịch sạch sẽ và lý tưởng như Woo Bom Gon trong chớp mắt lại có thể biến thành kẻ cuồng sát man rợ bậc nhất lịch sử Hàn Quốc.

Sinh ngày 24/2/1955, Woo Bom Gon từng phục vụ trong lực lượng hải quân Hàn Quốc cho đến năm 1978. Năm 1980, hắn chuyển đến công tác ở Sở cảnh sát Quốc gia trước khi được điều về đồn địa phương khu vực Uiryeong, tỉnh Nam Gyeongsang, cách thành phố Seoul hơn 300km.

Chính vì hồ sơ cá nhân quá xuất sắc như thế nên chưa ai nghĩ rằng Woo trong chớp mắt có thể biến thành kẻ cuồng sát man rợ bậc nhất lịch sử Hàn Quốc.

Chiều ngày 26/4/1982, Woo đang ngủ thì bị bạn gái Chun Mal Soon đánh thức vì lỡ tay đập một con ruồi đang bu trên ngực hắn. Cộng với chút men say có sẵn trong người, Woo nổi trận lôi đình, 2 bên xảy ra cự cãi nghiêm trọng trước khi hắn rời đi đến đồn cảnh sát, nơi hắn làm việc, vào khoảng 4 giờ chiều.

Sau đó hơn 3 tiếng, Woo trở về nhà đập phá đồ đạc, hành hung bạn gái rồi bỏ đến cơ quan một lần nữa. Thời điểm đó, cuộc họp đang diễn ra nên không ai để ý việc Woo đột nhập vào kho vũ khí, ăn trộm súng và một vài quả lựu đạn.

Woo bắt đầu ra tay sát hại nạn nhân đầu tiên là một người đi bộ trên đường vào lúc 9 giờ 30 phút tối. Tiếp đó, hắn tiến vào bưu điện địa phương, giết chết 1 nhân viên tổng đài và 3 nhân viên trực ca đang làm nhiệm vụ. Trên đường tiến ra chợ, Woo gặp ai là bắn chết người đó không chút thương tiếc.

Với danh nghĩa là cảnh sát địa phương, Woo không gặp bất kỳ khó khăn nào trong việc giành lấy sự tin tưởng của mọi người. Nhìn thấy hắn, người dân không chút đề phòng, lại còn cười nói và mời vào nhà dùng trà. Hàng loạt người vô tội vì vậy mà mất mạng dưới tay kẻ cuồng sát.

1 tiếng sau, Woo di chuyển đến khu vực Ungyeri, tỉnh Gangwondo. Tại đây, hắn nhờ một cậu bé trong xóm đến cửa hàng tiện lợi mua nước hộ. Sau khi đạt được mục đích, Woo nhẫn tâm ra tay sát hại bé trai đáng thương kia và cả gia đình người bán nước.

Cứ như thế trong suốt đêm dài, Woo đi đến đâu, tiếng súng vang lên đến đó, cảnh tượng thi thể nằm la liệt, máu chảy lênh láng khiến người ta không khỏi rùng mình.

Dù nhận được tin báo chỉ vài phút sau khi Woo bắn chết nạn nhân đầu tiên nhưng phải mất đến 1 tiếng, cảnh sát mới huy động được lực lượng gồm 37 người lên đường truy tìm tung tích của kẻ thủ ác vô nhân tính. Đó là chưa kể, đến tận 1 giờ 40 phút sáng, vụ việc mới chính thức được trình báo lên trụ sở Cảnh sát Quốc gia Seoul.

Trong khoảng thời gian đó, Woo tiếp cận một gia đình làm nông cách sở cảnh sát tầm 4km. Viện cớ truy bắt phản động, Woo yêu cầu các thành viên trong nhà tập hợp tại phòng khách trước khi lộ rõ bộ mặt thật và bắt giữ tất cả làm con tin.

2 tiếng sau khi cảnh sát ập đến, Woo không chống trả hay đầu hàng. Hắn bình thản tháo chốt 2 quả lựu đạn với mục đích tự kết liễu đời mình cùng con tin. Chỉ có duy nhất 1 người may mắn sống sót sau vụ nổ thảm khốc ấy.

Vụ xả súng liên hoàn kết thúc sau 8 tiếng với 55 người chết, chưa bao gồm Woo và 36 người bị thương được đưa đến chữa trị ở bệnh viện Jinju và Masan.

Trong số đó, 1 đứa trẻ bị bắn được cấp cứu gần như ngay lập tức nhưng không qua khỏi, qua đời vào ngày 8/5 đã nâng tổng số người thiệt mạng lên con số 56.

Bạn gái của Woo sau đó được cảnh sát triệu tập để lấy lời khai. Cô cho biết người yêu quá cố của mình trong suốt thời gian dài phải sống trong e dè và bị làm phiền bởi những lời đàm tiếu xung quanh về việc 2 người họ sống chung mà không cưới xin.

Có lẽ vì thế mà trong một phút bốc đồng không kiềm chế được cơn thịnh nộ, hắn đã ra tay giết người dã man.

Việc một viên cảnh sát trong chớp mắt trở thành kẻ sát nhân đáng sợ, gây ra vụ thảm sát chấn động Hàn Quốc khiến người dân xứ Kim Chi vô cùng bức xúc. Mọi người rồi sẽ biết đặt niềm tin vào đâu nếu như đến cả lực lượng chức năng vốn được lập ra để bảo vệ cuộc sống dân sinh giờ đây cũng không còn an toàn và đáng tin cậy.

Vụ án nghiêm trọng khiến cảnh sát trưởng tỉnh bị đình chỉ và 4 viên cảnh sát khác bị bắt vì tội cẩu thả, lơ là trách nhiệm trong lúc làm việc. Chính vì áp lực dư luận quá lớn nên hàng loạt các quan chức như Bộ trưởng Nội vụ Hàn Quốc và Cảnh sát trưởng Quốc gia đã phải nộp đơn từ chức để xoa dịu lòng dân.

Một đội đặc nhiệm đặc biệt sau đó được thành lập để tiếp tục điều tra vụ nổ súng cũng như đảm nhận trách nhiệm xử lý những hậu quả mà Woo để lại. Tổng thống Hàn Quốc cũng bày tỏ niềm thương tiếc đối với những nạn nhân xấu số đồng thời chỉ thị bồi thường cho gia đình họ.

Đây được xem là vụ án giết người hàng loạt dã man và “tùy hứng” nhất trong lịch sử hình sự xứ sở Kim Chi.
 

hoahongden12

Active Member

Dù sự việc đã xảy ra rất lâu và phía cảnh sát cũng kết luận là tự tử nhưng gia đình chàng cảnh sát xấu số vẫn cho rằng đây là một vụ án đầy uẩn khúc và có gì đó chưa được đưa ra ánh sáng.

1. Xác chết hồ câu cá

Ngày 29/7/2010, trong khi đang đi câu cá tại một hồ nước ở Chungbuk, người đàn ông họ Min phát hiện ra một xác chết. Người đàn ông này đã lục soát người nạn nhân và tìm thân trong túi áo một thẻ cảnh sát và xác nhận danh tính người chết là thám tử Lee Yong Jun của sở cảnh sát Gangnam.

2. Nạn nhân là thám tử cảnh sát Gangnam

Vị thám tử này đã hoàn thành khoá học điều tra và được phân công về làm việc tại tổ điều tra tội phạm. Trước đó, Lee là cảnh sát ưu tú của một bộ phận khác và từng nhận được bằng khen trong 3 năm liền. Anh được báo mất tích 2 ngày trước khi phát hiện đã tử nạn.

3. Bí hiểm chuyện báo tử

Ban đầu, cảnh sát điều tra báo với gia đình nạn nhân rằng:

Thám tử Lee Yong Jun gặp vấn đề về chuyện tình cảm. Việc này đã khiến anh ấy bị trầm cảm và ít nói đi. Trước tiên, chúng tôi sẽ thông báo rằng anh ấy tự tử để không khiến người dân sợ hãi. Sau đó, sở sẽ tiến hành điều tra cụ thể.

Vì tin tưởng và coi những vị cảnh sát đó như con cái mình nên gia đình nạn nhân đã đồng ý mà không suy nghĩ gì thêm. Tuy nhiên, một tháng sau khi công bố, sở cảnh sát Gangnam đã tự ý kết thúc điều tra và kết luận anh Lee tự tử. Vì thấy còn nhiều uẩn khúc trong cái chết của con trai, phía gia đình không đồng tình với kết quả này.

4. Tai nạn ôtô khó hiểu

Quay về thời gian trước khi vụ án xảy ra, vào ngày 26/7, thám tử Lee Yong Jun được phân làm ca đêm. Anh đã đến một trạm cảnh sát gần chỗ làm để photo tài liệu về một vụ án bí ẩn. Sau đó, anh có hẹn uống rượu tới sáng với một người đàn ông họ Seo. Anh Lee đã qua đêm tại nhà anh Seo này.

Sáng 27/7, anh Lee nhận được 1 cuộc điện thoại. Sau khi đáp lại người gọi là:

"Vâng thưa sếp. Tôi xin lỗi vì tới muộn"

Thế nhưng, tuy anh ấy rời đi nhưng Lee không hề tới chỗ làm. Kiểm tra GPS trên xe, cảnh sát xác định rằng Lee tới một tiệm sửa xe ở tận Busan nhưng trên đường về, anh ấy bị tai nạn. Kỳ lạ là, Young Jun đã đâm xe vào rào chắn của đường 4 làn rồi lao tiếp vào đường 1 làn. May mắn là lúc đó không đường vắng nên chỉ mình anh ấy bị thương nhẹ ở trán.

5. Biến mất bí ẩn trong bệnh viện

Một lúc sau, xe cứu hộ tới đưa Lee vào bệnh viện Youngdong gần đó. Khi đang được truyền dịch, vị thám tử này báo muốn đi vệ sinh. Một lúc lâu sau vẫn không thấy anh ta trở về, y tá đi tìm và phát hiện cột truyền nước bị vứt lại còn bệnh nhân đã biến mất. Đó là nơi cuối cùng anh Lee được nhìn thấy. Đây là CCTV của bệnh viện chụp lại hình ảnh của Lee Yong Jun.

6. Những điểm đáng ngờ của vụ án

Hồ nước nơi phát hiện xác chết sâu 1.5m nhưng thám tử Lee cao 1m75. Việc anh ta tự tử tại hồ nước nông này và chết đuối là rất vô lý. Có giả thiết cho rằng, anh Lee chết đuối ở một chỗ sâu và dạt về hồ này nhưng người ta đã xác nhận rằng, không có đập nào gần đó.

Giả thiết anh Lee chết đuối vì say rượu cũng bị loại bỏ. Ngày 26, anh Lee nhậu với người quen nhưng chỉ uống 1 chai. Lúc tai nạn diễn ra, anh Lee đã được kiểm tra nồng độ cồn trong máu tại bệnh viện. Kết quả dưới mức 0.01%.

Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy, có vết giống vết thắt cổ trên người nạn nhân. Cảnh sát giả định rằng đây là vết cỏ nước cuốn vào hoặc vết thắt do lúc tai nạn, Lee vướng vào cổ vào dây thắt an toàn mà có. Phía bệnh viện xác định, lúc tới cấp cứu tại đây, anh Lee không hề có vết tích gì trên cổ.

Trong máu nạn nhân có Diphenhydramine, một loại thuốc cảm cúm có tác dụng phụ là gây buồn ngủ. Loại thuốc này phải có đơn thuốc mới được mua và bị cấm dùng khi lái xe. Điều tra bệnh án của Lee, không hề có một đơn thuốc nào có Diphenhydramine. Phía bệnh viện Youngdong cũng cho biết không hề cho bệnh nhân uống thuốc này.

Xương trán và xương đỉnh đầu của anh Lee bị vỡ. Cảnh sát khẳng định là do tai nạn giao thông. Thế nhưng lý do phần xương đỉnh đầu bị gãy thì lại không được làm rõ. Nhưng nếu xét khoảng cách từ vô lăng tới đầu người lái hoặc kính chắn gió tới đầu người lại, xương đỉnh đầu chỉ bị vỡ khi chiếc xe nát bét hoàn toàn. Còn với khoảng cách thông thường thì chỉ bị va đập nhẹ. Còn nếu đập đầu vào cửa bên, nạn nhân sẽ phải có vết thương ở thái dương. Nhưng anh Lee lại không hề có dấu vết này.

Anh Seo mà Lee uống rượu cùng không phải là người thường. Seo là một đặc vụ tình báo mà Lee quen trong khoá học điều tra. Vị này quen một đặc vụ ở Busan và là chủ tiệm sửa xe. Seo giới thiệu Lee tới đó để gặp đặc vụ này.

Phát hiện những sinh vật phù du trong phổi của thám tử Lee Yong Jun. Nhưng cảnh sát lại dựa vào đó để chứng minh Yong Jun tự tử. Họ cho rằng nếu bị sát hại ở một địa điểm khác thì sẽ không thể tìm thấy được những sinh vật này. Tuy vậy, sinh vật trong phổi Lee là sinh vật nước mặn. Cảnh sát sau đó đã xin lỗi và giải thích đó là sai sót của pháp y.

Bản tường trình của nhân chứng Seo rất kỳ lạ. Ông ta nói rằng khả năng giải rượu của mỗi người là khác nhau. Rất khó để giải được hết rượu vào sáng hôm sau.

Còn đây là phần thảo luận chưa bao giờ được đưa ra cùng với công bố chính thức của vụ án:

- Anh Lee không hề có rắc rối về tình cảm như cảnh sát tuyên bố.

- Lúc nhận được cuộc điện thoại bí ẩn, thám tử Lee có xưng hô với đối phương là "Sếp". Vậy nhưng ở các sở cảnh sát, người ta thường chia 2 người một đội. Việc sếp tức cảnh sát trưởng trực tiếp liên lạc với cấp dưới như vậy hầu như không xảy ra.

- Theo tường trình của ông Min - người phát hiện ra cái xác, có một chiếc xe ô tô đen ở gần hiện trường.

Rất hiếm ai lại photo tài liệu quan trọng rồi đi nhậu và ngủ tại nhà bạn. Bởi nếu sơ suất, anh Lee sẽ có thể để lộ bí mật điều tra.

- Tại sao Lee lại phải tới sở cảnh sát gần cơ quan để photo mà không làm việc đó ngay tại chính sở Gangnam?

- Theo người dân địa phương, hồ nước nơi nạn nhân được phát hiện là địa điểm mà người vùng ngoài rất ít khi biết tới. Khoảng cách từ bệnh viện tới hồ này cũng khá xa. Vậy tại sao Lee phải cất công tới đây để tự tử?

- Ban đầu, cảnh sát thuyết phục gia đình từ chối khám nghiệm tử thi và ép họ tin rằng đó là một vụ tự sát.

- Cảnh sát chưa bao giờ tiết lộ nội dung cuộc trò chuyện của họ với phía gia đình nạn nhân. Họ điều tra mọi việc ở sở cảnh sát, nhưng chưa bao giờ công khai các cuộc điện thoại trước và sau vụ án xảy ra.

Trong xe nạn nhân có máy ảnh và tài liệu photo. Cảnh sát đã thuyết phục bố nạn nhân đưa hết cho họ và giấu nhẹm đi.

Vậy trong suốt thời gian trước đó, Lee Yong Jun đã điều tra những gì?

- 63 cảnh sát đã được xác nhận có liên quan tới đường dây kinh doanh giải trí người lớn ở Gangnam.

- Mại dâm và giải trí người lớn ở Gangnam – Điều tra sự nhúng chàm của cảnh sát

- Cảnh sát – dịch vụ giải trí người lớn. Hé lộ mối quan hệ.

- Nghi ngờ cảnh sát bảo kê – ngành công nghiệp giải trí người lớn ở Gangnam trốn 4,2 tỷ tiền thuế

- Tại sao cuộc điều tra phòng thẩm mỹ tại Gangnam lại kết thúc vô lý như vậy?

- Không giải thích việc cảnh sát bảo kê? Chỉ giải quyết các vụ trốn thuế?

- "Kết thúc lộn xộn". Xoá bỏ hoàn toàn hiện tượng cảnh sát bảo kê

- Dịch vụ giải trí người lớn ở Gangnam - điều tra mối liên hệ với cảnh sát chưa được hoàn thành

- Thị trường giải trí người lớn 300 tỷ - cấu kết - ai biết?

Vậy Chuyện đó là những thông tin mật trong nội bộ mà chỉ cần bỏ tiền là các cơ sở kinh doanh có sai phạm này sẽ có được. Những kẻ làm kinh doanh muốn tránh các cáo buộc liên quan tới mại dâm và kinh doanh dịch vụ giải trí 18 .

Một tấm séc trị giá 1 triệu won đã được gửi tới đám tang của vị thám tử xấu số. Người ta đã cố gắng liên lạc với phía sở cảnh sát Gangnam để hỏi về nguồn tiền. Nó vô vọng như việc yêu cầu điều tra lại.

Vụ án này chắc chắn sẽ mãi là dấu chấm hỏi lớn đối với mọi người dân Hàn Quốc. Tuy có nhiều uẩn khúc nhưng có vẻ phía sở cảnh sát không muốn điều tra lại để che giấu những bí mật khác còn động trời hơn.
 

hoahongden12

Active Member

"Who put Bella in The Wych Elm", có nghĩa là "Ai đã đặt Bella vào cây du núi" là một dòng chữ viết theo phong cách graffiti trên tòa tháp cao chót vót ở Hagley, một ngôi làng nhỏ thuộc hạt Worcestershire, Anh. Ngày nay, du khách khi tới Worcestershire đều muốn đến thăm ngôi làng và tận mắt nhìn thấy dòng chữ này.

Dòng chữ này có điều gì mà lại thu hút đến vậy? Thực ra, nó không chỉ khiến du khách tò mò, mà nó còn là một sự nhắc nhớ lạnh gáy về một vụ án mạng bí ẩn và nổi tiếng nhất lịch sử Birmingham, khi mà suốt 75 năm qua, những tình tiết bí ẩn đã ăn sâu vào đời sống của cư dân địa phương và khiến cảnh sát đau đầu khi không thể tìm ra nguồn cơn sự việc và thậm chí là danh tính của nạn nhân.

Chuyện kể rằng, vào một buổi chiều tháng 4/1943, nhóm 4 cậu bé trong làng rủ nhau vào rừng Hagley - đất cũ của lãnh chúa Cobham, để tìm trứng chim. Chúng phát hiện bên trong một thân cây đã chết và thối rỗng một hộp sọ người chỉ còn sót lại vài chiếc răng và búi tóc. Hoảng sợ, tất cả bèn thống nhất là đặt thứ vừa tìm được về vị trí cũ và không bao giờ nhắc lại về nó nữa.

Thế nhưng, bí mật lại quá sức chịu đựng đối với Tommy Willetts - cậu bé ít tuổi nhất. Cậu đã kể chuyện cho bố mẹ và họ tìm gặp cảnh sát để trình báo.

Cảnh sát nhanh chóng vào cuộc và tìm được phần còn lại của thi thể chỉ còn lại xương trắng được che phủ bởi vài mảnh quần áo đã rách nát. Trên một bàn tay vẫn còn chiếc nhẫn cưới màu vàng trong khi một bàn tay khác đã biến mất. Tất cả đều được đặt rải rác trong thân cây du núi đã chết khô.

Người phụ nữ được xác định là chết ở độ tuổi khoảng 35, đã từng sinh con một lần. Giới điều tra cho rằng cô chết do bị ngạt thở, và đã ở trong thân cây này ít nhất là 1 năm; điều khiến nhiều người lạnh gáy là các nhà điều tra cho rằng cô được đặt vào thân cây du núi này khi vẫn còn sống và sau đó mới chết ngạt trong thân cây này. Bàn tay phải của nạn nhân sau đó cũng tìm được ở khu vực lân cận, đồng thời trong miệng nạn nhân, người ta cũng tìm thấy một mảnh vải taffeta.

Dù có kết quả xét nghiệm ADN từ răng và tóc, cảnh sát vẫn không thể xác định được danh tính nạn nhân. Thời điểm đó, chiến tranh thế giới thứ hai đang giai đoạn cao trào, cản trở phần nào việc điều tra vì nhiều người ra trận hoặc di cư đến nơi khác.

Giáng sinh năm đó, những dòng chữ bí ẩn được viết in hoa bằng phấn trắng bắt đầu xuất hiện trong làng, đều cũng chung một câu hỏi, rằng: “Ai đã bỏ Bella vào cây du núi?".

Những dòng chữ tương tự bắt đầu xuất hiện khắp thị trấn, và cảnh sát vẫn im lặng trước những động thái đó, đồng thời âm thầm điều tra. Đây là lần đầu tiên nạn nhân được gọi bằng một cái tên chính thức. Điều này chứng tỏ chủ nhân của bức vẽ có quen biết với người phụ nữ xấu số, hoặc cũng có thể đây chính là hung thủ trong vụ giết người man rợ, theo cảnh sát.

Hành động này thể hiện hắn ta đang cố tình chế giễu cảnh sát bằng cách gửi thông điệp thách thức. Cái tên Bella cũng dần trở nên nổi tiếng, khiến mọi người đều dần mặc định đó chính là tên của nạn nhân và cảnh sát cũng bắt đầu sử dụng cái tên đó.

Kết quả điều tra ban đầu đã truy lùng ra một cô gái bán hoa sống ở Birmingham có tên là Bella, người được báo cáo mất tích vào năm 1941, nhưng phía cơ quan điều tra vẫn chưa có kết luận chính thức nào.

Vào năm 1953, địa phương nhỏ bé này lại được một phen chấn động khi tròn 10 năm sau ngày Bella trong cây du núi được tìm thấy, một người phụ nữ tên Una Mossop đã khai báo rằng em họ của mình - Jack Mossop - đã cùng một người Hà Lan tên Van Ralt đặt một người phụ nữ vào trong cây du núi nọ; hai người đã làm thế khi đang say rượu. Câu chuyện nhanh chóng bị bác bỏ khi Jack Mossop là một bệnh nhân tâm thần và đã chết trước thời điểm Una khai báo được vài năm.

Qua thời gian, những giả thuyết mới đã được đưa ra.

Margaret Murray, một nhà nhân chủng học khẳng định vụ án này có liên quan đến thuật phù thủy. Bà cho rằng việc cắt bỏ bàn tay và nhốt cơ thể vào trong một thân cây rỗng là một trong những truyền thống cổ xưa nhằm một mục đích nào đó.

Giả thuyết khác lại xác định rằng nạn nhân là gián điệp người Hà Lan có tên Clarabella Dronkers, người đã chuyển thông tin mật cho Đức Quốc Xã và bị chính phủ Hà Lan thanh trừng vì tội phản bội. Và cái tên Bella trong những nét vẽ graffiti bí ẩn kia cũng được trích ra từ tên thật của người này.

Từ những năm 1970, câu hỏi gây ám ảnh này được sơn lên những bức tường trong lâu đài của công tước Wychbury Obelisk ở công viên Hagley. Đôi khi những bức vẽ này biến mất nhưng ngay sau đó sẽ có một bức vẽ mới thay thế, như thể luôn có người nào đó trong ngôi làng nhỏ muốn bí ẩn về Bella không chìm vào quên lãng.

Ngay cả lực lượng cảnh sát cũng vẫn không ngừng điều tra về vụ án. Hồ sơ được mở cho đến tận năm 1999, hơn nửa thế kỷ sau khi người ta phát hiện ra xác phụ nữ xấu số. Tuy nhiên, đến nay, hầu hết nhân chứng đều đã chết và danh tính thực sự của "Bella" cùng người đầu tiên viết dòng chữ trên có lẽ sẽ mãi là một ẩn số chưa có lời giải.
 

hoahongden12

Active Member

Ngày 15/9/1986, thành phố nhỏ Hwaseong yên bình chợt rúng động khi thi thể một bà lão 71 tuổi được phát hiện chết trong tình trạng phần dưới không mảnh vải che thân. Nó khởi đầu cho chuỗi giết người hàng loạt đầu tiên của lịch sử ngành điều tra tội phạm Hàn Quốc hiện đại. Hơn 180.000 cảnh sát được huy động để truy lùng hung thủ, với danh sách nghi can kéo dài tới 3000 cái tên.

1 - Cơn ác mộng bắt đầu

Ở khu vực thị trấn Taean (nay là huyện Taean), người dân tìm thấy thi thể của một người phụ nữ trong tình trạng bị cưỡng bức và siết cổ đến chết. Người phụ nữ này là bà Lee Wanim (71 tuổi), sinh sống ở gần bãi cỏ nơi người ta phát hiện thảm án.

Tuy nhiên, đây mới chỉ là sự khởi đầu của nỗi sợ hãi bao trùm thành phố này. Từ ngày 20/10/1986 đến ngày 3/4/1991, 9 vụ án mạng khác cũng diễn ra trong phạm vi bán kính 2km của khu vực thị trấn Taean, thành phố Hwaseong.

Nạn nhân là phụ nữ và không có độ tuổi nhất định, người trẻ tuổi nhất là 14 tuổi, người lớn tuổi nhất là 71 tuổi. Tất cả thi thể đều ở trong tình trạng vô cùng ám ảnh: bị cưỡng bức, siết cổ đến chết bằng chính trang phục của mình, một số nạn nhân bị đâm 19 nhát dao trên ngực và vết thương có 9 mảnh hạt đào.

2 - Vụ giết người hàng loạt đầu tiên ở Hàn Quốc

Ban đầu, cảnh sát chỉ tiếp cận vụ án mạng của bà Lee Wanim (nạn nhân đầu tiên) theo góc độ là một vụ án có tính chất nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra lại xảy ra các vụ án khác có tính chất tương tự khiến phương hướng điều tra bị nhiễu loạn. Sau cùng, cảnh sát phải công nhận rằng án mạng ở Hwaseong liên quan đến nhau. Sự việc này nhanh chóng thu hút sự quan tâm của người dân Hàn Quốc bởi đây là vụ giết người hàng loạt đầu tiên của lịch sử ngành điều tra tội phạm Hàn Quốc hiện đại.

Các nạn nhân gồm có:

1.Lee Wanim(71 tuổi):

Hiện trường: Annyeong-dong

Thời gian gây án: 6h20 ngày 15-9-1986

2.Park Hyunsook(25 tuổi):

Hiện trường: Jinan-dong

Thời gian gây án: 22h00 ngày 20-10-1986

3.Kwwon Jungbon(25 tuổi):

Hiện trường: Byeong-dong

Thời gian gây án: 23h00 ngày 12-12-1986

4.Lee Kyesook(23 tuổi):

Hiện trường: Gwanhang-ri

Thời gian gây án: 23h00 ngày 14-12-1986

5.Hong Jinyoung(19 tuổi):

Hiện trường: Hwanggye-dong

Thời gian gây án: 20h50 ngày 10-1-1987

6.Park Eunjoo(29 tuổi):

Hiện trường: Jinan-dong

Thời gian gây án: 23h00 ngày 2-5-1987

7.Ahn Gisoon(54 tuổi):

Hiện trường: Gajae-ri

Thời gian gây án: 21h20 ngày 7-9-1988

8.Park Sanghee(14 tuổi):

Hiện trường: Jinan-dong

Thời gian gây án: 2h00 ngày 14-9-1988

9.Kim Mijung(14 tuổi):

Hiện trường: Byeongjeom-dong

Thời gian gây án: 18h30 ngày 12-11-1990

10.Kwon Soonyang(69 tuổi)

Hiện trường: Bansong-dong

Thời gian gây án: 21h00 ngày 3-4-1991

Các điểm đáng chú ý:

1. Tất cả các nạn nhân đều là phụ nữ.

2. Tất cả các nạn nhân đều không ở một độ tuổi nhất định

3. Bộ phận sinh dục của các nạn nhân đều bị hung thủ phá hoại nghiêm trọng (vụ thứ 4-6-7-9)

4. Tại hiện trường vụ án, trong âm hộ của các nạn nhân đều có t*ng trùng, tóc, tàn thuốc lá…

5. Đa số các nạn nhân đều bị giết bằng cách bóp, siết cổ.

6. Hình thức giết người đối với nạn nhân đặc biệt tàn nhẫn, trong vết thương của các nạn nhân đều có 9 mảnh hạt đào và trên ngực mỗi nạn nhân đều có 19 vết dao đâm.

Chính phủ Hàn Quốc khi ấy đã huy động khoảng 180.000 cảnh sát và 2 triệu nhân viên chức năng tham gia quá trình điều tra. Họ lần theo các dấu vết hung thủ để lại như dịch cơ thể, tàn thuốc lá… nhưng vẫn không thể tìm được hắn, dù đã có hơn 3.000 nghi phạm, 40.116 mẫu vân tay, 570 mẫu ADN và 180 mẫu tóc được gửi đi phân tích ở nước ngoài. Có sự nhập cuộc của truyền thông, quá trình điều tra lan rộng, thế nhưng mọi thứ vẫn dần đi vào ngõ cụt. Người dân Hàn Quốc nơm nớp lo sợ bởi ngay cả khi bị ráo riết truy lùng, hung thủ vẫn thản nhiên gây án.

Chuỗi án mạng ở thành phố Hwaseong ảnh hưởng tới bất cứ kẻ nào đang có ý đồ sát nhân. Sau khi mọi cuộc điều tra đều đi vào ngõ cụt, cảnh sát mừng rỡ khi phát hiện ra tóc của hung thủ trên thi thể nạn nhân thứ 8 trong chuỗi án mạng. Cô gái bị sát hại là Park Sang Hee (14 tuổi), được tìm thấy trong phòng của mình ở làng Jinan, thị trấn Taean. Dựa theo mẫu tóc, cảnh sát tìm ra tên Yoon Mo (22 tuổi) là hung thủ, tuy nhiên, tên này lại không hề liên quan đến các vụ án trước đó.

Có nhiều tin đồn rằng cảnh sát đã tìm ra ba kẻ tình nghi của vụ án số 7, 9 và 10, nhưng cả 3, không biết vô tình hay hữu ý, đều đã tự sát.

3 - Những manh mối mơ hồ

Các manh mối trong vụ án tưởng chừng như rõ ràng nhưng lại không mấy hữu ích. Chân dung kẻ sát nhân được phác họa thông qua lời kể của một cô gái may mắn trốn thoát. Theo đó, hắn có nhóm máu B, độ tuổi 24 - 27, cao khoảng 165 - 170cm, để kiểu tóc gọn gàng và gương mặt thuộc dạng phổ thông, thân hình khá mảnh mai. Hắn đeo đồng hồ màu xanh lá cây, có hình xăm ở khớp khuỷu tay trái, ngón trỏ phải có vết cắn.

Manh mối thứ hai là khoảng cách giữa thời gian gây án của hung thủ. Ngoại trừ vụ án đầu tiên, các nạn nhân tử vong trong khoảng từ 19h đến 23h. Cảnh sát dự đoán hai trường hợp: hung thủ lựa chọn buổi tối để tránh ánh mắt của người khác hoặc đó là thời gian hắn tan làm hoặc tan học. Một giả thiết khác được đưa ra. Sau khi sát hại nạn nhân thứ 7 vào ngày 7/9/1988, phải đến 2 năm 2 tháng sau, hung thủ mới tiếp tục gây án vào ngày 15/11/1990.

Vậy nên phía cảnh sát cho rằng rất có thể, hung thủ đã tham gia nghĩa vụ quân sự vào thời điểm đó. Tuy nhiên, có giả thiết lại dự đoán hung thủ đã dừng tay ở vụ án số 7, vì vụ án số 9 và 10 rất có thể là “tác phẩm” của một kẻ khác.

Chuỗi án mạng ở Hwaseong là vụ án nghiêm trọng nhất ở Hàn Quốc tính đến thời điểm đó. Sự thiếu hụt về công nghệ pháp chứng và kỹ thuật pháp y gây cản trở trong việc phác họa chân dung của hung thủ. Thời gian vụ án càng kéo dài, cảnh sát càng khó điều tra về các bằng chứng và hiện trường gây án.

Năm 2004, khi một nữ sinh đại học bị sát hại ở Hwaseong, nhiều người cho rằng kẻ sát nhân năm nào đã quay trở lại. Thế nhưng một lần nữa, cảnh sát lại thất bại trong việc tìm kiếm tung tích của hung thủ. Họ không thể xác minh rằng liệu đây có phải là vụ án số 11 hay chỉ đơn thuần là một án mạng thông thường, vì Chuỗi án mạng ở Hwaseong đã diễn ra cách đó quá lâu.

32 năm trôi qua, Chuỗi án mạng ở Hwaseong vẫn là một trong những vụ án bí ẩn và ám ảnh bậc nhất Hàn Quốc. Cảnh sát từng lật hồ sơ vụ án khi điều luật về thời hạn 15 năm bị bác bỏ nhưng không thể tìm ra hung thủ. Năm 2003, vụ án này lại một lần nữa gây chấn động khi được chuyển thể thành bộ phim ăn khách Hồi Ức Kẻ Sát Nhân.

4 - Bộ phim Hồi Ức Kẻ Sát Nhân

Mở đầu bằng hình ảnh một vùng thôn quê yên bình ngập tràn ánh nắng với những cánh đồng lúa vàng ươm cũng lũ trẻ nô đùa nghịch ngợm. Kỳ thực, chúng ta đang theo chân thám tử Park Doo Man đến hiện trường của một vụ thảm án giết người. Hôm đó là ngày 23 tháng 10 năm 1986, mở đầu cho một vụ kỳ án mà sự kinh hoàng của nó vẫn ám ảnh nhiều người đến tận bây giờ.

Hồi Ức Kẻ Sát Nhân là một bộ phim chỉ có những câu hỏi mà không có câu trả lời, chỉ có những khúc mắc mà không có nút gỡ. Nhưng nó sẽ còn ám ảnh chúng ta như cái cách mà vụ án đã ám ảnh những người đã từng tham gia tìm lời giải đáp. Tất cả được khắc họa đầy chân thực nhưng nghiệt ngã, công lý không phải lúc nào cũng chiến thắng, nỗ lực không phải lúc nào cũng được đền đáp. Bản chất của mỗi người là một điều bí ẩn, thậm chí cả bản thân chúng ta cũng không hề hiểu hết. Để khám phá điều đó có thể là cả một hành trình u ám không hồi kết.

Bộ phim kết thúc ở đúng nơi mọi chuyện đã bắt đầu - cái hào giữa cánh đồng lúa vàng ươm vào một ngày mùa thu, với ánh mắt bàng hoàng của thám từ Park nhìn thẳng vào người xem. Ánh mắt đó như nói lên rằng ở ngoài kia, kẻ thủ ác vẫn còn tự do, âm thầm lẩn khuất đâu đó giữa chúng ta. Và giờ đây, hắn đang nhớ lại những gì hắn đã từng làm.

Chuỗi án mạng ở Hwaseong mãi cho đến bây giờ vẫn là một nỗi nhức nhối cho xã hội nói chung và ngành cảnh sát Hàn Quốc nói riêng. Kẻ thủ ác tàn độc đó vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Chẳng ai biết rằng hắn ra sao, đã chết hay vẫn còn trên đời này, đã thôi gây tội lỗi hay vẫn còn ủ mưu trên những xác người vô tội…
 

hoahongden12

Active Member

1 - Nạn nhân chỉ là một anh thợ xây dựng lành tính

Tên của chàng trai xấu số ấy chính là Blair Adams (28/12/1964 - 11/7/1996) hay còn gọi là Robert Dennis Blair Adams. Theo ghi nhận anh là một thợ xây dựng người Canada, 31 tuổi - một người tốt bụng và lành tính. Tất cả bạn bè cũng như đồng nghiệp đều nói rằng anh là một người rất lạc quan, gần như lúc nào cũng cười. Chính vì thế, chuyện có một ai đó thù hằn và gây ra cái chết cho anh là điều khó tin.

2 - Chuỗi hành vi lạ lùng trước thời điểm án mạng

Khoảng một tuần trước khi gặp bi kịch (bắt đầu từ ngày 5/7/1996), Blair Adams bắt đầu cư xử rất lạ lùng, nói với mọi người rằng có người đang muốn ám sát mình. Anh bắt đầu rút tiền từ tất cả các tài khoản ngân hàng cũng như các loại vàng, bạc, đá quý nhưng để làm gì thì đến người nhà cũng chẳng hiểu.

Vào ngày 7/7, Blair Adams có mặt ở biên giới Canada - Mỹ, nhưng lại bị từ chối nhập cảnh vì phần đi một mình và đang mang theo một số tiền lớn. Điều này khiến phía cảnh sát nghi ngờ anh có ý đồ buôn ma túy trái phép. Theo đó, lý do Blair chọn Mỹ là nơi để trốn "kẻ giết người" cho đến nay vẫn chưa được giải đáp.

Vào ngày 8/7 - một ngày sau khi bị từ chối nhập cư vào Mỹ, Blair đến chỗ làm và xin nghỉ việc. Sau đó, anh nhanh chóng mua 1 vé máy bay khứ hồi đi từ Vancouver, Canada đến Frankfurt, Đức.

Điểm đặc biệt là chỉ vài tiếng sau khi đặt mua vé thành công, Blair đến nhà một người bạn và yêu cầu họ giúp anh qua biên giới vì anh đang bị săn đuổi. Sau khi người bạn từ chối giúp, anh rời đi.

Vào ngày 9/7. Blair hủy vé của mình, thuê một chiếc xe và lái đến Seattle. Vẫn không dừng lại ở đây, sau khi đến được nước Mỹ, Blair tiếp tục mua một vé máy bay một chiều đến Washington, DC.

Một ngày sau khi đến Washington, DC, vào ngày 10/7, anh tiếp tục thuê một chiếc Toyota và đã chạy hơn 800km để đến Knoxville, Tennesee. Thêm một điều lạ lùng rằng theo kết quả điều tra, nạn nhân không hề có người quen hay bạn bè gì trong khu vực này. Dấu chấm hỏi lớn vì sao đến địa điểm này vẫn chưa có lời giải sau ngần ấy năm.

Vào lúc 5:30 PM, Blair dừng lại ở một trạm xăng và nói rằng xe của mình bị hư. Nguyên nhân cụ thể mà chàng trai này nói là do chiếc chìa khóa mình đang cầm không phải là chìa khóa của xe này.

Người quản lý nói rằng họ sẽ nhận đưa chiếc xe này đi sửa và làm lại chìa khóa mới. Ngoài ra, người quản lý còn chở Blair đến một khách sạn. Nên nhớ, tất cả những điều này đều xảy ra một cách ngẫu nhiên, người quản lý trạm xăng cũng như khách sạn mà nạn nhân ở đều hoàn toàn là tự phát và không hề được lên kế hoạch trước.

Theo lời của người tiếp tân lúc đó, Blair Adams đi qua đi lại khu vực sảnh của khách sạn hơn 5 lần trong suốt 1 tiếng đồng hồ trước khi đặt phòng. Trong suốt 1 tiếng đồng hồ đó, có vẻ như Blair rất lưỡng lự trong việc đặt phòng. Sau khi đã đặt phòng và được dẫn đến phòng của mình, Blair chỉ nhìn phòng và sau đó ra khỏi khách sạn, chưa bao giờ bước vào phòng.

Sau khi xem lại thước phim được quay lại bằng CCTV khách sạn, những người điều hành lúc đó miêu tả hành vi của Blair Adams:" Chắc chắn lúc này anh ta khá lo lắng, bồn chồn, có vẻ như đang lo sợ rằng sẽ có ai đó đến tìm mình mặc dù không hề có ai ở đó cả. Không ai biết được lúc đó anh ta có đang chờ ai không, nhưng hành vi của anh thật sự nhìn rất lạ, và không hề vui vẻ tí nào cả."

3 - Hiện trường vụ án gây hoang mang cánh điều tra

12 tiếng sau khi rời khỏi khách sạn, xác của Blair Adams được tìm thấy tại một bãi đỗ xe cách khách sạn khoảng 400m. Hiện trường vụ án thật sự đã làm cho những bên điều tra rất bối rối bởi nạn nhân đang trong trình trạng lõa thể. Tìm tiết khó hiểu nhất chính là không chỉ chiếc quần đã bị lộn ngược, ngay cả đôi tất nạn nhân đang mang cũng đã bị lộn ngược. Giày và áo nạn nhân bị rạch ở một vài chỗ.

Ngoài số tiền có giá trị 4,000 USD bằng các mệnh giá của Đức, Mỹ, Canada, có một chiếc túi nhỏ bên cạnh nạn nhân chứa đầy các loại đá quý, vàng, bạc, trang sức. Tất cả vẫn còn nguyên vẹn.

Chiếc chìa khóa xe không hề bị hỏng

Không dừng ở đó, hiện trường còn xuất hiện chiếc chìa khóa xe nạn nhân đã thuê vài ngày trước khi chết và nó không bị hỏng như anh ta từng nói. Trên cơ thể của nạn nhân xuất hiện một vài vết bầm và xước. Tuy nhiên, nguyên nhân tử vong ban đầu lại được xác định là một cú đập mạnh vào khu vực bao tử, cú đập này làm lủng dạ dày, dẫn đến cái chết của nạn nhân.

Bước đầu cơ quan điều tra đã loại những khả năng bao gồm giết người cướp của, buôn ma túy cũng như mại dâm. Mặc dù hiện trường được dàn dựng khá lạ lùng nhưng toàn bộ số tiền cũng như tất cả các loại đá quý, trang sức vẫn còn nguyên, cho thấy rằng động cơ chắc chắn không phải vì tiền.

Tiếng thét lúc 3:30 sáng

Cung vào thời điểm án mạng, một bảo vệ tại một doanh nghiệp địa phương đã báo cáo rằng ông đã nghe thấy một tiếng hét lớn vào khoảng 3:30 AM. Tuy nhiên, ông nghĩ đó là một giọng phụ nữ.

Một điều thú vị mà các thám tử đã tìm thấy là mặc dù nạn nhân đã từng dính vào con đường nghiện ngập nhưng quá trình khám nghiệm tử thi không hề cho bất kì kết quả dương tính nào với các hợp chất như cồn cũng như các chất gây nghiện khác.

Nạn nhân là người đồng tính

Khi điều tra kĩ hơn, các thám tử cũng nhận thấy rằng nạn nhân không hề có tiền sử mắc bệnh tâm lí cũng như các hội chứng rối loạn. Theo lời kể của mẹ nạn nhân, Blair Adams từng có một mối quan hệ tình cảm với một người đàn ông khác.

Kẻ tình nghi không tồn tại

Vụ án không có nghi phạm chính thức nào. Tuy nhiên, 2 người phụ nữ khai rằng đã thấy Blair Adams nói chuyện với một người đàn ông vào buổi tối trước vụ án mạng, và bản vẽ này đã được cung cấp để điều tra. Tuy nhiên, người trong bức hình này đã không được tìm thấy, và gần như bị loại khỏi diện tình nghi.

5. Cái kết lửng

Dựa theo lời khai của những người có mặt trong khu vực, cảnh sát đã có thể tìm ra một quán ăn nhỏ mà Blair đã đến buổi tối trước khi bị sát hại. Tuy nhiên, những đầu mối này rồi cũng rơi vào ngõ cụt. Không có nhiều giả thuyết cho vụ án này, kể cả nghi phạm cảnh sát cũng không thể tìm ra. Vì thế, cái chết của một thợ xây dựng cùng với một số tiền lớn quanh mình cho đến nay vẫn là một bí ẩn.
 

hoahongden12

Active Member

Tuổi thơ bị lạm dụng

Pedro Lopez sinh ngày 8/10/1949 tại Tolmia, Colombia. Thời điểm ấy, vùng đất này đang chìm trong tình trạng rối loạn vì cuộc nội chiến ở Columbia. Cha đi lính, chỉ còn người mẹ ở nhà nuôi 13 người con, trong đó Lopez là đứa con thứ 7. Tuổi thơ của Lopez có lẽ vẫn sẽ như bao đứa trẻ bình thường khác, Lopez cũng từng ước mơ trở thành một giáo viên giống mẹ.

Nhưng mọi thứ thay đổi sau khi người cha vừa mới hy sinh ngoài chiến trường, mẹ bị cưỡng hiếp, từ một giáo viên trở gái bán dâm kiếm tiền nuôi các con. Lopez và các anh chị em thường xuyên nhìn thấy cảnh những người đàn ông thay nhau đến nhà và quan hệ tình dục với mẹ.

Nhà tâm lý học, Tiến sĩ Nicola Davies tin rằng đây là lý do khiến Pedro nhận thức về tình dục ở độ tuổi còn quá nhỏ, từ đó gây nên những hậu họa khôn lường trong tương lai.

Khi Pedro Lopez lên 8, người mẹ bất ngờ bắt gặp hắn có hành động không đứng đắn, ôm và chạm vào ngực em gái mình, từ đó hắn bị đuổi ra khỏi nhà mãi mãi. Lopez trở thành kẻ ăn xin trên các đường phố Colombia đầy rẫy bạo lực và phải tự chống chọi với những thứ đáng sợ khi còn quá nhỏ.

Đang trong lúc tuyệt vọng, hắn gặp được một người đàn ông lớn tuổi hứa cho đồ ăn và nơi ở hàng ngày. Những tưởng được kéo lên khỏi vũng bùn tăm tối, nhưng Pedro Lopez lại bị lừa.

Người đàn ông đưa hắn tới một căn nhà hoang thực hiện hành vi cưỡng hiếp, rồi lại ném Pedro Lopez ra ngoài đường một lần nữa. Sau cuộc tấn công, Lopez lòng đầy hận thù và tự thề rằng hắn sẽ làm điều tương tự với bất kỳ cô gái nào mà hắn có thể.

“Pedro đã bị lạm dụng vào thời điểm hắn dễ bị tổn thương nhất”, tiến sĩ Davies nói, “Có lẽ, sự kiện này chính là bước ngoặt ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách, khiến cuộc đời hắn rẽ sang một hướng hoàn toàn khác. Sự thiếu tin tưởng vào lòng tốt của người lạ khiến hắn sợ hãi, chỉ khi có một mình hắn mới cảm thấy mình an toàn”.

Bị lạm dụng, Lopez sợ hãi trốn biệt vào ban ngày và chỉ ra vào ban đêm để tìm kiếm, nhặt nhạnh đồ ăn thừa trong thùng rác. Năm 10 tuổi hắn rời khỏi Tolmia và đi lang thang đến thị trấn Bogota. Một gia đình người Mỹ tốt bụng nhận hắn về nuôi rồi cho đi học ở trường chuyên dành cho trẻ mồ côi.

Nhưng năm 12 tuổi, Lopez tiếp tục bị thầy giáo quấy rối. Một lần nữa chạy trốn trong tuyệt vọng, hắn trở lại cuộc sống trước kia và biến thành một đứa trẻ chuyên đi ăn xin, móc túi, ăn cắp xe và bán lại cho tiệm cầm đồ ở địa phương.

Sát nhân “điên rồ”

Cuộc đời vào tù ra tội cũng từ đó bắt đầu. Năm 18 tuổi, lần đầu tiên Lopez bị ngồi tù 7 năm vì ăn cắp xe hơi. Nhưng chỉ vừa mới vào tù vài ngày, 4 tù nhân khác đã lao vào cưỡng bức Lopez. Lên cơn tức giận, hắn đã giết 3 trong 4 người đàn ông đó. Cảnh sát Columbia phạt hắn thêm 2 năm tù giam vì hành vi giết người để tự vệ.

Cuộc đời với quá nhiều lần bị tấn công tình dục, Lopez đổ lỗi cho người mẹ bán dâm đã đẩy mình đến con đường này. Hắn hận phụ nữ và luôn nung nấu ý định trả thù tất cả phụ nữ.

Năm 1978, Lopez được trả tự do, hắn rời bỏ Columbia để đến Peru. Nhưng thay vì làm lại cuộc đời, hắn lại bắt tay vào thực hiện ý tưởng điên rồ nung nấu bấy lâu nay. Suốt một thời gian dài, Lope liên tục bắt cóc, cưỡng bức và sát hại các cô gái trẻ Peru.

Mãi cho đến khi bộ tộc người Ayachucos tóm được Lopez khi hắn đang định bắt cóc một bé gái 9 tuổi. Trước hành vi đồi bại và dã man, hắn bị tra tấn, đánh đập, bị đem đi chôn cát lên đến tận cổ và chỉ chờ ngày chết. Chứng kiến cảnh tượng đó, một nữ tu rủ lòng thương nên đã thuyết phục bộ tộc này giao hắn cho cảnh sát Peru và “trục xuất” Lopez về Colombia.

Nhưng thay vì Colombia, Lopez bị trục xuất sang Ecuador. Tại đây, hắn tiếp tục lang thang khắp Ecuador, tiếp tục hành vi tội ác. Việc các cô gái mất tích khiến cảnh sát phải mở cuộc điều tra, những gia đình có con gái mất tích cũng liên tục đăng tin trên báo để tìm con. Nhưng cuối cùng cảnh sát không tìm ra manh mối hay chứng cứ nên họ kết luận những cô gái này có thể bị bắt cóc và bán đi làm nô lệ tình dục.

Mãi cho đến tháng 4/1980, một trận lũ quét đi qua để lộ ra thi thể của 4 cô gái trẻ bị giết hại với nguyên nhân gây tử vọng giống hệt nhau. Từ đó cảnh sát đi đến kết luận, đây là vụ giết người hàng loạt.

Lần theo dấu vết một thời gian sau, Lopez bị cảnh sát tóm gọn khi đang dụ dỗ bắt cóc một bé gái trong khu phố buôn bán tấp nập người qua lại. Ban đầu, hắn chối bỏ tất cả tội lỗi và tỏ thái độ không hợp tác. Phải đến khi một mục sư tên Cordova Gudino giả dạng làm tù nhân cùng phòng tiếp cận và thuyết phục, Lopez mới chịu nhận tội.

Hắn đã dẫn cảnh sát đến ngôi mộ có 59 nạn nhân của mình, tất cả đều ở độ tuổi từ 9-12 tuổi. Sau vụ việc đó, hắn được mệnh danh là “Quái vật của Andes”. Năm 1983, tên sát nhân bị kết tội giết 110 cô gái trẻ ở Ecuador và bản thân hắn cũng tự thú nhận giết hơn 240 cô gái khác ở Peru cũng như Colombia.

Cách thức giết người của Lopez thường theo mô tuýp đi bộ trên những con phố, theo dõi đối tượng và lôi kéo các cô gái bằng cách hứa sẽ cho họ những món quà đắt tiền. Kẻ sát nhân thường đưa các cô gái đến gần với những ngôi mộ của những cô gái bị giết trước đó. Lúc bình minh đến, hắn sẽ cưỡng bức và siết cổ nạn nhân đến chết.

Để thỏa mãn hành vi bệnh hoạn của mình, Lopez chăm chú nhìn vào mắt nạn nhân cho đến khi họ trút hơi thở cuối cùng.

Theo hãng tin The Richest, Lopez là kẻ sát nhân “điên rồ”. Sau khi giết người, hắn ta sẽ chôn các nạn nhân trong một ngôi mộ nông để sau này có thể quay lại và “chơi” với họ. Kẻ giết người hàng loạt còn bệnh hoạn đến mức thường xuyên tổ chức tiệc trà và trò chuyện “hoang tưởng” với những xác chết này. Cho đến khi cảm thấy những thi thể hoàn toàn cứng đơ, không còn phản ứng, hắn lại tiếp tục tìm kiếm cô gái trẻ khác.

Trong thời gian ngồi tù, Lopez từng nói: “Tôi thích những cô gái ở Ecuador, họ hiền lành, cả tin và ngây thơ hơn. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc sau mỗi lần lại được giết người, đó là sứ mệnh của cuộc đời tôi”.

Tức giận, uất ức trước hành vi dã man, thú tính của tên sát nhân, nhiều người thân của một số nạn nhân còn “treo thưởng” 25.000 USD (khoảng gần 600 triệu đồng) cho những ai giết được Lopez khi hắn ngồi trong tù.

Theo quy định luật pháp của Ecuador, Lopez chỉ phải ngồi tù tối đa 16 năm và đến ngày 31/8/1994 hắn được trả tự do. Chỉ 1 giờ sau đó, Lopez nhanh chóng bị bắt lại vì nhập cư bất hợp pháp vào Colombia. Nhưng thay vì phải tiếp tục ngồi nhà đá, hắn bị kết luận có vấn đề về thần kinh và được chuyển đến bệnh viện tâm thần ở Bogata vào năm 1995.

Tháng 2/1998, kẻ sát nhân một lần nữa được thoát khỏi cảnh nhà đá, bởi bác sĩ bệnh viện tâm thần nói rằng hắn đã khỏi bệnh. Hắn quay trở về thăm bà mẹ già của mình rồi biến mất không dấu vết. Nhiều người cho rằng, khả năng hắn đã quay trở lại Ecuador, nơi rất nhiều nạn nhân bị chết dưới tay hắn ta.

Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) đã ra lệnh truy nã Pedro Lopez vì tình nghi gây ra một vụ án mạng vào năm 2002. Tuy nhiên, từ khi được thả ra, không ai nhìn thấy hay nghe thấy bất kỳ tin tức nào của kẻ sát nhân dã man này.
 

hoahongden12

Active Member

Lịch sử nhân loại sản sinh ra nhiều vĩ nhân nhưng cũng không ít những gã bệnh hoạn, giết người hàng loạt, gieo rắc sự chết chóc trên khắp hành tinh. Những cái tên như Jack đồ tể, sát thủ Zodiac, máy chém Liên Xô... đã quá nổi tiếng với nhiều giai thoại rùng rợn, kinh hoàng.

Tuy nhiên, có một cái tên mà ít người biết tới: Luis Garavito, kẻ sát nhân người Colombia khét tiếng một thời. Từng có thời điểm, Luis Garavito là cơn ác mộng của người dân Colombia nói chung và những đứa trẻ đường phố nói riêng khi tên ác nhân này luôn nhắm vào đối tượng trẻ em để thỏa mãn "thú tính" khát máu tàn bạo của hắn.

"Ác quỷ" vùng Nam Mỹ

Luis Garavito còn được biết tới với cái tên "La Bestia" - ác thú. Hắn ta được mệnh danh là kẻ giết người tàn ác nhất lịch sử khi đã ra tay sát hại hơn 140 trẻ em. Tuy nhiên, ngoài những con số đã được kiểm chứng và xác nhận đó ra, người ta cho rằng kẻ sát nhân này đã hạ sát hơn 300 người, dựa trên những bản đồ hắn vẽ khi còn trong tù.

Sinh ra tại một vùng đồn điền cà phê miền tây Colombia, Gavarito là con cả trong một gia đình gồm 7 anh chị em. Tuổi thơ của hắn ta là những chuỗi ngày bị cha đánh đập và bị hai người đàn ông hàng xóm hiếp dâm.

Garavito cũng là một kẻ nghiện ngập nặng và từng phải điều trị suy nhược thần kinh. Hắn ta từng khai nhận rằng phần lớn các vụ giết người được tiến hành sau khi hắn say rượu. Garavito chỉ học hết lớp 5 rồi sau đó bỏ nhà năm 16 tuổi. Ban đầu, hắn làm việc tại một cửa hàng rồi sau đó bán hàng rong trên phố. Đó là thời gian hắn lân la và làm quen với nhiều đứa trẻ đường phố và thực hiện hàng trăm vụ giết người táo tợn.

Kẻ sát nhân không ghê tay

Vụ án đầu tiên mà Garavito thực hiện là vào năm 1992. Chính quyền địa phương không hề biết gì về vụ giết người hay tên sát nhân hàng loạt cho tới khi 25 thi thể được tìm thấy tại phía tây thành phố Pereira. Phần lớn các nạn nhân của hắn đều là nam, tuổi đời từ 8-16. Đa phần chúng đều là trẻ em đường phố hoặc những đứa trẻ bán hàng rong.

Garavito thường lấy lòng tin của đám trẻ bằng cách cho chúng quà tặng hoặc tiền, sau đó dẫn chúng đi một quãng đường dài tới những nơi vắng vẻ. Một khi đứa trẻ mệt mỏi, hắn sẽ khống chế, hãm hiếp trước khi giết chúng. Garavito còn được biết tới với những cái tên như "Goofy", "El Loco" và "The Priest". Hắn ta thường giả vờ là người bán hàng rong, giáo sĩ, người tàn tật hoặc người đại diện cho một tổ chức gì đó vì trẻ em và người già để có thể lén vào trong trường học.

Phương thức giết người của Garavito thường là cắt cổ của nạn nhân hoặc đâm các nạn nhân bằng tuốc nơ vít, dao và sau đó cắt thi thể của nạn nhân ra thành các phần nhỏ hơn. Điều tra một vài thi thể cho thấy nhiều nạn nhân còn phải chịu đựng sự tra tấn dai dẳng trước khi bị giết chết.

Năm 1994, hắn ta di chuyển nhiều hơn giữa các vùng tại Colombia và thậm chí sang cả Ecuador. Các nhà điều tra đang xem xét liệu có vụ án nào mà hắn thực hiện tại Ecuador hay không. Phần lớn các vụ giết người diễn ra tại phía tây của tỉnh Risaralda và thành phố Pereira.

Án tù 1853 năm

Garavito bị bắt giữ vào năm ngày 22/4/1999 và phải chịu mức án phạt 30 năm tù giam. Hắn ta bị buộc tội giết 172 người, tuy chỉ có hơn 140 vụ được điều tra và xác nhận một cách chính thức. Trong thời gian bị giam giữ, Garavito đã giúp cảnh sát tìm ra thi thể của các nạn nhân. Những lời thú tội của hắn đã giúp giảm nhẹ tội xuống còn 22 năm tù.

Vì những biểu hiện tốt của Garavito trong tù, chính quyền đã có ý định cho hắn ra tù sớm nhưng vấp phải sự chỉ trích của cộng đồng. Người dân Colombia sợ rằng 22 năm tù giam là quá nhẹ và không đủ tính răn đe với tội trạng của Garavito. Một là hắn nên nhận án tù chung thân, hai là xử tử.

Tuy nhiên, luật pháp Colombia không hề có án tù chung thân hay tử hình. Trước đó, họ không ngờ rằng sẽ có những vụ án giết người hàng loạt theo kiểu như vậy. Dưới áp lực và sự tức giận của công chúng, luật pháp đã được điều chỉnh và mức án cao nhất cho tội giết người đã được tăng lên 60 năm.

Trên thực tế, với những vụ giết người mà Garavito đã gây nên, tổng thời gian ở tù của hắn ta phải là 1853 năm và 9 ngày nhưng vì những hạn chế trong luật pháp Colombia, tổng hình phạt cho hắn vẫn chỉ dừng ở mức 60 năm.
 

hoahongden12

Active Member

Nhắc đến các vụ án giết người hàng loạt tại Mỹ, nhiều người vẫn không khỏi bàng hoàng khi nghe cái tên Richard Speck, kẻ đã giết hại 8 nữ y tá tại bệnh viện cộng đồng, nam Chicago chỉ trong một đêm vào năm 1966. Vụ việc đã trở thành nỗi ám ảnh với nhiều sinh viên trên toàn nước Mỹ, đặc biệt là các nữ sinh.

Trước khi vụ giết người kinh hoàng xảy ra vào ngày 13/6/1966, Speck cũng từng dính đến các vụ án khác với nhiều tiền án tiền sử. Tuy nhiên, phải mãi đến khi vụ án rùng rợn, cướp đi mạng sống của 8 nữ y tá diễn ra tại khu phía nam Chicago, người ta mới thực sự nhớ đến kẻ sát nhân này là ai.

Một đêm yên bình tại khu phố 100, Chicago, cô gái 23 tuổi Corazon Amurao mở cửa nhà khi nghe thấy tiếng gõ cửa của Speck. Amurao không ngờ rằng, gã đàn ông đó chính là kẻ gây nên cơn ác mộng tại ký túc xá này. Ngay khi bước vào, hắn đã dùng súng để khống chế các cô gái. Sau khi trói tất cả mọi người, hắn mới ra lệnh cho họ bỏ hết tiền bạc ra khỏi ví. Sau đó, tất cả bọn họ đều bị tra tấn dã man trong vài giờ đồng hồ

Hắn trói cả 9 cô gái, độ tuổi từ 18-24 và nhốt họ trong một phòng. Kẻ giết người dẫn từng y tá sang một phòng khác trong tòa nhà. Tại đây, hắn đã giờ trò hiếp dâm, đánh đập tra tấn và giết hại lần lượt tám cô gái bằng cách bóp cổ hoặc đâm tới chết.

Corazon Amurao, một y tá trao đổi người Philippines đã may mắn sống sót khi cô lẩn trốn dưới giường trong khi hắn không có mặt trong phòng. Speck không nhận ra cô gái mở cửa cho mình đã biến mất nên sau khi giết chết 8 cô gái còn lại, hắn đã rời đi với số tiền ăn trộm.

Amurao sau đó đã cảnh báo cho chính quyền bằng cách trèo qua cửa sổ căn nhà và hét lớn: "tất cả đều chết rồi, bạn tôi vừa chết hết rồi. Lạy chúa, chỉ còn mình tôi sống thôi".

Sau đó, cảnh sát đã có mặt để điều tra hiện trường. Amurao đã bị phỏng vấn để tìm ra tung tích hung thủ. May mắn thay, cô đã nhớ được hình xăm "Born to Raise Hell" của Speck. Cảnh sát đã lần ra bắt kẻ gây án dựa vào những miêu tả của Amurao và hồ sơ tội phạm trước đó của hắn.

Trên khắp các trang báo thời điểm bấy giờ đều đưa tin về vụ sát hại dã man 8 cô y tá của Speck. Ngày 19/6/1966, Speck đã cố gắng cắt tay tự tử. Tuy nhiên sau đó, hắn đã thay đổi ý định và kêu cứu rồi được đưa tới bệnh viện hạt Cook. Tại đây, các bác sĩ đã phát hiện ra hình xăm trên cánh tay của hắn mà Amurao đã miêu tả cho cảnh sát.

Vụ án khép lại khi Speck bị tuyên án 1,200 năm tù giam (mỗi tội giết người phạt tù 150 năm) vào năm 1972. Tuy nhiên, hắn đã qua đời vào năm 1991, chỉ sau 19 năm trong tù.
 

hoahongden12

Active Member

Hamilton Howard "Albert" Fish là một trong những kẻ giết người hàng loạt khét tiếng trong lịch sử tội phạm Mỹ, được biết đến với biệt danh Lão già đầu bạc, Ma sói vùng Wysteria, Ma cà rồng vùng Brooklyn.

Tên tội phạm nguy hiểm bị cáo buộc gây ra 5 vụ án mạng và hàng trăm vụ lạm dụng tình dục đối với trẻ em.

Tuổi thơ đau đớn vì bị lạm dụng trong trại tế bần

Fish sinh ngày 19/5/1870 tại Washington D.C trong một gia đình "không bình thường". Cha hắn lớn hơn mẹ hắn tận 43 tuổi nên khi hắn ra đời cha hắn đã là một ông lão 75 tuổi.

Gia đình Fish còn có tiền sử về bệnh thần kinh. Chú hắn bị điên, một người anh trai bị nhốt trong trại tâm thần trong khi chị gái cũng bị chẩn đoán là "rối loạn thần kinh".

Ba người họ hàng khác cũng không ngoại lệ, còn mẹ hắn thì mắc chứng bệnh ảo giác thính giác và thị giác.

Sau khi cha của Fish mất vì đau tim, bà mẹ bệnh tật đã gửi hắn tới trại tế bần Saint John, nơi hắn thường xuyên bị lạm dụng. Đó là nơi đã hủy hoại tâm hồn hắn.

Fish ở trong trại tế bần cho tới khi gần lên 9. Tại đây hắn đã bị đánh đập dã man tới nỗi tìm thấy sự thỏa mãn trong nỗi đau đớn về thể xác.

Cũng chính tại nơi đây, hắn đã phải chứng kiến những điều đáng ra không nên biết để rồi cuộc đời hắn rẽ sang một hướng khác, tăm tối và bệnh hoạn.

Năm 1880, sau khi xin được một công việc biên chế ổn định, mẹ Fish đón hắn ra khỏi trại tế bần. Năm 1882, ở tuổi 12, Fish đã bắt đầu có quan hệ lệch lạc với một cậu bé điện báo.

Từ đó, hắn thường xuyên tới phòng tắm công cộng để ngắm nhìn các chàng trai khỏa thân và viết thư khiêu dâm cho những người phụ nữ đã để lại địa chỉ trên các mẩu quảng cáo của các công ty môi giới hôn nhân.

Cuộc đời bế tắc của tên sát nhân bệnh hoạn

Năm 1890, Fish tới thành phố New York dấn thân vào nghề mại dâm nam và bắt đầu săn các bé trai để hãm hiếp.

Năm 1898, qua sự mai mối sắp xếp của mẹ, hắn lúc này là một thợ lăn sơn đã cưới được một người phụ nữ nhỏ hơn mình 9 tuổi và có tổng cộng 6 người con: Albert, Anna, Gertrude, Eugene, John, và Henry Fish.

Trong quãng thời gian này, hắn vẫn tiếp tục lạm dụng tình dục trẻ em. Nạn nhân chủ yếu là những bé trai dưới 6 tuổi.

Mặc dù vậy, hắn vẫn làm đủ trách nhiệm của một người chồng, người cha tốt cho tới khi người vợ bỏ đi năm 1917 để lại gánh nặng nuôi nấng 6 đứa con lên vai hắn.

Kể từ đó trở đi, Fish đã biến thành kẻ lập dị với nỗi ám ảnh về thịt sống. Có lần hắn còn để nguyên cả thịt sống cho các con ăn.

Sau khi 6 người con trưởng thành và có cuộc sống riêng, Fish lúc này ở cùng với cậu con trai cả Albert Jr. và thường xuyên đọc những cuốn sách về tội phạm.

Có lẽ những ám ảnh từ trại tế bần cùng chứng bệnh hoang tưởng di truyền đã khiến hắn ngày càng chìm sâu vào những suy nghĩ đen tối và quái đản để rồi gây ra hàng loạt vụ án mạng kinh hoàng.

Vào ngày 3/6/1928, Fish đã bắt cô bé Grace Budd (12 tuổi) tới một căn nhà tồi tàn để thực hiện hành vi đồi bại, ra tay sát hại dã man rồi xẻ thịt nạn nhân.

Tuy nhiên, sau khi thủ ác, hắn còn cả gan gửi thư tới gia đình Budd để miêu tả lại quá trình gây án như thách thức các cơ quan chức năng.

Sau đó, Fish đã bị bắt và tại sở cảnh sát, hắn đã khai nhận tất cả. Ngoài nạn nhân Grace Budd, tên sát nhân ăn thịt người còn giết hại một người đàn ông ở Delawware năm 1910, một bé gái 12 tuổi năm 1917, bắt giữ và lạm dụng một cậu bé cho đến chết vào năm 1919.

Số nạn nhân mà Fish khai nhận sát hại lên tới hàng trăm người nhưng chính vì tiền sử tâm thần nên cảnh sát cần thời gian để xem xét và điều tra thật kỹ.

Vài năm sau, hắn chính thức nhận án tử hình cho những hành vi không phải của con người. Mặc cho luật sư bào chữa cố bảo vệ thân chủ với lý do hắn mắc bệnh tâm thần nhưng lập luận này đã bị tòa bác bỏ.

Tên Ma sói Albert Fish cuối cùng vẫn phải nhận hình phạt tra tấn trên ghế điện cho tới chết để trả giá cho những tội ác mà hắn đã gây ra.
 
Bên trên